25/05/2018, 08:34

Tập tính cá trong vùng sáng

Người ta nhận thấy rằng vào ban đêm, những lúc tối trời, có nhiều loài cá bị hấp dẫn bởi ánh sáng, chúng thường tập trung thành những đàn lớn chung quanh nguồn sáng hoặc đôi khi chúng ở trạng thái ngơ ngác, ngây dại, khi bị nguồn sáng chiếu gọi vào chúng. ...

Người ta nhận thấy rằng vào ban đêm, những lúc tối trời, có nhiều loài cá bị hấp dẫn bởi ánh sáng, chúng thường tập trung thành những đàn lớn chung quanh nguồn sáng hoặc đôi khi chúng ở trạng thái ngơ ngác, ngây dại, khi bị nguồn sáng chiếu gọi vào chúng. Qua nghiên cứu người ta nhận thấy rằng đa số các loài cá bị hấp dẫn bởi ánh sáng thường là các loài cá thích nhiệt, sống ở tầng mặt, có vòng đời tương đối ngắn và thức ăn của nó chủ yếu là các phiêu sinh động và thực vật, chẳng hạn cá trích, cá thu đao, cá cơm,... Tuy vậy cũng có loài sợ ánh sáng như cá thu, cá mập,... chúng thường rời bỏ khu vực có ánh sáng chiếu vào.

Những kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số các loài cá thích ánh sáng thường tạo thành đàn lớn không phải quanh năm, mọi lúc, mà chỉ xuất hiện vào những thời kỳ nhất định trong chu kỳ sống của chúng và ở không gian hẹp, chẳng hạn cá Thu đao thường tập trung thành đàn lớn trong thời kỳ vỗ béo, còn cá Nục và một số loài cá khác thì ở thời kỳ trú đông. Ngoài thời gian này chúng phân tán ở phạm vi rộng và tác động của ánh sáng đối với chúng thì không lớn lắm. Tuy vậy, một số loài trong họ cá Trích thì có thể tạo đàn quanh năm. Điều này thuận lợi cho việc khai thác cá kết hợp ánh sáng.

Người ta còn nhận thấy rằng trạng thái cá tập trung quanh nguồn sáng không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học của môi trường nước: Nhiệt độ, độ mặn, độ trong, sóng gió, sự có mặt của cá dữ,... mà còn phụ thuộc vào đặc tính sinh học bên trong của cá như độ no, độ thành thục của cá trong thời ký phát dục,... Ngoài ra chúng còn chịu tác động của các yếu tố bên ngoài môi trường nước, như sự ảnh hưởng của ánh sáng trăng, ánh sáng ban ngày,...

Khi nghiên cứu các vấn đề liên quan đến trạng thái cá trong vùng sáng, người ta còn nhận thấy chẳng những các loài cá khác nhau có sự yêu thích các loại màu sắc ánh sáng khác nhau, mà ngay chính trong từng loài, ở những giai đoạn sống khác nhau cũng thích ứng với nhiều màu sắc khác nhau.

Mặt khác, có loài cá thích ánh sáng trên tầng mặt, nhưng có loài thích ánh sáng trong lòng nước, nhưng cũng có loài thích nguồn sáng di dộng trong nước. Chẳng hạn đối với cá trích, nếu đặt nguồn sáng trên mặt nước thì chúng sẽ tập trung ít hơn khi ta di chuyển nguồn sáng đi sâu vào trong lòng nước, khi đó chúng sẽ lao theo nguồn sáng với mật độ ngày càng nhiều hơn. Nhưng cá thu đao thì ngược lại, chúng lại thích nguồn sáng đi từ trong lòng nước lên tầng mặt.

Thời gian cho mỗi loại cá xuất hiện quanh nguồn sáng cũng khác nhau. Chẳng hạn khi bật đèn lên, sau thời gian từ 10-40 phút ta thấy cá trích dần dần xuất hiện quanh đèn, nhưng cá thu đao lại xuất hiện còn sớm hơn. Đặc biệt cá trích vùng biển Caspien thì chỉ sau vài phút là chúng đã tạo thành đàn lớn quanh đèn.

Người ta còn nhận thấy, mật độ tập trung cá quanh nguồn sáng cũng khác nhau, cá trích, cá thu đao, cá cơm, cá nục, ... thường tập trung thành đàn lớn quanh nguồn sáng. Nhưng cá thu, cá đối, thì nhanh chóng rời bỏ nguồn sáng. Ngoài ra, tốc độ di chuyển đến nguồn sáng cũng khác nhau. Người ta nhận thấy một số cá thể của họ cá trích, cá cơm,... khi phát hiện ra nguồn sáng thì chúng đi đến nguồn sáng với tốc độ chậm, và khi đến gần nguồn sáng thì bơi lãng vãng gần khu vực đèn, nhưng một số cá thể khác thì lại lao thẳng đến nguồn sáng. Thỉnh thoảng một số cá thể lại nhãy lên khỏi mặt nước rồi lặn xuống nước hoặc bơi thành vòng tròn lớn trên mặt nước quanh nguồn sáng, sau đó chúng mới lặn sâu xuống nước.

Thỉnh thoảng người ta còn bắt gặp một số loài cá có những đặc tính khá đặc biệt khi chúng đến gần nguồn sáng. Chẳng hạn: Ngày 29/8/69, tàu nghiên cứu Vichia (Liên Xô cũ) khi đánh cá ở khu vực Thái Bình Dương, bắt được con cá, đặt tên là Tiditrop, có những biểu hiện khá lạ khi đến gần nguồn sáng. Cá Tiditrop khi phát hiện ra nguồn sáng thì bơi đến gần nguồn sáng, khi cón cách táu 10 mét, cá Tiditrop chuyển hướng đi dọc theo tàu thêm 1 mét, rồi dừng lại, tiếp đến cứ ngóc đầu lên rồi ngụp xuống và cứ làm theo qui luật đó khi chúng đến phát hiện ra nguồn sáng. Những đặc tính đặc biệt còn bắt gắp ở loài cá chép. Đối với cá chép, ở giai đoạn đầu, khi phát hiện ra nguồn sáng chúng bơi lại nguồn sáng với tốc độ nhanh, không theo một quỉ đạo nào. Sau một thời gain thì chúng dần dần đi vào một quỉ đạo ổn định quanh nguồn sáng, rồi dừng hẳn (giai đoạn say đèn), lúc này cá rất hiền và dễ đánh bắt.

Tuy nhiên trạng thái cá trong vùng sáng có thể bị đột ngột thay đổi, nếu một khi đèn đột ngột bị tắt. Khi này cá dường như sực tĩnh, phản ứng hổn loạn. Đặc biệt cá thu đao, khi đó nhảy tứ tung lên khỏi mặt nước như đi tìm nguồn sáng đã mất, còn cá trích, cá cơm gần như mất định hướng, chúng chuyển động phân tán ra nhiều hướng khác nhau. Nhưng nếu sau đó đền được bật trở lại thì chúng nhanh chóng trở lại vùng sáng.

Phản ứng của cá đối với cường độ sáng của đèn cũng khác nhau. Người ta nhận thấy rằng nếu bật hai đèn có cùng công suất như nhau thì lượng cá di chuyển từ vùng này sang vùng kia đều như nhau, mật độ cá trong 2 vùng là không đổi. Nhưng nếu 2 đèn có công suất khác nhau, cá sẽ tập trung nhiều ở vùng có cường độ sáng lớn hơn. Nếu tắt đèn ở vùng có cường độ sáng mạnh, người ta nhận thấy một số cá thể sẽ di chuyển qua vùng có nguồn sáng yếu, nhưng một số khác thì rời bỏ nguồn sáng.

Ngoài ra người ta còn nhận thấy trạng thái cá trong vùng chiếu sáng còn phụ thuộc vào chế độ thắp sáng, sự đứng yên hay di động của nguồn sáng, sự ổn định của cường độ sáng (khi tỏ, khi mờ) và thành phần quang phổ của nguồn sáng.

  • Ảnh hưởng của ánh sáng trăng và ánh sáng ban ngày

Người ta nhận thấy rằng khi đánh cá kết hợp ánh sáng vào những đêm có ánh sáng trăng, ở những nơi có độ sâu không lớn lắm, thì tác dụng của đèn để lôi cuốn cá đến vùng sáng bị giảm xuống. Trong những đêm có trăng, người ta thấy rằng sản lượng khai thác đối với một số loài cá sống tầng mặt như cá trích, cá cơm, cá nục,... bị giảm đi rất nhiều, ngay cả cho dù đặt nguồn sáng vào sâu trong lòng nước.

Qua nghiên cứu cho thấy, ảnh hưởng của ánh sáng trăng đến sản lượng khai thác là không giống nhau, điều này phụ thuộc vào tuần răng, vị trí của trăng so với mặt biển, thời tiết (mây mù), độ sâu đánh bắt, ... Thực nghiệm cho thấy sản lượng khai thác cao nhất là vào thời kỳ không trăng, giảm dần vào thời kỳ trăng thượng huyền và hạ huyền, và giảm nhiều nhất vào lúc trăng tròn.

Nguyên nhân có thể giải thích như sau: Các tia sáng của ánh sáng trăng không chỉ tác dụng trên mặt nước mà chúng còn xuyên sâu vào trong lòng nước. Chính các tia ánh sáng trăng này đã làm giảm bán kính quyến rũ của nguồn sáng nhân tạo (bóng đèn). Nếu nguồn sáng càng đặt gần mặt nước thì ảnh hưởng của ánh sáng trăng càng lớn. Ngược lại, nếu đưa nguồn sáng vào càng sâu trong lòng nước thì ảnh hưởng của ánh sáng trăng sẽ giảm dần. Ta có thể thấy ảnh hưởng của ánh sáng trăng qua (Hình 10.1).

Bán kính quyến rũ của nguồn sáng khi có trăng

Mặt khác, thí nghiệm của Niconorov (1951-1956) đối với đánh cá thu đao bằng lưới nâng hình chóp. Ông nhận thấy rằng sản lượng khai thác cao nhất nhận được là vào thời kỳ trăng non. Còn lúc trăng tròn thì sản lượng bị giảm đi 75%.

Tuy nhiên, sự giảm sản lượng này còn tùy thuộc vào loại ngư cụ khai thác cá kết hợp ánh sáng. Ta có thể thấy sự giảm sản lượng qua (H 10.2).

Sản lượng giảm vào đêm trăng tròn

Tuy vậy, nếu đặt nguồn sáng càng xuống sâu trong lòng nước thì ảnh hưởng của ánh sáng trăng càng giảm đi. Thí nghiệm cho thấy, đối với ánh sáng trăng rằm, nếu ta cho lưới làm việc ở độ sâu hơn 45 mét thì ảnh hưởng của ánh sáng trăng xem như không đáng kể. Mặt khác, trong những đêm trăng, nếu có mây mù thì tác động của ánh sáng trăng đối với nguồn sáng cũng giảm đi, thuận lợi cho việc khai thác cá kết hợp ánh sáng.

Ánh sáng ban ngày với cường độ bức xạ vô cùng lớn, tia sáng ban ngày có khả năng xuyên rất sâu vào trong lòng nước (đến 200 m), đã làm vô hiệu quá nguồn sáng nhân tạo nếu như chúng được thắp ban ngày. Do vậy việc khai thác kết hợp ánh sáng vào ban ngày là gần như không thể thực hiện được.

  • Ảnh hưởng do độ trong của nước đến tập tính cá trong vùng sáng

Qua nghiên cứu, người ta nhận thấy độ trong của nước có ảnh hưởng lớn đến tập tính cá trong vùng sáng. Khi độ trong của nước kém thì sản lượng cá khai thác bị giảm rất nhiều, do bởi bán kính quyến rũ cá của nguồn sáng nhân tạo cũng bị giảm rất nhiều.

Thí nghiệm của Niconorov đánh cá trích bằng bơm hút ở độ sâu 8,5m với độ trong từ (0,4 - 2,2) m, trong thời gian 2 giờ 20 phút, cho thấy sản lượng như sau (Bảng 10.1):

Quan hệ giữa sản lượng theo độ trong của nước
Bảng 10.1 - Quan hệ giữa sản lượng theo độ trong của nước
Độ trong (m) 0,4 - 0,6 1,1 - 1,9 2,1
Sản lượng (Tạ) 0,35 1,6 14,7

Cũng qua thí nghiệm, người ta đã xây dựng được mối quan hệ giữa sản lượng đánh bắt và độ trong của nước theo công thức sau.

Q 2 Q 1 = Z 2 3 Z 1 3 size 12{ { {Q rSub { size 8{2} } } over {Q rSub { size 8{1} } } } = { {Z rSub { size 8{2} } rSup { size 8{3} } } over {Z rSub { size 8{1} } rSup { size 8{3} } } } } {}

Trong đó: Q 1 là sản lượng cá ứng với độ trong Z1.

Q2 là sản lượng cá ứng với độ trong Z2.

Thí dụ, nếu vùng A có Z1 = 2 m và vùng B có Z2 = 10 m, thì sản lượng 2 vùng chênh lệch nhau là: Q2=Q1.Z23Z13=Q1.10323=125 size 12{Q rSub { size 8{2} } =Q rSub { size 8{1} } "." { {Z rSub { size 8{2} } rSup { size 8{3} } } over {Z rSub { size 8{1} } rSup { size 8{3} } } } =Q rSub { size 8{1} } "." { {"10" rSup { size 8{3} } } over {2 rSup { size 8{3} } } } ="125"} {}lần Q1.

  • Ảnh hưởng của nhiệt độ đến tập tính cá trong vùng sáng

Nhiệt độ nước có ảnh hưởng đến tập tính cá trong vùng sáng. Người ta nhận thấy đa số cá nổi (sống tầng mặt) là loài thích nhiệt. Nhiệt độ thích hợp cho đa số loài là từ (6-28)oC, cụ thể là:

Cá trích thường tập trung ở tầng nước có nhiệt độ từ (16,6−26)0C size 12{ ( "16",6 - "26" ) rSup { size 8{0} } C} {}.

Cá thu đao thường tập trung ở vùng nước có nhiệt độ từ (14−18)0C size 12{ ( "14" - "18" ) rSup { size 8{0} } C} {}.

Cá nục, cá cơm thường tập trung ở vùng nước có nhiệt độ từ (8−10)0C size 12{ ( 8 - "10" ) rSup { size 8{0} } C} {}.

Ngoài ra người ta còn thấy rằng, khi nhiệt độ thay đổi thì sự tập trung của cá quanh vùng sáng cũng biến động theo. Chẳng hạn, vào mùa hè và mùa thu cá thu đao thường thích sống ở tầng mặt, tập trung ở những nơi có bóng râm, nước mát. Nhưng vào mùa này thí cá trích lại thích tập trung ở độ sâu từ (20-45) m, nơi có nhiệt độ thích ứng là (8-12)oC.

Đặc biệt, cá nục vào mùa đông lại thích tập trung thành đàn lớn ở độ sâu khoảng (30-40) m nước, nơi có nhiệt độ từ (8-10)oC.

Cá cơm và một số loài cá khác, ở giai đoạn nhỏ thường có khả năng thích nghi với sự biến động của nhiệt độ hơn cá trưởng thành, chúng có thể sống cả tầng mặt và tầng đáy.

Người ta nhận thấy ở những tầng nước nếu có sự biến động đột ngột về nhiệt độ thì cá trích không thích đến gần nguồn sáng, nhưng nếu nguồn sáng hạ thấp dần xuống sâu thì cá trích lại bơi theo nguồn sáng. Nhưng nếu tiếp tục hạ nguồn sáng xuống nữa đến nơi mà nhiệt độ không còn thích hợp chúng sẽ rời bỏ nguồn sáng.

  • Ảnh hưởng của dòng chảy và độ trôi dạt của tàu đến sự tập trung của cá quanh vùng sáng

Tốc độ dòng chảy và sự trôi dạt của tàu có ảnh hưởng đến sự tập trung của cá quanh vùng sáng. Người ta nhận thấy rằng, cá thường tập trung ở những vùng nước tương đối yên tĩnh, dòng chảy yếu và có nhiều thức ăn.

Người ta cũng nhận thấy, nếu ở khu vực chiếu sáng mà có tốc độ dòng chảy mạnh sẽ làm cho cá khó bám vào nguồn sáng. Người ta chứng minh được rằng, nếu tốc độ dòng chảy lớn hơn 0,35 m/s, thì hầu như ánh sáng không thể quyến rũ cá trích đến với nguồn sáng.

Độ trôi dạt của tàu cũng ảnh hưởng đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng. Khi tàu bị trôi dạt, nguồn sáng cũng bị trôi theo. Điều này sẽ gây khó khăn cho cá bám nguồn sáng, bởi nguồn sáng sẽ trôi dần ra khỏi khu vực sống thích hợp cho nó, cá không thể bám mãi theo nguồn sáng được. Thí nghiệm cho thấy, nếu độ trôi dạt là 0,07 m/s thì sản lượng khai thác sẽ giảm 23%.

  • Sự ảnh hưởng của sóng đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng

Sóng to, gió lớn sẽ làm cho tàu bị lắc lư (lắc ngang, lắc dọc), làm mất tính ổn định phương chiếu sáng của hệ thống đèn, phương chiếu sáng không đều, cá phải di chuyển liên tục theo nguồn sáng, khó tạo nên trạng thái say đèn đối với cá, cá có thể rời bỏ nguồn sáng. Mặt khác càng làm khó khăn thêm trong thao tác ngư cụ. Do vậy sản lượng khai thác bị giảm rất nhiều trong những lúc trời giông, biển động.

Thí nghiệm đối với lưới nâng hình chóp cho thấy rằng, giả sử nếu sóng cấp 2, 3 có sản lượng khai thác là 100%, thì khi sóng lên cấp 4,5 sản lượng khai thác chỉ còn khoảng 55%.

  • Ảnh hưởng do sự xuất hiện của cá dữ trong vùng chiếu sáng

Thực tế đánh bắt cho thấy nếu có sự xuất hiện của cá dữ trong vùng chiếu sáng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng. Cá cãm thấy sợ hải khi cá dữ đến gần, chúng chạy phân tán ra khỏi nguồn sáng. Nhưng nếu cá dữ bỏ đi, chúng sẽ tập trung trở lại nguồn sáng.

Người ta nhận thấy các yếu tố sinh học của cá có sự ảnh hưởng đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng. Cùng một loài cá, nhưng nếu ở các lứa tuổi khác nhau sẽ có phản ứng thích ứng khác nhau đối với nguồn sáng.

Thí nghiệm cho thấy, đa số các loài cá đều thích đến nguồn sáng là những cá đang ở giai đoạn I và II trong chu kỳ phát dục của chúng, nhưng vào giai đoạn chuẩn bị đẻ thì chúng không thích nguồn sáng, sau khi cá đẽ xong thì phản ứng thích nguồn sáng trở lại bình thường.

Độ no, đói của cá không có sự ảnh hưởng rõ ràng đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng. Có quan điểm cho rằng cá đến nguồn sáng có thể là do bị đói, chúng muốn tìm thức ăn, nhưng thực tế khảo sát cho thấy, có rất nhiều loài cá khi đến nguồn sáng còn đang ở trạng thái còn rất no.

Từ nghiên cứu các ảnh hưởng nói trên cho chúng ta nhận định rằng, để đảm bảo khả năng khai thác đạt được sản lượng cao, ta nên chú ý đến tất cả các yếu tố môi trường và sinh học của cá khi đánh bắt cá kết hợp ánh sáng.

0