Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu.
Lịch sử phát triển nền kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng không một quốc gia nào có thể duy trì được nền kinh tế tự túc khép kín. Bởi để duy trì nó thì phải bỏ ra rất nhiều nguồn lực song hiệu quả lại không cao. Trong khi đó yếu tố nguồn lực thì ...
Lịch sử phát triển nền kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng không một quốc gia nào có thể duy trì được nền kinh tế tự túc khép kín. Bởi để duy trì nó thì phải bỏ ra rất nhiều nguồn lực song hiệu quả lại không cao. Trong khi đó yếu tố nguồn lực thì có hạn, đối lập hẳn với thực tế nhu cầu của con người là vô hạn và rất đa dạng. Lý thuyết về thương mại quốc tế giúp chúng ta nhận thấy các quốc gia đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế và lợi ích rõ nhất mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được từ thương mại quốc tế mà nó có thể bù đắp và bù đắp một cách hiệu quả những nhu cầu của con người ta về một loaị hàng hoá nào đó mà nội địa chưa hoặc không có khả năng đáp ứng được.
Với ý nghĩa ấy, Nhập khẩu được hiểu là hoạt động mua hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước từ nước ngoài nhằm mục tiêu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất trong nước và là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng giữa các quốc gia. Nhập khẩu là một trong những hoạt động cốt lõi của thương mại quốc tế
Ngày nay, dưới tác động của xu thế tự do hoá thương mại, hầu hết các quốc gia đều nỗ lực tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, đều hướng các chính sách kinh tế, thương mại của quốc gia mình theo khuôn khổ các khối mậu dịch mà họ sẽ tham gia ở tầm khu vực như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ( NAFTA), ... ở cấp độ liên lúc địa như ASEM, và cao hơn nữa là cấp độ toàn cầu như tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong bối cảnh ấy hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh ở phạm vi quốc tế. Không phải là những hành vi buôn bán lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong nước và bên ngoài nước nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Như vậy, hoạt động nhập khẩu tác động trực tiếp lẫn gián tiếp tới sản xuất và đời sống trong nước, nó có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao cũng như gây thiệt hại cho nền kinh tế trong nước do tính chất phức tạp của nó khi có yếu tố quốc tế tham gia vào. Nhập khẩu với tư cách là một trong hai hoạt động chủ yếu của thương mại quốc tế ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như sự phát triển của thương mại quốc tế.
Trước hết, nhập khẩu có vai trò to lớn trong việc bù đắp những thiếu hụt về cầu do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được. Không những thế, nhập khẩu còn tạo ra những nhu cầu mới cho xã hội, tạo nên sự phong phú về chủng loại, mẫu mã, chất lượng cho thị trường. Điều đó có nghĩa là nhập khẩu góp phần tạo nên sự cân đối tích cực giữa cung và cầu trên thị trường trong nước. Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển nền kinh tế cân đối ổn định.
Thứ hai, nhập khẩu giúp quốc gia khai thác được lợi thế so sánh của mình, khai thác được tính lợi thế kinh tế nhờ quy mô khi tham gia vào thương mại quốc tế. Không chỉ tạo thêm hàng tiêu dùng trong nước, nhập khẩu còn tạo nên nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước, tạo ra chuyển giao công nghệ. Nhờ đó nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, tiết kiệm đựơc chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, góp phần xoá bỏ tình trạng độc quyền trong nước.
Thứ ba, với những sản phẩm nhập ngoại có tính cạnh tranh cao, nhập khẩu làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường, tạo ra năng lực mới trong sản xuất. Các doanh nghiệp nội địa phải chịu một sức cạnh tranh lớn, để tồn tại họ buộc phải năng động hơn, vươn lên chiến thắng trong cạnh tranh. Qua đó, hiệu quả sản xuất trong nước được nâng cao, hàng hoá nội địa trở nên có tính cạnh tranh hơn, người lao động có nhiều cơ hội tìm việc làm hơn góp phần nâng cao đời sống kinh tế - xã hội.
Thứ tư, kết hợp với xuất khẩu, nhập khẩu tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước và nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho phân công lao động quốc tế phát triển. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh quốc tế hoá diễn ra mạnh mẽ ngày nay. Nó mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nền kinh tế,.v.v.
Đất nước từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế đã có thêm sức mạnh mới, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với nhiều nhược điểm từng bước được thay thế bằng tính năng động, tự chủ của cơ chế thị trường. Ngoại thương của Việt Nam không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi nội khối xã hội - chủ nghĩa qua các khoản viện trợ hoặc qua các nghị định thư mà được mở rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Chính sách phát triển kinh tế, thương mại Việt Nam từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với xu thế chung của thời đại, hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới. Vai trò của nhập khẩu ngày trở nên rõ rệt: Không chỉ là nhân tố giúp Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới mà còn là nhân tố làm thay đổi diện mạo của các doanh nghiệp Việt Nam. Để tiếp tục phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu, Nhà nước ta xác định: Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động kinh doanh nhập khẩu, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần chú ý tạo uy tín và quan hệ lâu dài với bạn hàng, coi trọng tính hiệu quả kinh tế trong nhập khẩu, biết kết hợp hài hoà giữa các mặt lợi ích.
Không phải ngẫu nhiên ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động thương maị quốc tế mà là do kinh doanh quốc tế có sự phong phú đa dạng về các phương thức hoạt động. Chính sự đa dạng này cho phép các doanh nghiệp tìm thấy được lợi ích thông qua việc lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng của mình nhất. Trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh, đến nay có một số phương thức nhập khẩu chủ yếu sau mà các doanh nghiệp thường lựa chọn:
Nhập khẩu uỷ thác.
Trong giao dịch quốc tế, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia một cách trực tiếp do các yếu tố về nguồn nhân lực, trong khi đó họ lại muốn được giao dịch. Từ nhu cầu ấy làm hình thành nên phương thức nhập khẩu uỷ thác. Đó là phương thức mà doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng giao dịch trực tiếp tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
Đặc điểm:
- Theo phương thức này, doanh nghiệp nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra làm đại diện cho bên uỷ thác giao dịch, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại, bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
- Các doanh nghiệp được uỷ thác nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch nhập khẩu chứ không được tính doanh số, doanh thu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải lập hai hợp đồng:
- Hợp đồng mua bán hàng hoá với người nước ngoài.
2. Hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác.
Nhập khẩu tự doanh (Nhập khẩu trực tiếp).
Đây là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp. Khi tiến hành nhập khẩu theo phương thức này, doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng chính sách luật pháp quốc gia cũng như quốc tế.
Đặc điểm:
- Do phải đứng ra tiến hành các khâu nên doanh nghiệp phải chịu mọi rủi ro, tổn thất cũng như lợi nhuận thu được. Vì vậy, để có hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải thận trọng trong từng bước từ việc nghiên cứu thị trường cho đến khi bán hàng và thu tiền.
- ở phương thức này, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với đối tác nước ngoài, còn các hợp đồng liên quan đến khâu tiêu thụ thì có thể lập sau.
Nhập khẩu liên doanh.
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi cho các bên tham gia, lãi cùng hưởng rủi ro cùng gánh chịu.
Đặc điểm:
- Các bên tham gia chỉ phải góp một phần vốn nhất định và tỷ lệ phân chia lãi lỗ phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp giữa các bên.
- Theo phương thức này, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số bán hàng trên số hàng theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu phải lập hai hợp đồng: {}
1. Một hợp đồng với đối tác nước ngoài.
2. Một hợp đồng với đối tác liên doanh.
Cách phân chia các hình thức nhập khẩu trên dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán bằng tiền và mua thanh toán bằng hàng (còn gọi là mua bán đối lưu) là một hình thức còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiêp Việt Nam, tìm hiểu kỹ phương thức này có thể cho phép các doanh nghiệp có được một phương thức nhập khẩu có hiệu quả.
Nhập khẩu hàng đổi hàng.
Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, phương tiện thanh toán trong hợp đồng này không phải là tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích nhập khẩu ở đây không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu được hàng và thu lợi từ hoạt động xuất khẩu nữa.
Đặc điểm:
- Phương thức này mang lại lợi ích lớn hơn cho các bên tham gia hợp đồng, mặt khác có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất và nhập khẩu.
- Hàng hoá xuất và nhập cũng là bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim nghạch nhập khẩu trực tiếp và kim nghạch xuất khẩu, doanh số tiêu thụ trên cả hai loại mặt hàng.
- Để đảm bảo thực hiện hợp đồng, các bên thường sử dụng biện pháp sau:
+ Dùng thư tín dụng đối ứng: Là một loại thư tín dụng mà trong nội dung của nó có các điều khoản quy định chung. Thư tín dụng chỉ có hiệu lực khi người mở một thư tín dụng khác có kim ngạch tương đương.
+ Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá. Người này sẽ chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương đương.
Nhập khẩu tái xuất.
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá song không phải để tiêu thụ ở nội địa mà để xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, phương thức nhập khẩu này được thực hiện thông qua 3 nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập khẩu, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch cả xuất và nhập khẩu. Doanh số bán trên trị giá hàng xuất khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh.
- Doanh nghiệp tái xuất lập hai bản hợp đồng:
- Hợp đồng xuất khẩu
2. Hợp đồng nhập khẩu và không chịu thuế xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh.
- Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lưng.
- Hàng hoá không nhất thiết phải qua nước tái xuất mà có thể nhập thẳng về nước thứ ba (các hoạt động giao dịch thì vẫn liên quan đến nước tái xuất). Doanh nghiệp tái xuất còn có thể có được những khoản lợi do được thanh toán tiền hàng song lại có thể trả chậm cho bên xuất khẩu.
Với nhiều phương thức nhập khẩu như vậy, các doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng môi trường kinh doanh để từ đó ứng dụng các phương thức này một cách linh hoạt với thị trường này, với bạn hàng này, ta có thể dùng phương thức này là có lợi hơn, song với thị trường, với bạn hàng khác và vào một thời điểm khác thì phương thức ấy chưa chắc đã có lợi bằng các phương thức khác. Không nên chỉ áp dụng một hay một vài phương pháp cho mọi thị trường, mọi đối tác.