Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ (1948-29/8/1988) quê gốc ở Quảng Nam, sinh tại Phú Thọ, mất năm 1988 trong một tai nạn giao thông trên đường 5. Anh làm thơ từ thuở học cấp ba, rời ghế trường trung học, vào bộ đội anh viết nhiều hơn và bắt đầu đăng báo. Năm 1968, hai mươi bài thơ đầu tay chọn in chung vào tập Hương cây, bếp lửa giới thiệu một hồn thơ trong trẻo, đắm đuối mơ mộng và cũng còn nhiều dấu vết của sách vở nhà trường. Đắm đuối là đặc điểm suốt đời thơ Lưu Quang Vũ. Đặc điểm ấy ít thấy ở các nhà thơ khác cùng thời với anh. Hình như từ sau cách mạng tháng 8-1945, thơ chúng ta chuộng sự tỉnh táo với những thi liệu lấy từ thực tế cuộc sống. Vào những năm 60, một vài nhà thơ có uy tín đã kêu lên: thơ cần mê hơn... Lưu Quang Vũ mới đến đã đáp ứng được yêu cầu đó. Tìm ra những yếu tố tạo nên sự mê đắm này chính là tìm được đặc trưng cảm xúc của Lưu Quang Vũ. Anh cảm thụ đời sống không chỉ bằng nhận thức mà bằng cả giác quan. Cảm giác là hạt nhân đầu tiên của cảm hứng Lưu Quang Vũ. Cảm giác gọi những ý thơ tuôn chảy. Đọc thơ anh ít thấy dấu vết của bố cục, cảm hứng liền dòng ào ạt, đầy ắp hình ảnh, ảnh thực và ảnh ảo, hiện thực và tưởng tượng, sách vở và đời sống hoà quyện thúc đẩy nhau trong các câu thơ dồn dập. Anh viết như trong một cơn say, bất chấp sự cực đoan và phi lý trong chi tiết. Thế giới trong thơ anh là thế giới của tưởng tượng. Giàu tưởng tượng nên mới thành đắm đuối. Trong thơ anh có cánh buồm đen của tên cướp bể, có ngọn lửa bập bùng người Âu Lạc múa trên châu thổ sông Hồng còn nguyên nếp phù sa. Có những đoạn thơ anh làm mê lòng ta như cổ tích: Trung Hoa của tuổi thơ Tiếng ngựa hí đêm khuya Đoàn xe Chiến Quốc đi trong tuyết Rũ rượi tóc râu, đao thương sáng quắc Não bạt thanh la xủng xoẻng Dữ tợn mà sầu thương. Đắm đuối là bản sắc cảm xúc Lưu Quang Vũ. Nó tạo nên sức lôi cuốn ma quái ở thơ anh và cũng tạo nên lắm vất vả cho đời anh. Lưu Quang Vũ đã trải qua những năm tháng lao đao ngay ở tuổi thanh niên: ra bộ đội, không việc làm, gia đình tan vỡ, con nhỏ, chiến tranh đang ở thời kỳ ác liệt, cuộc sống khó khăn, xã hội xuất hiện nhiều tiêu cực... Tình cảnh đó đã được diễn đạt chân thành bằng một nghệ thuật thơ thuần chín, trong khoảng hai năm 1971, 1972, tập trung trong tập Cuốn sách xếp lầm trang (bản thảo, chưa in trọn vẹn). Nội dung khác với giai đoạn trước vốn trong trẻo và cũng khác với giai đoạn sau, đã thăng bằng. Giai đoạn này tâm hồn anh như già đi trong những cảm xúc tê tái. Đây là thơ được viết ra từ một thúc bách nội tâm, từ cảnh ngộ cá thể của mình. Chúng ta đọc thơ cần có sự cảm thông, đừng máy móc cào bằng, đòi hỏi thơ ai cũng phải có một công dụng tức thì với xã hội. Thơ hay bao giờ cũng có công dụng, nhưng là một công dụng xa, giúp cho sự hình thành nhân cách con người. Nhân cách hình thành từ những chiêm nghiệm. Thơ Lưu Quang Vũ giai đoạn này rất nhiều chiêm nghiệm. Anh nhìn và khái quát việc đời trên cảnh ngộ của anh. Anh thấy cuộc đời lúc đó như cuốn sách xếp lầm trang: chuyện đôi trai gái tự tình lẫn với chuyện chia gia tài, gián điệp lẫn với triết gia và lái bò... Có thể có một chút bi quan quá sớm, nhưng cũng đã thấy một linh cảm trước thời cuộc. Mười bảy năm sau những chủ đề này sẽ trở lại trong kịch Lưu Quang Vũ và làm sôi động sân khấu cả nước. Sức mạnh hiện thực đã thấm vào tâm hồn nhiều mơ mộng ấy. Mùi lá bưởi lá chanh nên thơ và phù phiếm sẽ không bao giờ còn quay lại tô điểm cho cái hiện thực dữ dằn của chiến tranh nữa. Lưu Quang Vũ khai thác chất thơ hoàn toàn khác với giai đoạn đầu cầm bút. Thay vì sự ca ngợi ngọt ngào là sự chất vấn rát bỏng: Những tuổi thơ không có tuổi thơ Những đôi mắt tráo trơ mà tội nghiệp Chúng ăn cắp đánh nhau, chửi tục Lang thang hè đường, tàu điện, quán bia Những bông hoa chưa nở đã tàn đi Những cành cây chưa xanh đã cỗi (...) Sao mọi người có thể dửng dưng Nhìn em đi trên đường tối Mọi người đều có tội Trước tuổi thơ đã chết của em. Anh bộc lộ: Những chữ đẹp xưa giờ đã bỏ tôi rồi. Đối mặt với anh là: “Những chữ như đinh nhìn tôi sắc nhọn/ Chữ gầy guộc, chữ bùn lầy cống rãnh...” Và anh quyết liệt đổi thay: “Những chữ đẹp xưa giờ tôi đuổi đi rồi/ Bao chữ mới đang ầm ầm đập cửa/ Thơ rộng dài cánh lớn hãy bay đi”. Giai đoạn này Lưu Quang Vũ có bước tiến dài về nghệ thuật. Tôi cho rằng thời gian này là điểm đỉnh trong đời thơ Lưu Quang Vũ. Sau này anh viết ấm áp hơn nhưng không tài bằng. Cái tài của anh là ở chỗ từ những việc, những vật cụ thể anh làm bật lên được một cảm xúc, một nhận thức, một tâm trạng vốn rất khó nắm bắt. Hạt mưa đen rơi trên ô kính vỡ. Sao hạt mưa có màu đen. Ai biết? Chỉ biết nó gợi tro than, loạn lạc, ly tán... Lưu Quang Vũ thuộc tạng người chỉ tin ở mắt mình, chỉ tin ở lòng mình. Mắt anh thấy và tim anh đau nhói anh đều viết thành thơ. Anh muốn trung thành với tình cảm nguyên sơ của mình. Anh không bận tâm lắm đến sự xác định là cá biệt hay phổ biến, bản chất hay hiện tượng. Cảm hứng dân tộc hình thành sớm và phát triển dần thành cảm hứng mạnh trong Lưu Quang Vũ. Đất nước mang hình chiếc đàn bầu, với những chị hai, những mắt một mí, những cơi trầu, những câu hát giao duyên... bao nhiêu lần trở đi trở lại trong tình trong ý Lưu Quang Vũ, tạo nên nét duyên riêng đắm đuối trong thơ anh. Anh viết rất tạo hình, có lẽ vì anh còn là một hoạ sĩ: “Những con chim lạc mỏ dài/ Bay qua vầng trăng lớn”. Đặc biệt là sức gợi từ những chi tiết nhỏ đan vào các ý thơ: “Cánh rừng sẫm tắm hoàng hôn đỏ rực/ Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng”. Một chữ nồng đã phả vào đêm cái hơi hướng nhiệt đới còn nguyên sơ làm khung cảnh trở nên phập phồng sự sống. Những bài thơ anh viết ở thập niên 80 như đối nghịch với các bài thời 71, 72. Nhưng thật ra giai đoạn trước kiến tạo cho giai đoạn sau. Sức nặng của câu thơ yêu đời được hình thành từ câu thơ mất mát. Qua mất mát mới biết giá trị của sự có lại: “Mùa gió mới có em tôi có lại/ Bài hát cũ tôi hát cùng đồng đội/ Lại dập dồn như gió khắp rừng khuya”. Giữa lúc anh đang hào hứng viết cả thơ lẫn kịch, năng suất kỳ lạ, dự định táo bạo, thì tai nạn ập đến. 1948-1988. Cuộc đời anh mới 40 năm tuổi đã dừng, sự đóng góp của anh ở thơ, ở kịch đã được đời ghi nhận như một trong các sự kiện nghệ thuật cuối thế kỷ XX. 4-1-2002, Vũ Quần Phương Tác phẩm: Thơ: - Hương cây (in chung với Bằng Việt, NXB Văn học, 1968) - Mây trắng của đời tôi (NXB Tác phẩm mới, 1989) - Bầy ong trong đêm sâu (NXB Hội nhà văn, 1993) - Lưu Quang Vũ, thơ và đời (NXB Văn hoá thông tin, 1997) - Gửi tới các anh (NXB Quân Đội Nhân dân, 1998) - Những bông hoa không chết (in chung cùng phần Nhật ký, NXB Lao động, 2008) Văn: - Mùa hè đang đến (truyện, 1983) - Người kép đóng hổ (truyện, 1984) - Một vùng mặt trận (truyện vừa) Kịch: - Hồn Trương Ba da hàng thịt (1981) - Nàng Sita (1982) - Người trong cõi nhớ (1982) - Ngọc Hân công chúa, 1984 - Tôi và chúng ta, 1984 - Người tốt nhà số 5 - Bệnh sĩ, 1988 - Tin ở hoa hồng, 1986... Tiểu luận, phê bình: - Diễn viên và sân khấu, 1979 (cùng viết với Vương Trí Nhàn và Xuân Quỳnh) Lưu Quang Vũ (1948-29/8/1988) quê gốc ở Quảng Nam, sinh tại Phú Thọ, mất năm 1988 trong một tai nạn giao thông trên đường 5. Anh làm thơ từ thuở học cấp ba, rời ghế trường trung học, vào bộ đội anh viết nhiều hơn và bắt đầu đăng báo. Năm 1968, hai mươi bài thơ đầu tay chọn in chung vào tập Hương cây, bếp lửa giới thiệu một hồn thơ trong trẻo, đắm đuối mơ mộng và cũng còn nhiều dấu vết của sách vở nhà trường. Đắm đuối là đặc điểm suốt đời thơ Lưu Quang Vũ. Đặc điểm ấy ít thấy ở các nhà thơ khác cùng thời với anh. Hình như từ sau cách mạng tháng 8-1945, thơ chúng ta chuộng sự tỉnh táo với những thi liệu lấy từ thực tế cuộc sống. Vào những năm 60, một vài nhà thơ có uy tín đã kêu lên: thơ cần mê hơn... Lưu Quang Vũ mới đến đã đáp ứng được yêu cầu đó. Tìm ra những yếu tố tạo nên sự mê đ… Hương cây (1968) Mây trắng của đời tôi (1989) Bầy ong trong đêm sâu (1993) Gửi tới các anh (1998) Di cảo (2008) Những bông hoa không chết (2008) Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh và mùa hè định mệnh Đăng bởi Vanachi vào 28/07/2006 11:36 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 28/07/2006 11:38 Có 2 người thích : Ngoc Bich HO, Ngô Thái Mùa hè năm 1988 là mùa hè cuối cùng của Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh. Đó là khoảng thời gian mà Lưu Quang Vũ làm việc hối hả, với năng suất phi thường, làm việc như biết mình sắp bị giỏi bắt đi. Đó cũng là mùa hè Xuân Quỳnh phải nằm viện, trái tim nhỏ bé của chị nặng trĩu những dự cảm ưu phiền... ChuÌ?ng tôi xin giới thiệu những chi tiết chưa nhiều người biết về những ngày cuối cùng của anh chị. Bài viết do nhà báo Lưu Quang Định, em ruột của Lưu Quang Vũ gửi riêng cho VietNamNet. Chỉ trong vòng 8 năm kể từ khi bước vào sân khấu - năm 1980 với vở "Sống mãi tuổi 17" - cho đến khi nằm xuống, Lưu Quang Vũ đã viết hơn 50 vở kịch, hầu hết đã được dàn dựng. Đó là còn chưa kể hàng trăm bài thơ, truyện ngắn, bài báo... Người ta vẫn thường hỏi Lưu Quang Vũ lấy đâu ra thời gian, năng lượng để hoàn thành một khối lượng công việc đồ sộ như vậy trong một thời gian ngắn như vậy? Ngay cả bạn bè, đồng nghiệp, ngay cả những người thân trong gia đình nhiều lúc cũng không trả lời nổi câu hỏi đó. Đặc biệt, trong năm cuối cùng, mùa hè cuối cùng của đời mình, Lưu Quang Vũ làm việc hối hả hơn bao giờ hết. Sau khi Lưu Quang Vũ mất, trên bàn làm việc của anh vẫn còn để một mảnh giấy nhọ, trong đó anh ghi: "Công việc phải làm từ tháng 8 tới tháng 12 (1988)", với tên 8 vở kịch, một tập thơ cùng một số công việc khác. Cho đến khi mất, nghĩa là chỉ trong vòng một tháng kể từ khi viết mảnh giấy, anh đã kịp thực hiện và đưa lên sàn diễn trọn vẹn 3 vở: Trái tim trong trắng (đoàn Kịch Hải Phòng và Đoàn Chèo Hà nam Ninh dựng), Lời thề thứ chín (Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị dựng 1988), Điều không thể mất (Nhà hát Tuổi trẻ, Đoàn Kịch Quân khu II dựng 1988). Vở thứ tư - Chim sâm cầm không chết - đã viết xong cảnh cuối, Đoàn kịch Hải Phòng đã nhận dàn dựng. Và nếu như không ra đi đột ngột thì rất có thể Lưu Quang Vũ đã có cơ hội "hoàn thành kế hoạch năm", viết nốt 4 vở còn lại: Bồ câu biển, Trà hoa nữ, Thủ tục làm người sống... Cũng trong năm 1988, ngoài mấy vở trên, anh còn viết một loạt vở nữa như Đôi đũa kim giao (Đoàn ca múa Hà Nam Ninh dựng), Ông không phải bố tôi (có 4 đoàn dựng), Linh hồn của đá (Đoàn Chèo Hải Phòng dựng), Bệnh sĩ (Nhà hát kịch Trung ương dựng)... Mùa hè năm đó tôi mới 22 tuổi, đang là sinh viên năm thứ hai ở Liên xô cũ, được về phép. Sau mấy năm xa nhà, thấy HN có một số thay đổi: Chế độ tem phiếu đã bị bãi bờ. Đồ đạc có vẻ nhiều hơn, nhưng điện vẫn thường xuyên mất, cuộc sống nhìn chung vẫn rất vất vả. Gia đình tôi sống trong một căn phòng ở gác hai số nhà 96 phố Huế. Anh Vũ, chị Quỳnh, Kít (Lưu Minh Vũ) và Mí (Lưu Quỳnh Thơ) sống trên tầng ba, trong một căn phòng rộng 6,5 mét vuông. Suốt mùa hè đó, thường thường tôi chỉ gặp Lưu Quang Vũ lúc sáng sớm, hoặc lúc 1,2 giờ sáng. Còn cả ngày anh đi vắng suốt. Lịch làm việc của anh bao giờ cũng dày đặc. Có ngày sáng anh lên Hà Bắc dựng kịch, chiều về Nhà hát kịch đọc vở mới với đạo diễn, tối lại đi Hà Tây xem duyệt vở. Có khi nửa đêm về đến nhà, anh uống vội cốc cà phê rồi lại ngồi vào bàn viết. Nhiều lúc chị Quỳnh bảo với mẹ tôi: "Mẹ phải can anh Vũ giúp con, anh ấy làm việc chẳng kể gì đến sức khoẻ cả." Mẹ tôi cũng thường nói với anh "con làm gì cũng phải giữ lấy sức khoẻ". Những lúc đó, anh thường bảo: "Con cũng biết thế nhưng mình cố một chút thì đoàn có vở dựng, mấy chục con người có công ăn việc làm..." Anh Vũ là người rất mê bóng đá nhưng giải EURO năm đó tôi thấy hầu như anh không còn thời gian để xem. Chị Quỳnh cũng "miễn" mọi việc nhà cho anh, không phải xuống tầng 1 xếp hàng xách nước lên tầng 3. Hồi đó nước sinh hoạt ở HN là một vấn đề rất cơ cực. Nhà tôi mùa hè đó lúc nào cũng có một vài ông khách - là người của các đoàn - đến "đòi" kịch bản. Mới bảnh mắt, vừa mở cửa ra đánh răng, rửa mặt đã thấy có người đứng đợi. Có người ý tứ, anh Vũ vắng nhà thì đứng ngoài cầu thang chờ. Nhưng cũng có người cứ ngồi lì trong nhà, uống hết tuần chè này sang tuần khác, đốt thuốc khói um nhà. Dường như họ nghĩ làm vậy thì gia đình Lưu Quang Vũ sẽ sốt ruột, anh sẽ chóng phải về hơn. Nhiều hôm thương anh, chúng tôi buộc phải nói dối là anh đi vắng. Khách vẫn kiên nhẫn đứng chờ bên ngoài. Anh Vũ khoá trái cửa, ngồi trong nhà viết, muốn ho cũng không dám ho. Có ông khách đứng nấp ở cầu thang. Một lúc thấy anh Vũ lò dò ra bèn reo toáng lên, xồ tới như bắt được thằng kẻ trộm. Các đoàn đều săn đón vở của anh. Mà tính anh Vũ thì lại cả nể, với ai cũng hứa. Hứa rồi bận quá không thực hiện được lời hứa. Khi người ta đến lại phải lỡ hẹn, hoặc phải nói dối. Có người bị anh hẹn đi hẹn lại ba bốn lần. Thành ra anh bị mang tiếng là hay nói dối. Thực ra thì anh không định nói dối mà chỉ do quá bận bịu. Có người - như đạo diễn NSND Phạm Thị Thành - thì thông cảm và gọi đó là "kiểu nói dối đáng yêu". Nhưng có người - như cố đạo diễn NSND Nguyễn Đình Nghi - nhiều lúc phát cáu lên, nói với chị Quỳnh: "Hay là Vũ không muốn làm việc với tôi nữa thì cứ nói thẳng ra. Việc gì cứ phải lỡ hẹn như vậy?!..." Chị Quỳnh lại phải xin lỗi, giải thích mãi. Anh Vũ thì bận túi bụi như vậy, còn chị Quỳnh mùa hè năm đó sức khoẻ giảm sút rất nhiều. Tháng 3 năm 1988 chị được cử tham gia Ban Giám khảo Liên hoan phim toàn quốc ở Nha Trang. Trên đường đi, chiếc xe chở cả đoàn đang qua cầu bỗng bị lật. Trong tấm ảnh ghi lại vụ tai nạn đó, chiếc xe khách nằm 1/3 trên thành cầu, còn 2/3 lửng lơ trong khoảng không. Thật hú vía! Rồi đến tháng năm, chị thường thấy khó thở, thỉnh thoảng ngực trái lại dội lên những cơn đau rất lạ. Vào viện khám, bác sĩ bảo tim chị có vấn đề. Xuân Quỳnh phải nằm viện hai tháng trời. Khi tôi về phép thì chị đã ra viện, nhưng sắc mặt kém đi nhiều so với một năm trước đó, khi tôi gặp chị ở Matxcova trong đoàn nhà văn VN sang học tại Trường viết văn Gorki. Tính chị vẫn vui, vẫn hay đùa, nhưng nhiều lúc trong câu chuyện thấy ánh mắt chị thảng thốt, như nhìn vào đâu đâu. Xuân Quỳnh đã từng có hẳn một bài thơ viết về trái tim, bài Tự hát: "Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng/Trái tim em anh đã từng biết đấy/Anh là người coi thường của cải/Nên nếu cần anh bán nó đi ngay... Em trở về đúng nghĩa trái tim em/Là máu thịt đời thường ai chẳng có/Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa/Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi...." Oái ăm thay, trái tim chan chứa tình yêu thương đó giờ lại đang đau. Chị Quỳnh làm dâu trong nhà tôi đã mười lăm năm, thật sự cả mấy anh em chúng tôi đều coi chị như chị ruột. Chúng tôi vẫn nhớ ngày anh chị mới về với nhau, tài sản giá trị nhất chỉ là chiếc phích nhọ. Những ngày hè nóng cháy, chị đi giặt ở cái máy nước công cộng ngoài phố Trần Nhân Tông về, cái chậu quần áo to tướng vẹo một bên người. Những ngày Tết chị ngồi gói bánh chưng. Thời cấp ba chị đèo tôi lên nhà thầy Trần Nhật Minh xin học thêm môn văn... Vậy mà giờ đây, khi anh Vũ bắt đầu ổn định thì chị lại đau yếu. Chắc để cho không khí trong nhà đỡ nặng nề, mọi người lúc đó thường tránh nói về bệnh tật của chị. Vì vậy tôi cũng không biết bệnh chị nghiêm trọng đến mức nào. Mãi về sau này, mẹ tôi mới kể là lúc đó, anh Vũ đã nói với bà: "Bác sĩ bảo bệnh tim của Quỳnh rất nặng. Nếu chăm sóc tốt thì cũng chỉ sống được vài ba năm nữa thôi, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi đặc biệt"... Về con cái của anh chị, năm đó cũng đã lớn khôn nhiều. Tuấn Anh - con riêng chị Quỳnh - đã tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ, xin được vào làm ở Thông tấn xã. Kít đang học Sân khấu Điện ảnh. Đặc biệt lớn là Mí. Nó không còn bầu bĩnh, để tóc dài giống con gái như hồi nhọ, mà cao vổng lên, chân tay lòng khòng, lại đang vỡ giọng. Nhưng Mí vẫn rất ngoan và học giỏi. Chị Quỳnh thường khoe nó rất tiết kiệm, bố cho tiền ăn phở sáng thì cu cậu chỉ ăn xôi. Mí chăm làm việc nhà, ngày nào cũng xách nước, nấu cơm giúp mẹ. Lúc rảnh thì mua vé rủ bà nội đi xem phim. Nó vẫn chơi guitare rất hay, vẽ và viết truyện ngắn đều, thỉnh thoảng lại thấy được đăng báo. Tôi đặc biệt ấn tượng với một bức tranh của Mí, vẽ một lọ hoa màu tím, đến giờ vẫn treo trên tường nhà tôi. Ấn tượng bởi đó là một bức tranh rất buồn và già dặn, như không phải là của một cậu bé 13 tuổi. Cũng mùa hè năm đó, anh Vũ chị Quỳnh có một tin vui: Được Hội Nhà văn phân nhà, một căn hộ hai phòng trên tầng ba khu tập thể Ngọc Khánh. Tôi đã một lần đạp xe đèo chị Quỳnh lên xem nhà. Đi đường Kim Mã, rồi rẽ trái. Hồi đó chưa có đường Liễu Giai, phải dắt xe đạp vượt qua những đống đất đá lổn nhổn mới tới khu tập thể. Chị Quỳnh tấm tắc: "Rộng quá, ở thế nào cho hết!" Thực ra diện tích nhà tổng cộng chỉ hơn 40 mét vuông thôi, nhưng so với cái chuồng cu 6 mét mà anh chị đang ở thì quả là rộng thật. Rồi chị tính chỗ này kê giường, chỗ kia kê tủ. Suốt bao nhiêu năm, chưa bao giờ anh Vũ chị Quỳnh có giường bởi vì nhà quá chật, không đủ chỗ kê. Chỉ tiếc là chưa kịp dờn về căn hộ mới, chưa kịp nằm trên chiếc giường mơ ước ấy, anh chị đã ra đi... Thấm thoắt thế mà đã sắp hết hè. Tôi nhớ cái tuần cuối cùng trước ngày tôi trả phép, cùng lúc có hai vở kịch của anh Vũ chuẩn bị công diễn. Vở đầu là Bệnh sĩ, một hài kịch cười ôm bụng từ đầu đến cuối. Vở thứ hai là Lời thề thứ chín, đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị dựng. Hôm chạy suốt vở này lần đầu, anh Vũ chở tôi vào Mai Dịch xem. Hai anh em đi trên chiếc xe Peugeot 103 màu đỏ, anh Vũ vừa mua cách đó mấy hôm. Dọc đường đi, anh nói chuyện với tôi rất nhiều, về Mí, về sức khoẻ chị Quỳnh, về những chuyện tức cười hồi anh đi Liên xô. Anh bảo: "Định và Bi (thằng em út nhà tôi) ở bên đó cứ yên tâm học cho thật giỏi, ở nhà mẹ đã có anh Vũ chị Quỳnh lo chu đáo. Năng viết thư cho mẹ đỡ mong. Khi nào Định cần gì bảo anh Vũ sẽ mua gửi sang..." Tôi kém anh Vũ tới mười tám tuổi. Vừa học xong phổ thông thì tôi đi xa, nên ngoài lúc thư từ, chẳng mấy khi anh nói chuyện với tôi như với một người lớn thế này. Rồi một cơn mưa rào xối xả ập đến. Anh Vũ lấy trong xắc ra một tấm nylon nhựa choàng cho cả hai anh em rồi lại phóng đi. Vào đến Mai Dịch thì ướt lướt thướt hết cả... Ngày 23/8, mẹ tôi cùng mấy cụ trong tổ hưu đi Sài Gòn chơi. Từ sáng sớm anh Vũ đã xuống chào mẹ và nói: "Hôm nay con bận đi làm việc nên không tiễn mẹ được. Khi nào mẹ ra con sẽ đi đón." Miệng nói như vậy, tay anh cầm bút viết lên cuốn lịch treo tường dòng chữ: 8/9 mẹ ra, có mặt" Ngày 25/8, tôi bay trở lại nước Nga. Hôm đó anh Vũ cũng đi vắng đâu. Xe sắp chuyển bánh lên Nội Bài thì chị Quỳnh và Mí chạy về. Tôi đã ngồi trong xe, chị Quỳnh đứng ngoài nắm lấy tay tôi, cười: "Hôm nào anh chị đi Liên xô, Định lại dẫn ra chụp ảnh ở Quảng trường Đờ nhé..." Có ngờ đâu đó là những lời cuối cùng chị Quỳnh nói với tôi. Ngày 27/8, anh Vũ và hoạ sĩ Doãn Châu xuống làm việc với đoàn kịch Hải Phòng, đưa cả chị Quỳnh, Mí và gia đình anh Doãn Châu đi cùng, tranh thủ kết hợp cho trẻ con tắm biển Đồ Sơn trước khi bước vào năm học mới. Chiều 29/8 trở về, vừa qua đầu cầu Phú Lương thì tai nạn xảy ra. Ba ngày sau, tôi mới biết tin. Hôm đó tôi sang trường Bưu điện chơi. Vừa vào phòng một anh bạn nghiên cứu sinh thì thấy mắt anh đẫm nước, rồi bảo: "Xin chia buồn với Định". Tôi ngớ người chẳng hiểu gì cả. Anh đưa cho tôi tờ báo Nhân dân, ở trang 8 có một ô nhỏ đóng khung bắt đầu bằng hai chữ:Tin buồn... Đã 15 năm trôi qua. Có thể thời gian đã mài mòn bớt những sắc cạnh so với ban đầu, nhưng nỗi đau thì vẫn là nỗi đau. Anh Vũ có một vở kịch tên là "Mùa hạ cuối cùng", một vở rất nhiều chất thơ, do Nhà hát Tuổi trẻ dựng. Chí Trung, Đức Hải, Lan Hương, Minh Hằng... lúc đó đóng vai các cô cậu học sinh lớp 10, đều trẻ măng. Đã bao nhiêu năm, tôi vẫn nhớ vở kịch đó. Cũng như tôi không thể nào quên được cái "mùa hạ cuối cùng" đó. Không phải là người mê tín nhưng tôi thấy dường như có cái gì như là định mệnh. Anh Vũ đã làm việc ngày đêm hối hả, như biết rằng mình sắp bị giỏi bắt đi. Còn chị Quỳnh thì trái tim trĩu nặng bao nhiêu lo lắng. Chỉ có một điều an ủi duy nhất là ngay cả cái chết, cái chết định mệnh, phũ phàng cũng không thể chia lìa anh chị. Lưu Quang Định 9.2003 Hai bài thơ cuối cùng Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh viết trong mùa hè năm 1988 là Thư viết cho Quỳnh trên máy bay (Lưu Quang Vũ, 7/5/1988) và Thời gian trắng (Xuân Quỳnh, 6/1988). Lộ tòng kim dạ bạch, Nguyệt thị cố hương minh. ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Lưu Quang Vũ - Ngọn lửa trong gương Đăng bởi CK vào 31/07/2008 08:03 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 31/07/2008 08:30 Ngày 29-8 cách đây 20 năm là ngày gia đình nhỏ của Lưu Quang Vũ bất ngờ ra đi sau một tai nạn thảm khốc. NSƯT Nguyễn Thước cùng cộng sự đang thực hiện bộ phim tài liệu về anh. * 20 năm ngày mất của gia đình nhà thơ Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh, bộ phim sẽ kể những gì, thưa anh? Và đã có tên cho phim chưa? - Phim được bắt đầu từ vùng đất trung du ở Phú Thọ, nơi Vũ chào đời. Rồi ngôi nhà 96 Phố Huế, nơi Vũ sống trong một căn phòng rất nhỏ hẹp, nhóm bạn thơ thân thiết ở Hải Phòng, chuyến đi định mệnh... Và những tình cảm của khán giả, nghệ sĩ, trong TP.HCM và ở Hà Nội. Phim sẽ là bức chân dung về người nghệ sĩ tài hoa này qua cảm xúc của chúng tôi. Những người làm phim cũng là những người bạn thân của cả gia đình Lưu Quang Vũ. Không thể không nói đến nhà thơ Xuân Quỳnh, người bạn đời và là đôi cánh cho tài năng của Vũ bay cao. Kịch bản phim do NSND Đào Trọng Khánh viết, anh Khánh từng là một người bạn thơ rất thân của Lưu Quang Vũ. Tên kịch bản từ đầu và cho đến hiện nay vẫn là Ngọn lửa trong gương. Nếu phim hoàn thành với một cái tên khác thì việc đó cũng không có gì là đặc biệt, bởi với phim tài liệu, quá trình làm phim là quá trình nhận thức lại. * Những điều gì ở tính cách của Lưu Quang Vũ được các anh nhắc đến thông qua những câu chuyện sẽ kể? - Lưu Quang Vũ là một con người có tính cách đặc biệt. Thơ dữ dội và kịch cũng dữ dội nhưng tính tình của anh thì lại rất nhẹ nhàng, lúc nào cũng rủ rỉ rù rì, chưa biết cáu giận với ai. Vũ sống bằng nội tâm, tránh những nơi ồn ào, tránh những đỉnh cao vinh quang để trở về với cuộc sống riêng của mình, cặm cụi lao động, cặm cụi cày xới. Hoạ sĩ Doãn Châu có viết về anh: “Vũ yêu quý đất nước này vô cùng, yêu từ thiên nhiên hùng vĩ với vị mặn của muối, vị đắng của măng rừng, từ con người VN quả cảm, nhân hậu cho tới những bờ cây bụi cỏ ven đường. Thậm chí có lần Vũ nói với tôi ngay cả mùi phân bò cũng làm Vũ rung động để nhớ thương một vùng quê nghèo...”. * Trong quá trình thực hiện phim, điều bất ngờ thú vị nhất anh tìm được là gì? - Những năm tôi thân với vợ chồng anh, tôi (và có lẽ hầu hết những khán giả cả nước lúc đó) chỉ biết nhiều về anh, yêu quý anh chủ yếu qua những vở kịch. Phần thơ mọi người mới chỉ biết qua tập Hương cây bếp lửa in chung với Bằng Việt. Một sự “trình làng” với nhiều xao động, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc hy vọng và chờ đợi một hồn thơ lớn khi anh đã trải qua thời gian dài sống, băn khoăn, suy nghĩ, dằn vặt. Vũ là một nhà thơ của rất nhiều những con người Việt Nam đau đớn trong chiến tranh, với những chia ly, mất mát, tan vỡ... Vũ còn là một nhà thơ tình với tất cả những người bạn, những người đàn bà... Có một điều rất bất ngờ và rất thú vị đối với riêng tôi, đó là dù đã xem hầu hết các vở kịch của Vũ nhưng riêng vở chèo Muối mặn của đời em, tôi lại chưa xem. Khi quay lại những bản thảo của anh, tôi lặng người khi thấy trên bảng tên các nhân vật có một nhân vật chính tên là Thước, một nhân vật rất tốt, như trong hầu hết vở kịch của Vũ bao giờ cũng có những người rất tốt để anh gửi gắm tình cảm vào đó. Tôi biết Vũ đã luôn rất quý tôi nhưng hình như chưa bao giờ tôi cảm nhận được hết tình cảm mà anh dành cho tôi... * Ai là người có ảnh hưởng nhiều nhất đến Lưu Quang Vũ về nghệ thuật? - Khi còn nhỏ, Lưu Quang Vũ học vẽ từ hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Gia Nùng ở trong vùng kháng chiến Phú Thọ. Mỗi khi bác Tỵ vẽ, Vũ rất thích ngồi bên cạnh xem, rồi cũng lấy que vạch ngang dọc trên mặt đất. Trong hồi ký của bà Vũ Thị Khánh - mẹ Lưu Quang Vũ, có viết: “Và ngày ấy, trong căn nhà lợp lá cọ ở một quả đồi vắng của vùng Phú Thọ, chồng tôi đã tin chắc rằng sau này lớn lên con trai mình sẽ trở thành nghệ sĩ”. Nhưng có lẽ người đã ảnh hưởng đến Vũ nhiều nhất cả về nghệ thuật và nhân cách sống là cha anh, nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Ông đã dõi theo anh trong từng bước chân, từng suy nghĩ. * Lưu Quang Vũ là một người đàn ông tài hoa và cũng đào hoa… vậy trong phim các anh có nhắc nhớ cho người xem đến khía cạnh này không? - Tại sao lại không? Tình yêu trong Lưu Quang Vũ hình như chưa bao giờ cạn. Có nhiều người đàn bà yêu Vũ, đến với Vũ cũng đâu có gì ngạc nhiên. Tôi đọc được trong một bài viết tôi nghĩ là rất hay và rất chính xác về những mối tình của Vũ mà Lưu Khánh Thơ, em gái Vũ viết: “Lưu Quang Vũ là một người đàn ông may mắn. Trong cuộc đời long đong, vất vả của anh, hầu như ở giai đoạn nào anh cũng gặp một tình yêu lớn. Cho dù cái mà tình cảm đó đem lại có thể là một vết thương, một nỗi đau suốt đời”. * Vậy khi nhắc đến thì các anh sẽ chọn cách nào để cả người còn sống và người đã mất đều không bị tổn thương? - Đoàn làm phim đã tiếp xúc với tất cả những người đã yêu Vũ hay nói cách khác là giữa Vũ và họ đã có những tình cảm với nhau. Chúng tôi tin rằng khi bộ phim được trình chiếu sẽ không làm tổn thương đến ai, cả người sống lẫn người đã khuất. Bởi trong những câu chuyện này, tình cảm giữa họ đẹp, hồn nhiên và trong veo quá... Rồi mọi chuyện không thành nhưng họ vẫn là bạn bè tốt cho đến lúc mãi mãi xa nhau. Bộ phim Ngọn lửa trong gương được thực hiện nhân 20 năm ngày mất của nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh. Gia đình Lưu Quang Vũ cùng Trung tâm sản xuất phim tài liệu - Đài truyền hình VN sản xuất. Kịch bản: NSND Đào Trọng Khánh, đạo diễn: NSƯT Nguyễn Thước (Hãng phim tài liệu T.Ư) và Bùi Tuấn (Đài THVN), quay phim: Hoàng Tấn Phát. * Và có ai từ chối trả lời các anh chưa? - Không, không có ai từ chối trả lời chúng tôi. Thậm chí có nhiều người còn thắc mắc tại sao không phỏng vấn họ. Tôi chỉ biết cảm ơn vì không thể làm gì hơn khi mọi thứ đều phải có hạn. * Làm phim về các danh nhân văn hoá đã qua đời, theo anh, những thuận lợi và khó khăn nhất với các nhà làm phim tài liệu là gì? - Tôi thấy khó khăn nhiều nhất là phần tư liệu. Gần như chúng tôi không có tư liệu gì về Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh ngoài những bản thảo thơ và kịch, một số ảnh gia đình còn lưu giữ, một số vở kịch đài truyền hình đã quay. Duy nhất có 6 phút hình ảnh động mà chính tôi quay bằng phim nhựa để lưu giữ tư liệu cho Hãng phim tài liệu Trung ương lại là những hình ảnh đám tang gia đình Vũ! Có lẽ cái quý nhất, phong phú nhất là anh chị có rất nhiều bạn bè và ở họ còn đầy ắp những ký ức về đôi vợ chồng tài hoa này. Có bốn câu thơ trong bài Mây trắng của đời tôi là lời tựa cho tập thơ cùng tên trên in sau khi Vũ mất: “Trên mái nhà, cao vút rừng cây, Trên rừng cây, những đám mây xô giạt, Trên ngày tháng, trên cả niềm cay đắng, Thơ tôi là mây trắng của đời tôi”. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của anh. Chúng tôi đã dành những ngày quay cuối cùng cho những người còn lại của gia đình Vũ. Có một buổi chiều với tổ ấm của con trai Vũ là “cu Kít” - Lưu Minh Vũ. Tôi hiểu, hình như những ký ức còn lại trong họ đã trở thành hành trang bất biến không thể thiếu được đi theo suốt cuộc đời. * Cảm ơn anh. Cát Khuê Nguồn: Thanh Niên chủ nhật , ngày 26/07/2008 ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Người đàn bà sau những bài thơ buồn của Lưu Quang Vũ Đăng bởi CK vào 31/07/2008 08:05 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 31/07/2008 08:29 Không dễ để những nam thi sĩ bộc lộ đàn ông tính của mình qua một hình thức vốn rất mềm mại và nhiều chiều nữ tính, đó là thơ. Lưu Quang Vũ là nhà thơ có quá nhiều nam tính. Những năm 1972, 1973, thơ anh như yếu đuối hơn, như thiếu tự tin hơn và luôn viết cho một người. Không thể nào mà người ta không tò mò, rằng người phụ nữ ấy là ai? Sau 35 năm của những bài thơ và 20 năm mất đi người thi sĩ bạc mệnh, những đau đớn của mối tình si ấy dường như vẫn vẹn nguyên trong chị, nữ hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền. Có một khoảng thời gian thơ của Lưu Quang Vũ buồn kinh khủng, những vần thơ dành cho một người phụ nữ nào đó mà bỗng nhiên tâm thế đàn ông của Lưu Quang Vũ trở nên đầy mặc cảm và ẩn ức. Dù đó có là những lời thơ như van xin, khao khát một tình yêu với nỗi buồn rầu bao phủ thì thơ của anh vẫn tiềm tàng một bản năng chở che mạnh mẽ mà chắc chắn có quá nhiều phụ nữ muốn được là... Để không chỉ riêng tôi muốn biết, muốn tìm hiểu về chị, hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền (con gái của nhà văn Kim Lân, chị gái của hoạ sĩ Thành Chương) Hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền một thời được coi là thần đồng hội hoạ trong thập kỷ 60 khi chị biết vẽ từ rất sớm, lại sinh trưởng trong một gia đình quá truyền thống là gia đình của nhà văn Kim Lân. 35 năm trước cho một cuộc tình không năm tháng mà hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền gọi cuộc tình ấy là “tình yêu của tôi, nỗi buồn của tôi”. Đó không giống một tình yêu bình thường, hai người gặp nhau và phải lòng nhau ngay lập tức. Khi đó hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền đang làm thêm việc vẽ minh hoạ cho sách và làm cho Tạp chí Thanh Niên của Trung ương Đoàn. Nhân một buổi gặp cộng tác viên cuối năm, Lưu Quang Vũ đã gặp Nguyễn Thị Hiền. Sau buổi họp, vừa về đến nhà, nhà văn Kim Lân đã nói: “Con ơi con, Vũ vừa đến tìm con đấy”. Đó là tiếng gõ đầu tiên đến trái tim người đàn bà này, có một chút ngạc nhiên, một chút lạ lẫm rằng có một người đàn ông đang kiếm tìm mình. Để rồi căn phòng tối với bài thơ “Đất nước đàn bầu” mà Lưu Quang Vũ đọc cho Hiền nghe trong ánh sáng của một ngọn đèn dầu chỉ còn là cái cớ cuối cho tình yêu trong sáng ấy khởi phát. Lưu Quang Vũ đi theo Hiền về nhà – như sau này bao lần đi theo khác, đứng khuỵ chân ở cửa – như sau này, anh cũng đứng cái dạng khuỵ chân làm tim Nguyễn Thị Hiền buốt nhói, trong chiếc áo lính bạc màu dài đến ngang đầu gối. Ngày ấy, Lưu Quang Vũ làm những câu thơ: Người con giai đến phòng em chiều thu Mặc áo mưa lính rách rưới Hắn buồn và nói luyên thuyên… …Người con giai nói với em Hắn không phải tấm hình đẹp trong sách Hắn chỉ là dãy phố nghèo lấm đất Không giấu che sự thật của lòng mình Chỉ là bờ đê nhiều khói và than Là con thuyền Luôn luôn kiếm tìm, luôn luôn từ bỏ Với cuộc đời thường, em còn bao mối giây gắn bó Em đi được với hắn không? Cái dáng đứng khuỵ chân ấy ám ảnh đến mãi sau này trong trí nhớ của hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền về người đàn ông chị đã yêu bằng tất cả những tuyện vọng và đau đớn. Nỗi khổ cũng bắt nguồn từ đấy cho đến mãi sau này. Hai người không thể nào vượt qua những rào cản của ranh giới đạo đức thông thường… Trong suốt buổi trò chuyện, đôi mắt sau cặp kính tròn của hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền lúc nào cũng long lanh nước, chị liên tục đưa tay xoa lên ngực trái, bởi nỗi đau đớn của một tình yêu dù đã 35 năm trôi qua và người trong cuộc cũng đã rời bỏ cõi trần này tròn 20 năm. Khoảng thời gian ấy, Lưu Quang Vũ vừa đi bộ đội về, có vợ con rồi, không có công ăn việc làm và mới bị kỷ luật. Tất nhiên với vô số những khuyết điểm ấy chỉ có thể làm cho mọi ngươì xung quanh lo hộ nữ hoạ sĩ thần đồng Nguyễn Thị Hiền chứ không phải là tác nhân khiến chị mảy may băn khoăn, mảy may suy tính trước tình yêu của mình dành cho thi sĩ. * Những lời đồn về một Lưu Quang Vũ tài hoa có tác động gì với chị không? Phải có 1 nguyên nhân nào trước khi “sét” ái tình giáng xuống chị chứ? - Tôi là người không quan tâm đến những lời đồn thổi cũng như quá khứ của Vũ. Có lẽ tôi đã đến với Vũ bằng sự rung động đối với những bài thơ của Vũ. Còn Vũ, Vũ đến với tôi bởi tranh của tôi. Từ thơ và tranh chúng tôi nhận ra nhau. Muôn ngàn lời đồn thổi cũng chẳng có tác động gì hết. Khi đó đài BBC có đưa tin trong Nam có hoạ sĩ Bé Ký, ngoài Bắc có Nguyễn Thị Hiền. Nhà văn Nguyên Hồng muốn đưa tôi đi học nước ngoài. Và đó là 1 trong những nguyên nhân người ta nhân danh để phản đối chuyện tình của tôi với Vũ. * Vì anh Vũ khi đó có vợ rồi hay vì điều gì khác nữa? Họ có gì không ưa anh ấy chăng? - Tôi cũng không hiểu nữa. Có thể bởi vì Vũ đã có vợ và mọi người lo cho tôi, lo cho sự nghiệp của tôi. Theo con mắt của mọi người thì sự nghiệp của tôi đang đi lên. Mọi người không muốn tôi phải trả giá trong mối quan hệ này. Rồi cơ quan, đoàn thể, họp kiểm điểm lên xuống. Đôi khi người ta nhân danh một điều gì đó và tin là họ đúng để người ta chà đạp rất kinh khủng những điều trong sáng, mong manh và tuyệt đẹp. Họ đã nhân danh tôi, nhân danh là vì sự nghiệp của tôi để làm điều đó. Khi ấy tôi còn quá trẻ với đời thường vì tôi suốt ngày đi học và đi vẽ. Nghỉ hè thì bố cho nghỉ 3 ngày rồi sáng vẽ, chiều vẽ, tối vẽ. Nếu không lại đọc sách. Không biết cái gì về đời thường, nên khi phải đối mặt với nó, tôi không hiểu tại sao nó lại phũ phàng đến thế? Chúng tôi yêu nhau thế nào ư, chỉ toàn là những cuộc hẹn. Và vô cùng trong sáng.Tôi mang màu và toan đến 28 Triệu Việt Vương, nhà bạn của chúng tôi là anh Lâm “râu” để vẽ, Vũ thì làm thơ. Có những câu tôi còn nhớ trong bài “Gửi Hiền”: Đêm phòng không tiếng nổ vỡ khắp trời Nỗi cô đơn đen ngòm như miệng vực Tôi muốn đi tới đích cùng em Tôi phải đi tới đích cùng em Lòng tôi như buổi sớm vẫn nguyên lành Em nhận lấy, em đừng e ngại mãi Tôi tan nát, tôi kinh hoàng sợ hãi Em cô đơn rồ dại của tôi ơi! * Những kỷ niệm cay đắng nào khác bên cạnh quãng thời gian như mơ ấy? Để rồi mối tình này cũng chẳng đến một cái happy ending nào? - Đầy cay đắng, đầy cay đắng. Tôi cảm tưởng lúc đó mọi người rủ nhau quyết tâm mà phá cho bằng được. Tôi và Vũ buồn lắm, cứ đi lang thang với nhau, đi café rồi đi ra biển. Có quá nhiều sự thật tôi cũng không muốn nói nữa. Bởi khi nói ra có lẽ lại thành nói xấu một người nào đó. Dù đó là sự thật thì cũng khó lòng lý giải, rằng tôi không hiểu tại sao có những lúc mọi người lại xấu đến thế? Tôi không muốn nói đến ai. Chỉ biết là khủng khiếp. Và đến giờ tôi cũng không giải thích được. Tình yêu của chúng tôi là tình yêu không năm tháng. Sau đó thì Vũ và Xuân Quỳnh đến với nhau. Nhưng kỳ lạ thay, mối tình ấy trong tôi không có sự ghen tuông như những tình yêu nam nữ bình thường khác, mà nó là thứ để mỗi khi nghĩ đến, trong tim tôi lại đau như cắt. Đau vật chất một cách thực sự. Không có sự hớn hở, sung sướng. Vũ cũng vậy. * Ngoài sự phản ứng của gia đình thì có phải là một mối tình kinh thiên động địa với dư luận khi ấy? - Đúng là kinh thiên động địa đấy, một trận cuồng phong. Có nhiều người bảo vệ vì thương tôi và người phản đối cũng dữ dội như trong 1 cơn điên… Đã có quá nhiều người làm tổn thương chúng tôi… * Hai người có nghĩ đến chuyện lấy nhau không? - Có chứ, bởi vì tôi sinh trưởng trong một gia đình lễ giáo rất nghiêm khắc. Bản chất của tôi đã yêu thì hết lòng. Nên khi Vũ và tôi không thể đến được với nhau, tôi đã buồn lắm. Nhưng không ngày nào Vũ không đón tôi. Sáng nào tôi đi làm, Vũ cũng đứng ở đầu ngõ Hạ Hồi nhìn tôi, rồi đạp xe đạp đi sau tôi. Tôi chuyển hướng sang đường khác, Vũ vẫn đạp xe theo tôi... * Thời gian đó, bác Kim Lân nói với chị thế nào về mối quan hệ ấy? - Bố tôi là một người quá yêu tôi. Đến nỗi mà tôi lớn lắm rồi, đến tuổi yêu từ đời nảo, đời nào rồi, mà cứ ai đến nhà chơi, bố tôi còn nói thẳng: “Xin lỗi mời anh đi về để cho cháu nó còn vẽ…”. Tôi cũng rất yêu bố tôi, ông là người đã chia sẻ với tôi rất nhiều. Tôi học giỏi nhưng khi tốt nghiệp cũng bị đánh liểng xiểng. Bố luôn bên tôi, sâu nặng hơn cả những người bình thường khác. Có thể cả đêm hai bố con nói về Picasso, về bác Sáng, bác Phái, về văn chương… Bố tôi rất sợ tôi đi với Vũ thì không làm được sự nghiệp của mình. Nhưng khi nào cụ phản đối, cụ cáu giận thì tôi lại dễ chịu. Khủng khiếp nhất là cụ bắt đầu ốm. Giữa mùa hè nắng chang chang của HN, cụ đi tất, quấn khăn len đắp chăn bông nằm rên hừ hừ trên giường như sắp chết. Tôi không đủ sức chịu đựng điều đó. Tôi đã từng đi luôn khi bố tôi mắng tôi, đuổi tôi, nhưng khi mọi người báo: “Ông Lân ốm rồi” thì tôi lại về. Đứng giữa hai con người, một là bố hai là Vũ. Cuối cùng tôi chấp nhận xa Vũ… như những câu thơ Vũ viết: Có gì đâu mà tiếc mà buồn Em biết đấy anh chẳng tin định mệnh Nhưng trên đời này chỉ ước mơ là có thật Hai ta hãy là giấc mộng của nhau thôi *** Sau này, khi bán được một số tranh đáng kể với số tiền đủ đề hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền mua được 1 căn nhà riêng phía sau ga Hàng Cỏ, tình yêu vẫn đầy ắp trong lòng dành cho Vũ nhưng chị không dám gặp anh bởi “nếu gặp chắc chắn chúng tôi sẽ làm điều gì đó có lỗi với Xuân Quỳnh”. Nhưng mà lúc nào Lưu Quang Vũ cũng đứng từ xa nhìn Hiền mỗi khi có thể thấy chị ở đâu. Có lần anh còn leo lên cửa sổ ở Cục Xuất bản chỉ để nhìn chị, và chị thì đứng khóc. Hai người không thể đến với nhau, không nên đến với nhau đã giữ mãi tình yêu trong sáng ấy. Và Nguyễn Thị Hiền gặp người chồng của mình, anh Lê Dưỡng Hạo, (nhà nghiên cứu Hán Nôm và mỹ thuật, em trai của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh) năm 1978. Sau khoảng 1, 2 tháng quen biết, hai người cưới nhau. (Anh chị có một cô con gái là hoạ sĩ trẻ Hiền Minh) Sau 10 năm, cũng là khi hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền đã có một cuộc sống hạnh phúc êm ấm bên chồng con, chị có gặp lại người thi sĩ xưa nay đã là một nhà viết kịch nổi tiếng. Chị vẫn nhớ mãi câu nói của Vũ: “Nếu ai mà làm cho Hiền không vẽ được nữa thì đó là tội ác!”. Hai người vẫn xa nhau. Trong đáy sâu thẳm của chị Hiền là tình cảm trong sáng thiêng liêng của chị và Vũ. Nhưng họ không gặp nhau vì cả hai bây giờ đã có gia đình riêng. Lưu Quang Vũ vào Sài Gòn dựng kịch. Họ hẹn nhau 2 tháng sau sẽ cùng làm chung 1 cuốn sách, như nối dài những dang dở đã hẹn ước từ những năm xưa. Không ai ngờ đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng… Chị kể: - Tôi và Vũ có thần giao cách cảm khủng khiếp. Một đêm tôi nằm ngủ, tôi mơ thấy mình đi đóng mấy cái áo quan một lúc. Tôi lay chồng dậy và nói tôi mệt quá vì mơ một giấc mơ như vậy. Nhưng sáng ra tôi buồn lắm, buồn đến mức không sao chịu được. Tôi đòi chồng đưa đi chơi, đến nhà hai vợ chồng anh Đỗ Hải. Ngồi được 1 lúc thì có người đến báo tin gia đình Lưu Quang Vũ bị tai nạn chết chiều qua. Ôi trời ơi, chiều qua họ bị tai nạn thì tối tôi nằm mơ như vậy... *** 35 năm của mối tình ấy, và 20 năm ngày mất của con người tài hoa bạc mệnh, tôi tìm được trên mạng một đoạn thơ của Lưu Quang Vũ, như một dự báo âm thầm từ nhiều năm về trước, trước khi tai nạn bất ngờ cướp anh đi. Có gì đâu mà khóc Hạnh phúc chỉ là điều bịa đặt Nên tình yêu là chuyện viển vông thôi Sương mùa đông lặng lẽ đã giăng đầy Bao kỷ niệm, quên đi đừng nhớ nữa Lá sẽ rơi trên cỏ mòn lối cũ Thân cây xưa sẽ gục đổ bên thềm Lời anh nói vang lên Như những lời vĩnh biệt "Cuộc sống chia rẽ chúng ta Chỉ cái chết là nối gần nhau lại” Sau này chết đi, ở bên nhau mãi Chấm dứt mọi đắng cay buồn tủi Mọi nhọc nhằn ngang trái E chúng mình không nhận được ra nhau. Cát Khuê Nguồn: Phụ nữ TP.HCM chủ nhật , tháng 6/2008 ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook

Lưu Quang Vũ (1948-29/8/1988) quê gốc ở Quảng Nam, sinh tại Phú Thọ, mất năm 1988 trong một tai nạn giao thông trên đường 5. Anh làm thơ từ thuở học cấp ba, rời ghế trường trung học, vào bộ đội anh viết nhiều hơn và bắt đầu đăng báo. Năm 1968, hai mươi bài thơ đầu tay chọn in chung vào tập Hương cây, bếp lửa giới thiệu một hồn thơ trong trẻo, đắm đuối mơ mộng và cũng còn nhiều dấu vết của sách vở nhà trường. Đắm đuối là đặc điểm suốt đời thơ Lưu Quang Vũ. Đặc điểm ấy ít thấy ở các nhà thơ khác cùng thời với anh. Hình như từ sau cách mạng tháng 8-1945, thơ chúng ta chuộng sự tỉnh táo với những thi liệu lấy từ thực tế cuộc sống. Vào những năm 60, một vài nhà thơ có uy tín đã kêu lên: thơ cần mê hơn... Lưu Quang Vũ mới đến đã đáp ứng được yêu cầu đó. Tìm ra những yếu tố tạo nên sự mê đắm này chính là tìm được đặc trưng cảm xúc của Lưu Quang Vũ.

Anh cảm thụ đời sống không chỉ bằng nhận thức mà bằng cả giác quan. Cảm giác là hạt nhân đầu tiên của cảm hứng Lưu Quang Vũ. Cảm giác gọi những ý thơ tuôn chảy. Đọc thơ anh ít thấy dấu vết của bố cục, cảm hứng liền dòng ào ạt, đầy ắp hình ảnh, ảnh thực và ảnh ảo, hiện thực và tưởng tượng, sách vở và đời sống hoà quyện thúc đẩy nhau trong các câu thơ dồn dập. Anh viết như trong một cơn say, bất chấp sự cực đoan và phi lý trong chi tiết. Thế giới trong thơ anh là thế giới của tưởng tượng. Giàu tưởng tượng nên mới thành đắm đuối. Trong thơ anh có cánh buồm đen của tên cướp bể, có ngọn lửa bập bùng người Âu Lạc múa trên châu thổ sông Hồng còn nguyên nếp phù sa. Có những đoạn thơ anh làm mê lòng ta như cổ tích:
Trung Hoa của tuổi thơ
Tiếng ngựa hí đêm khuya
Đoàn xe Chiến Quốc đi trong tuyết
Rũ rượi tóc râu, đao thương sáng quắc
Não bạt thanh la xủng xoẻng
Dữ tợn mà sầu thương.
Đắm đuối là bản sắc cảm xúc Lưu Quang Vũ. Nó tạo nên sức lôi cuốn ma quái ở thơ anh và cũng tạo nên lắm vất vả cho đời anh. Lưu Quang Vũ đã trải qua những năm tháng lao đao ngay ở tuổi thanh niên: ra bộ đội, không việc làm, gia đình tan vỡ, con nhỏ, chiến tranh đang ở thời kỳ ác liệt, cuộc sống khó khăn, xã hội xuất hiện nhiều tiêu cực... Tình cảnh đó đã được diễn đạt chân thành bằng một nghệ thuật thơ thuần chín, trong khoảng hai năm 1971, 1972, tập trung trong tập Cuốn sách xếp lầm trang (bản thảo, chưa in trọn vẹn). Nội dung khác với giai đoạn trước vốn trong trẻo và cũng khác với giai đoạn sau, đã thăng bằng. Giai đoạn này tâm hồn anh như già đi trong những cảm xúc tê tái. Đây là thơ được viết ra từ một thúc bách nội tâm, từ cảnh ngộ cá thể của mình. Chúng ta đọc thơ cần có sự cảm thông, đừng máy móc cào bằng, đòi hỏi thơ ai cũng phải có một công dụng tức thì với xã hội. Thơ hay bao giờ cũng có công dụng, nhưng là một công dụng xa, giúp cho sự hình thành nhân cách con người. Nhân cách hình thành từ những chiêm nghiệm. Thơ Lưu Quang Vũ giai đoạn này rất nhiều chiêm nghiệm. Anh nhìn và khái quát việc đời trên cảnh ngộ của anh. Anh thấy cuộc đời lúc đó như cuốn sách xếp lầm trang: chuyện đôi trai gái tự tình lẫn với chuyện chia gia tài, gián điệp lẫn với triết gia và lái bò... Có thể có một chút bi quan quá sớm, nhưng cũng đã thấy một linh cảm trước thời cuộc. Mười bảy năm sau những chủ đề này sẽ trở lại trong kịch Lưu Quang Vũ và làm sôi động sân khấu cả nước. Sức mạnh hiện thực đã thấm vào tâm hồn nhiều mơ mộng ấy. Mùi lá bưởi lá chanh nên thơ và phù phiếm sẽ không bao giờ còn quay lại tô điểm cho cái hiện thực dữ dằn của chiến tranh nữa. Lưu Quang Vũ khai thác chất thơ hoàn toàn khác với giai đoạn đầu cầm bút. Thay vì sự ca ngợi ngọt ngào là sự chất vấn rát bỏng:
Những tuổi thơ không có tuổi thơ
Những đôi mắt tráo trơ mà tội nghiệp
Chúng ăn cắp đánh nhau, chửi tục
Lang thang hè đường, tàu điện, quán bia
Những bông hoa chưa nở đã tàn đi
Những cành cây chưa xanh đã cỗi
(...)
Sao mọi người có thể dửng dưng
Nhìn em đi trên đường tối
Mọi người đều có tội
Trước tuổi thơ đã chết của em.
Anh bộc lộ: Những chữ đẹp xưa giờ đã bỏ tôi rồi. Đối mặt với anh là: “Những chữ như đinh nhìn tôi sắc nhọn/ Chữ gầy guộc, chữ bùn lầy cống rãnh...” Và anh quyết liệt đổi thay: “Những chữ đẹp xưa giờ tôi đuổi đi rồi/ Bao chữ mới đang ầm ầm đập cửa/ Thơ rộng dài cánh lớn hãy bay đi”. Giai đoạn này Lưu Quang Vũ có bước tiến dài về nghệ thuật. Tôi cho rằng thời gian này là điểm đỉnh trong đời thơ Lưu Quang Vũ. Sau này anh viết ấm áp hơn nhưng không tài bằng. Cái tài của anh là ở chỗ từ những việc, những vật cụ thể anh làm bật lên được một cảm xúc, một nhận thức, một tâm trạng vốn rất khó nắm bắt. Hạt mưa đen rơi trên ô kính vỡ. Sao hạt mưa có màu đen. Ai biết? Chỉ biết nó gợi tro than, loạn lạc, ly tán...

Lưu Quang Vũ thuộc tạng người chỉ tin ở mắt mình, chỉ tin ở lòng mình. Mắt anh thấy và tim anh đau nhói anh đều viết thành thơ. Anh muốn trung thành với tình cảm nguyên sơ của mình. Anh không bận tâm lắm đến sự xác định là cá biệt hay phổ biến, bản chất hay hiện tượng.

Cảm hứng dân tộc hình thành sớm và phát triển dần thành cảm hứng mạnh trong Lưu Quang Vũ. Đất nước mang hình chiếc đàn bầu, với những chị hai, những mắt một mí, những cơi trầu, những câu hát giao duyên... bao nhiêu lần trở đi trở lại trong tình trong ý Lưu Quang Vũ, tạo nên nét duyên riêng đắm đuối trong thơ anh. Anh viết rất tạo hình, có lẽ vì anh còn là một hoạ sĩ: “Những con chim lạc mỏ dài/ Bay qua vầng trăng lớn”.

Đặc biệt là sức gợi từ những chi tiết nhỏ đan vào các ý thơ: “Cánh rừng sẫm tắm hoàng hôn đỏ rực/ Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng”.

Một chữ nồng đã phả vào đêm cái hơi hướng nhiệt đới còn nguyên sơ làm khung cảnh trở nên phập phồng sự sống.

Những bài thơ anh viết ở thập niên 80 như đối nghịch với các bài thời 71, 72. Nhưng thật ra giai đoạn trước kiến tạo cho giai đoạn sau. Sức nặng của câu thơ yêu đời được hình thành từ câu thơ mất mát. Qua mất mát mới biết giá trị của sự có lại: “Mùa gió mới có em tôi có lại/ Bài hát cũ tôi hát cùng đồng đội/ Lại dập dồn như gió khắp rừng khuya”.

Giữa lúc anh đang hào hứng viết cả thơ lẫn kịch, năng suất kỳ lạ, dự định táo bạo, thì tai nạn ập đến. 1948-1988. Cuộc đời anh mới 40 năm tuổi đã dừng, sự đóng góp của anh ở thơ, ở kịch đã được đời ghi nhận như một trong các sự kiện nghệ thuật cuối thế kỷ XX.

4-1-2002, Vũ Quần Phương


Tác phẩm:

Thơ:
- Hương cây (in chung với Bằng Việt, NXB Văn học, 1968)
- Mây trắng của đời tôi (NXB Tác phẩm mới, 1989)
- Bầy ong trong đêm sâu (NXB Hội nhà văn, 1993)
- Lưu Quang Vũ, thơ và đời (NXB Văn hoá thông tin, 1997)
- Gửi tới các anh (NXB Quân Đội Nhân dân, 1998)
- Những bông hoa không chết (in chung cùng phần Nhật ký, NXB Lao động, 2008)

Văn:
- Mùa hè đang đến (truyện, 1983)
- Người kép đóng hổ (truyện, 1984)
- Một vùng mặt trận (truyện vừa)

Kịch:
- Hồn Trương Ba da hàng thịt (1981)
- Nàng Sita (1982)
- Người trong cõi nhớ (1982)
- Ngọc Hân công chúa, 1984
- Tôi và chúng ta, 1984
- Người tốt nhà số 5
- Bệnh sĩ, 1988
- Tin ở hoa hồng, 1986...

Tiểu luận, phê bình:
- Diễn viên và sân khấu, 1979 (cùng viết với Vương Trí Nhàn và Xuân Quỳnh)
Lưu Quang Vũ (1948-29/8/1988) quê gốc ở Quảng Nam, sinh tại Phú Thọ, mất năm 1988 trong một tai nạn giao thông trên đường 5. Anh làm thơ từ thuở học cấp ba, rời ghế trường trung học, vào bộ đội anh viết nhiều hơn và bắt đầu đăng báo. Năm 1968, hai mươi bài thơ đầu tay chọn in chung vào tập Hương cây, bếp lửa giới thiệu một hồn thơ trong trẻo, đắm đuối mơ mộng và cũng còn nhiều dấu vết của sách vở nhà trường. Đắm đuối là đặc điểm suốt đời thơ Lưu Quang Vũ. Đặc điểm ấy ít thấy ở các nhà thơ khác cùng thời với anh. Hình như từ sau cách mạng tháng 8-1945, thơ chúng ta chuộng sự tỉnh táo với những thi liệu lấy từ thực tế cuộc sống. Vào những năm 60, một vài nhà thơ có uy tín đã kêu lên: thơ cần mê hơn... Lưu Quang Vũ mới đến đã đáp ứng được yêu cầu đó. Tìm ra những yếu tố tạo nên sự mê đ…

Hương cây (1968)

Mây trắng của đời tôi (1989)

Bầy ong trong đêm sâu (1993)

Gửi tới các anh (1998)

Di cảo (2008)

Những bông hoa không chết (2008)

 

Ảnh đại diện

Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh và mùa hè định mệnh

Mùa hè năm 1988 là mùa hè cuối cùng của Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh. Đó là khoảng thời gian mà Lưu Quang Vũ làm việc hối hả, với năng suất phi thường, làm việc như biết mình sắp bị giỏi bắt đi. Đó cũng là mùa hè Xuân Quỳnh phải nằm viện, trái tim nhỏ bé của chị nặng trĩu những dự cảm ưu phiền... ChuÌ?ng tôi xin giới thiệu những chi tiết chưa nhiều người biết về những ngày cuối cùng của anh chị. Bài viết do nhà báo Lưu Quang Định, em ruột của Lưu Quang Vũ gửi riêng cho VietNamNet.

Chỉ trong vòng 8 năm kể từ khi bước vào sân khấu - năm 1980 với vở "Sống mãi tuổi 17" - cho đến khi nằm xuống, Lưu Quang Vũ đã viết hơn 50 vở kịch, hầu hết đã được dàn dựng. Đó là còn chưa kể hàng trăm bài thơ, truyện ngắn, bài báo... Người ta vẫn thường hỏi Lưu Quang Vũ lấy đâu ra thời gian, năng lượng để hoàn thành một khối lượng công việc đồ sộ như vậy trong một thời gian ngắn như vậy? Ngay cả bạn bè, đồng nghiệp, ngay cả những người thân trong gia đình nhiều lúc cũng không trả lời nổi câu hỏi đó.

Đặc biệt, trong năm cuối cùng, mùa hè cuối cùng của đời mình, Lưu Quang Vũ làm việc hối hả hơn bao giờ hết. Sau khi Lưu Quang Vũ mất, trên bàn làm việc của anh vẫn còn để một mảnh giấy nhọ, trong đó anh ghi: "Công việc phải làm từ tháng 8 tới tháng 12 (1988)", với tên 8 vở kịch, một tập thơ cùng một số công việc khác. Cho đến khi mất, nghĩa là chỉ trong vòng một tháng kể từ khi viết mảnh giấy, anh đã kịp thực hiện và đưa lên sàn diễn trọn vẹn 3 vở: Trái tim trong trắng (đoàn Kịch Hải Phòng và Đoàn Chèo Hà nam Ninh dựng), Lời thề thứ chín (Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị dựng 1988), Điều không thể mất (Nhà hát Tuổi trẻ, Đoàn Kịch Quân khu II dựng 1988). Vở thứ tư - Chim sâm cầm không chết - đã viết xong cảnh cuối, Đoàn kịch Hải Phòng đã nhận dàn dựng. Và nếu như không ra đi đột ngột thì rất có thể Lưu Quang Vũ đã có cơ hội "hoàn thành kế hoạch năm", viết nốt 4 vở còn lại: Bồ câu biển, Trà hoa nữ, Thủ tục làm người sống... Cũng trong năm 1988, ngoài mấy vở trên, anh còn viết một loạt vở nữa như Đôi đũa kim giao (Đoàn ca múa Hà Nam Ninh dựng), Ông không phải bố tôi (có 4 đoàn dựng), Linh hồn của đá (Đoàn Chèo Hải Phòng dựng), Bệnh sĩ (Nhà hát kịch Trung ương dựng)...

Mùa hè năm đó tôi mới 22 tuổi, đang là sinh viên năm thứ hai ở Liên xô cũ, được về phép. Sau mấy năm xa nhà, thấy HN có một số thay đổi: Chế độ tem phiếu đã bị bãi bờ. Đồ đạc có vẻ nhiều hơn, nhưng điện vẫn thường xuyên mất, cuộc sống nhìn chung vẫn rất vất vả. Gia đình tôi sống trong một căn phòng ở gác hai số nhà 96 phố Huế. Anh Vũ, chị Quỳnh, Kít (Lưu Minh Vũ) và Mí (Lưu Quỳnh Thơ) sống trên tầng ba, trong một căn phòng rộng 6,5 mét vuông. Suốt mùa hè đó, thường thường tôi chỉ gặp Lưu Quang Vũ lúc sáng sớm, hoặc lúc 1,2 giờ sáng. Còn cả ngày anh đi vắng suốt. Lịch làm việc của anh bao giờ cũng dày đặc. Có ngày sáng anh lên Hà Bắc dựng kịch, chiều về Nhà hát kịch đọc vở mới với đạo diễn, tối lại đi Hà Tây xem duyệt vở. Có khi nửa đêm về đến nhà, anh uống vội cốc cà phê rồi lại ngồi vào bàn viết. Nhiều lúc chị Quỳnh bảo với mẹ tôi: "Mẹ phải can anh Vũ giúp con, anh ấy làm việc chẳng kể gì đến sức khoẻ cả." Mẹ tôi cũng thường nói với anh "con làm gì cũng phải giữ lấy sức khoẻ". Những lúc đó, anh thường bảo: "Con cũng biết thế nhưng mình cố một chút thì đoàn có vở dựng, mấy chục con người có công ăn việc làm..." Anh Vũ là người rất mê bóng đá nhưng giải EURO năm đó tôi thấy hầu như anh không còn thời gian để xem. Chị Quỳnh cũng "miễn" mọi việc nhà cho anh, không phải xuống tầng 1 xếp hàng xách nước lên tầng 3. Hồi đó nước sinh hoạt ở HN là một vấn đề rất cơ cực.

Nhà tôi mùa hè đó lúc nào cũng có một vài ông khách - là người của các đoàn - đến "đòi" kịch bản. Mới bảnh mắt, vừa mở cửa ra đánh răng, rửa mặt đã thấy có người đứng đợi. Có người ý tứ, anh Vũ vắng nhà thì đứng ngoài cầu thang chờ. Nhưng cũng có người cứ ngồi lì trong nhà, uống hết tuần chè này sang tuần khác, đốt thuốc khói um nhà. Dường như họ nghĩ làm vậy thì gia đình Lưu Quang Vũ sẽ sốt ruột, anh sẽ chóng phải về hơn. Nhiều hôm thương anh, chúng tôi buộc phải nói dối là anh đi vắng. Khách vẫn kiên nhẫn đứng chờ bên ngoài. Anh Vũ khoá trái cửa, ngồi trong nhà viết, muốn ho cũng không dám ho. Có ông khách đứng nấp ở cầu thang. Một lúc thấy anh Vũ lò dò ra bèn reo toáng lên, xồ tới như bắt được thằng kẻ trộm.

Các đoàn đều săn đón vở của anh. Mà tính anh Vũ thì lại cả nể, với ai cũng hứa. Hứa rồi bận quá không thực hiện được lời hứa. Khi người ta đến lại phải lỡ hẹn, hoặc phải nói dối. Có người bị anh hẹn đi hẹn lại ba bốn lần. Thành ra anh bị mang tiếng là hay nói dối. Thực ra thì anh không định nói dối mà chỉ do quá bận bịu. Có người - như đạo diễn NSND Phạm Thị Thành - thì thông cảm và gọi đó là "kiểu nói dối đáng yêu". Nhưng có người - như cố đạo diễn NSND Nguyễn Đình Nghi - nhiều lúc phát cáu lên, nói với chị Quỳnh: "Hay là Vũ không muốn làm việc với tôi nữa thì cứ nói thẳng ra. Việc gì cứ phải lỡ hẹn như vậy?!..." Chị Quỳnh lại phải xin lỗi, giải thích mãi.

Anh Vũ thì bận túi bụi như vậy, còn chị Quỳnh mùa hè năm đó sức khoẻ giảm sút rất nhiều. Tháng 3 năm 1988 chị được cử tham gia Ban Giám khảo Liên hoan phim toàn quốc ở Nha Trang. Trên đường đi, chiếc xe chở cả đoàn đang qua cầu bỗng bị lật. Trong tấm ảnh ghi lại vụ tai nạn đó, chiếc xe khách nằm 1/3 trên thành cầu, còn 2/3 lửng lơ trong khoảng không. Thật hú vía! Rồi đến tháng năm, chị thường thấy khó thở, thỉnh thoảng ngực trái lại dội lên những cơn đau rất lạ. Vào viện khám, bác sĩ bảo tim chị có vấn đề. Xuân Quỳnh phải nằm viện hai tháng trời. Khi tôi về phép thì chị đã ra viện, nhưng sắc mặt kém đi nhiều so với một năm trước đó, khi tôi gặp chị ở Matxcova trong đoàn nhà văn VN sang học tại Trường viết văn Gorki. Tính chị vẫn vui, vẫn hay đùa, nhưng nhiều lúc trong câu chuyện thấy ánh mắt chị thảng thốt, như nhìn vào đâu đâu. Xuân Quỳnh đã từng có hẳn một bài thơ viết về trái tim, bài Tự hát: "Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng/Trái tim em anh đã từng biết đấy/Anh là người coi thường của cải/Nên nếu cần anh bán nó đi ngay... Em trở về đúng nghĩa trái tim em/Là máu thịt đời thường ai chẳng có/Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa/Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi...." Oái ăm thay, trái tim chan chứa tình yêu thương đó giờ lại đang đau. Chị Quỳnh làm dâu trong nhà tôi đã mười lăm năm, thật sự cả mấy anh em chúng tôi đều coi chị như chị ruột. Chúng tôi vẫn nhớ ngày anh chị mới về với nhau, tài sản giá trị nhất chỉ là chiếc phích nhọ. Những ngày hè nóng cháy, chị đi giặt ở cái máy nước công cộng ngoài phố Trần Nhân Tông về, cái chậu quần áo to tướng vẹo một bên người. Những ngày Tết chị ngồi gói bánh chưng. Thời cấp ba chị đèo tôi lên nhà thầy Trần Nhật Minh xin học thêm môn văn... Vậy mà giờ đây, khi anh Vũ bắt đầu ổn định thì chị lại đau yếu. Chắc để cho không khí trong nhà đỡ nặng nề, mọi người lúc đó thường tránh nói về bệnh tật của chị. Vì vậy tôi cũng không biết bệnh chị nghiêm trọng đến mức nào. Mãi về sau này, mẹ tôi mới kể là lúc đó, anh Vũ đã nói với bà: "Bác sĩ bảo bệnh tim của Quỳnh rất nặng. Nếu chăm sóc tốt thì cũng chỉ sống được vài ba năm nữa thôi, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi đặc biệt"...

Về con cái của anh chị, năm đó cũng đã lớn khôn nhiều. Tuấn Anh - con riêng chị Quỳnh - đã tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ, xin được vào làm ở Thông tấn xã. Kít đang học Sân khấu Điện ảnh. Đặc biệt lớn là Mí. Nó không còn bầu bĩnh, để tóc dài giống con gái như hồi nhọ, mà cao vổng lên, chân tay lòng khòng, lại đang vỡ giọng. Nhưng Mí vẫn rất ngoan và học giỏi. Chị Quỳnh thường khoe nó rất tiết kiệm, bố cho tiền ăn phở sáng thì cu cậu chỉ ăn xôi. Mí chăm làm việc nhà, ngày nào cũng xách nước, nấu cơm giúp mẹ. Lúc rảnh thì mua vé rủ bà nội đi xem phim. Nó vẫn chơi guitare rất hay, vẽ và viết truyện ngắn đều, thỉnh thoảng lại thấy được đăng báo. Tôi đặc biệt ấn tượng với một bức tranh của Mí, vẽ một lọ hoa màu tím, đến giờ vẫn treo trên tường nhà tôi. Ấn tượng bởi đó là một bức tranh rất buồn và già dặn, như không phải là của một cậu bé 13 tuổi.

Cũng mùa hè năm đó, anh Vũ chị Quỳnh có một tin vui: Được Hội Nhà văn phân nhà, một căn hộ hai phòng trên tầng ba khu tập thể Ngọc Khánh. Tôi đã một lần đạp xe đèo chị Quỳnh lên xem nhà. Đi đường Kim Mã, rồi rẽ trái. Hồi đó chưa có đường Liễu Giai, phải dắt xe đạp vượt qua những đống đất đá lổn nhổn mới tới khu tập thể. Chị Quỳnh tấm tắc: "Rộng quá, ở thế nào cho hết!" Thực ra diện tích nhà tổng cộng chỉ hơn 40 mét vuông thôi, nhưng so với cái chuồng cu 6 mét mà anh chị đang ở thì quả là rộng thật. Rồi chị tính chỗ này kê giường, chỗ kia kê tủ. Suốt bao nhiêu năm, chưa bao giờ anh Vũ chị Quỳnh có giường bởi vì nhà quá chật, không đủ chỗ kê. Chỉ tiếc là chưa kịp dờn về căn hộ mới, chưa kịp nằm trên chiếc giường mơ ước ấy, anh chị đã ra đi...

Thấm thoắt thế mà đã sắp hết hè. Tôi nhớ cái tuần cuối cùng trước ngày tôi trả phép, cùng lúc có hai vở kịch của anh Vũ chuẩn bị công diễn. Vở đầu là Bệnh sĩ, một hài kịch cười ôm bụng từ đầu đến cuối. Vở thứ hai là Lời thề thứ chín, đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị dựng. Hôm chạy suốt vở này lần đầu, anh Vũ chở tôi vào Mai Dịch xem. Hai anh em đi trên chiếc xe Peugeot 103 màu đỏ, anh Vũ vừa mua cách đó mấy hôm. Dọc đường đi, anh nói chuyện với tôi rất nhiều, về Mí, về sức khoẻ chị Quỳnh, về những chuyện tức cười hồi anh đi Liên xô. Anh bảo: "Định và Bi (thằng em út nhà tôi) ở bên đó cứ yên tâm học cho thật giỏi, ở nhà mẹ đã có anh Vũ chị Quỳnh lo chu đáo. Năng viết thư cho mẹ đỡ mong. Khi nào Định cần gì bảo anh Vũ sẽ mua gửi sang..." Tôi kém anh Vũ tới mười tám tuổi. Vừa học xong phổ thông thì tôi đi xa, nên ngoài lúc thư từ, chẳng mấy khi anh nói chuyện với tôi như với một người lớn thế này. Rồi một cơn mưa rào xối xả ập đến. Anh Vũ lấy trong xắc ra một tấm nylon nhựa choàng cho cả hai anh em rồi lại phóng đi. Vào đến Mai Dịch thì ướt lướt thướt hết cả...

Ngày 23/8, mẹ tôi cùng mấy cụ trong tổ hưu đi Sài Gòn chơi. Từ sáng sớm anh Vũ đã xuống chào mẹ và nói: "Hôm nay con bận đi làm việc nên không tiễn mẹ được. Khi nào mẹ ra con sẽ đi đón." Miệng nói như vậy, tay anh cầm bút viết lên cuốn lịch treo tường dòng chữ: 8/9 mẹ ra, có mặt" Ngày 25/8, tôi bay trở lại nước Nga. Hôm đó anh Vũ cũng đi vắng đâu. Xe sắp chuyển bánh lên Nội Bài thì chị Quỳnh và Mí chạy về. Tôi đã ngồi trong xe, chị Quỳnh đứng ngoài nắm lấy tay tôi, cười: "Hôm nào anh chị đi Liên xô, Định lại dẫn ra chụp ảnh ở Quảng trường Đờ nhé..." Có ngờ đâu đó là những lời cuối cùng chị Quỳnh nói với tôi.

Ngày 27/8, anh Vũ và hoạ sĩ Doãn Châu xuống làm việc với đoàn kịch Hải Phòng, đưa cả chị Quỳnh, Mí và gia đình anh Doãn Châu đi cùng, tranh thủ kết hợp cho trẻ con tắm biển Đồ Sơn trước khi bước vào năm học mới. Chiều 29/8 trở về, vừa qua đầu cầu Phú Lương thì tai nạn xảy ra.

Ba ngày sau, tôi mới biết tin. Hôm đó tôi sang trường Bưu điện chơi. Vừa vào phòng một anh bạn nghiên cứu sinh thì thấy mắt anh đẫm nước, rồi bảo: "Xin chia buồn với Định". Tôi ngớ người chẳng hiểu gì cả. Anh đưa cho tôi tờ báo Nhân dân, ở trang 8 có một ô nhỏ đóng khung bắt đầu bằng hai chữ:Tin buồn...

Đã 15 năm trôi qua. Có thể thời gian đã mài mòn bớt những sắc cạnh so với ban đầu, nhưng nỗi đau thì vẫn là nỗi đau. Anh Vũ có một vở kịch tên là "Mùa hạ cuối cùng", một vở rất nhiều chất thơ, do Nhà hát Tuổi trẻ dựng. Chí Trung, Đức Hải, Lan Hương, Minh Hằng... lúc đó đóng vai các cô cậu học sinh lớp 10, đều trẻ măng. Đã bao nhiêu năm, tôi vẫn nhớ vở kịch đó. Cũng như tôi không thể nào quên được cái "mùa hạ cuối cùng" đó. Không phải là người mê tín nhưng tôi thấy dường như có cái gì như là định mệnh. Anh Vũ đã làm việc ngày đêm hối hả, như biết rằng mình sắp bị giỏi bắt đi. Còn chị Quỳnh thì trái tim trĩu nặng bao nhiêu lo lắng. Chỉ có một điều an ủi duy nhất là ngay cả cái chết, cái chết định mệnh, phũ phàng cũng không thể chia lìa anh chị.

Lưu Quang Định
9.2003

Hai bài thơ cuối cùng Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh viết trong mùa hè năm 1988 là Thư viết cho Quỳnh trên máy bay (Lưu Quang Vũ, 7/5/1988) và Thời gian trắng (Xuân Quỳnh, 6/1988).
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Lưu Quang Vũ - Ngọn lửa trong gương

Ngày 29-8 cách đây 20 năm là ngày gia đình nhỏ của Lưu Quang Vũ bất ngờ ra đi sau một tai nạn thảm khốc. NSƯT Nguyễn Thước cùng cộng sự đang thực hiện bộ phim tài liệu về anh.

* 20 năm ngày mất của gia đình nhà thơ Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh, bộ phim sẽ kể những gì, thưa anh? Và đã có tên cho phim chưa?

- Phim được bắt đầu từ vùng đất trung du ở Phú Thọ, nơi Vũ chào đời. Rồi ngôi nhà 96 Phố Huế, nơi Vũ sống trong một căn phòng rất nhỏ hẹp, nhóm bạn thơ thân thiết ở Hải Phòng, chuyến đi định mệnh... Và những tình cảm của khán giả, nghệ sĩ, trong TP.HCM và ở Hà Nội. Phim sẽ là bức chân dung về người nghệ sĩ tài hoa này qua cảm xúc của chúng tôi. Những người làm phim cũng là những người bạn thân của cả gia đình Lưu Quang Vũ. Không thể không nói đến nhà thơ Xuân Quỳnh, người bạn đời và là đôi cánh cho tài năng của Vũ bay cao. Kịch bản phim do NSND Đào Trọng Khánh viết, anh Khánh từng là một người bạn thơ rất thân của Lưu Quang Vũ. Tên kịch bản từ đầu và cho đến hiện nay vẫn là Ngọn lửa trong gương. Nếu phim hoàn thành với một cái tên khác thì việc đó cũng không có gì là đặc biệt, bởi với phim tài liệu, quá trình làm phim là quá trình nhận thức lại.

* Những điều gì ở tính cách của Lưu Quang Vũ được các anh nhắc đến thông qua những câu chuyện sẽ kể?

- Lưu Quang Vũ là một con người có tính cách đặc biệt. Thơ dữ dội và kịch cũng dữ dội nhưng tính tình của anh thì lại rất nhẹ nhàng, lúc nào cũng rủ rỉ rù rì, chưa biết cáu giận với ai. Vũ sống bằng nội tâm, tránh những nơi ồn ào, tránh những đỉnh cao vinh quang để trở về với cuộc sống riêng của mình, cặm cụi lao động, cặm cụi cày xới. Hoạ sĩ Doãn Châu có viết về anh: “Vũ yêu quý đất nước này vô cùng, yêu từ thiên nhiên hùng vĩ với vị mặn của muối, vị đắng của măng rừng, từ con người VN quả cảm, nhân hậu cho tới những bờ cây bụi cỏ ven đường. Thậm chí có lần Vũ nói với tôi ngay cả mùi phân bò cũng làm Vũ rung động để nhớ thương một vùng quê nghèo...”.

* Trong quá trình thực hiện phim, điều bất ngờ thú vị nhất anh tìm được là gì?

- Những năm tôi thân với vợ chồng anh, tôi (và có lẽ hầu hết những khán giả cả nước lúc đó) chỉ biết nhiều về anh, yêu quý anh chủ yếu qua những vở kịch. Phần thơ mọi người mới chỉ biết qua tập Hương cây bếp lửa in chung với Bằng Việt. Một sự “trình làng” với nhiều xao động, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc hy vọng và chờ đợi một hồn thơ lớn khi anh đã trải qua thời gian dài sống, băn khoăn, suy nghĩ, dằn vặt. Vũ là một nhà thơ của rất nhiều những con người Việt Nam đau đớn trong chiến tranh, với những chia ly, mất mát, tan vỡ... Vũ còn là một nhà thơ tình với tất cả những người bạn, những người đàn bà... Có một điều rất bất ngờ và rất thú vị đối với riêng tôi, đó là dù đã xem hầu hết các vở kịch của Vũ nhưng riêng vở chèo Muối mặn của đời em, tôi lại chưa xem. Khi quay lại những bản thảo của anh, tôi lặng người khi thấy trên bảng tên các nhân vật có một nhân vật chính tên là Thước, một nhân vật rất tốt, như trong hầu hết vở kịch của Vũ bao giờ cũng có những người rất tốt để anh gửi gắm tình cảm vào đó. Tôi biết Vũ đã luôn rất quý tôi nhưng hình như chưa bao giờ tôi cảm nhận được hết tình cảm mà anh dành cho tôi...

* Ai là người có ảnh hưởng nhiều nhất đến Lưu Quang Vũ về nghệ thuật?

- Khi còn nhỏ, Lưu Quang Vũ học vẽ từ hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Gia Nùng ở trong vùng kháng chiến Phú Thọ. Mỗi khi bác Tỵ vẽ, Vũ rất thích ngồi bên cạnh xem, rồi cũng lấy que vạch ngang dọc trên mặt đất. Trong hồi ký của bà Vũ Thị Khánh - mẹ Lưu Quang Vũ, có viết: “Và ngày ấy, trong căn nhà lợp lá cọ ở một quả đồi vắng của vùng Phú Thọ, chồng tôi đã tin chắc rằng sau này lớn lên con trai mình sẽ trở thành nghệ sĩ”. Nhưng có lẽ người đã ảnh hưởng đến Vũ nhiều nhất cả về nghệ thuật và nhân cách sống là cha anh, nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Ông đã dõi theo anh trong từng bước chân, từng suy nghĩ.

* Lưu Quang Vũ là một người đàn ông tài hoa và cũng đào hoa… vậy trong phim các anh có nhắc nhớ cho người xem đến khía cạnh này không?

- Tại sao lại không? Tình yêu trong Lưu Quang Vũ hình như chưa bao giờ cạn. Có nhiều người đàn bà yêu Vũ, đến với Vũ cũng đâu có gì ngạc nhiên. Tôi đọc được trong một bài viết tôi nghĩ là rất hay và rất chính xác về những mối tình của Vũ mà Lưu Khánh Thơ, em gái Vũ viết: “Lưu Quang Vũ là một người đàn ông may mắn. Trong cuộc đời long đong, vất vả của anh, hầu như ở giai đoạn nào anh cũng gặp một tình yêu lớn. Cho dù cái mà tình cảm đó đem lại có thể là một vết thương, một nỗi đau suốt đời”.

* Vậy khi nhắc đến thì các anh sẽ chọn cách nào để cả người còn sống và người đã mất đều không bị tổn thương?

- Đoàn làm phim đã tiếp xúc với tất cả những người đã yêu Vũ hay nói cách khác là giữa Vũ và họ đã có những tình cảm với nhau. Chúng tôi tin rằng khi bộ phim được trình chiếu sẽ không làm tổn thương đến ai, cả người sống lẫn người đã khuất. Bởi trong những câu chuyện này, tình cảm giữa họ đẹp, hồn nhiên và trong veo quá... Rồi mọi chuyện không thành nhưng họ vẫn là bạn bè tốt cho đến lúc mãi mãi xa nhau.

Bộ phim Ngọn lửa trong gương được thực hiện nhân 20 năm ngày mất của nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh. Gia đình Lưu Quang Vũ cùng Trung tâm sản xuất phim tài liệu - Đài truyền hình VN sản xuất. Kịch bản: NSND Đào Trọng Khánh, đạo diễn: NSƯT Nguyễn Thước (Hãng phim tài liệu T.Ư) và Bùi Tuấn (Đài THVN), quay phim: Hoàng Tấn Phát.

* Và có ai từ chối trả lời các anh chưa?

- Không, không có ai từ chối trả lời chúng tôi. Thậm chí có nhiều người còn thắc mắc tại sao không phỏng vấn họ. Tôi chỉ biết cảm ơn vì không thể làm gì hơn khi mọi thứ đều phải có hạn.

* Làm phim về các danh nhân văn hoá đã qua đời, theo anh, những thuận lợi và khó khăn nhất với các nhà làm phim tài liệu là gì?

- Tôi thấy khó khăn nhiều nhất là phần tư liệu. Gần như chúng tôi không có tư liệu gì về Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh ngoài những bản thảo thơ và kịch, một số ảnh gia đình còn lưu giữ, một số vở kịch đài truyền hình đã quay. Duy nhất có 6 phút hình ảnh động mà chính tôi quay bằng phim nhựa để lưu giữ tư liệu cho Hãng phim tài liệu Trung ương lại là những hình ảnh đám tang gia đình Vũ! Có lẽ cái quý nhất, phong phú nhất là anh chị có rất nhiều bạn bè và ở họ còn đầy ắp những ký ức về đôi vợ chồng tài hoa này. Có bốn câu thơ trong bài Mây trắng của đời tôi là lời tựa cho tập thơ cùng tên trên in sau khi Vũ mất:

“Trên mái nhà, cao vút rừng cây, Trên rừng cây, những đám mây xô giạt, Trên ngày tháng, trên cả niềm cay đắng, Thơ tôi là mây trắng của đời tôi”.

Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của anh. Chúng tôi đã dành những ngày quay cuối cùng cho những người còn lại của gia đình Vũ. Có một buổi chiều với tổ ấm của con trai Vũ là “cu Kít” - Lưu Minh Vũ. Tôi hiểu, hình như những ký ức còn lại trong họ đã trở thành hành trang bất biến không thể thiếu được đi theo suốt cuộc đời.

* Cảm ơn anh.

Cát Khuê

Nguồn: Thanh Niên chủ nhật, ngày 26/07/2008
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Người đàn bà sau những bài thơ buồn của Lưu Quang Vũ

Không dễ để những nam thi sĩ bộc lộ đàn ông tính của mình qua một hình thức vốn rất mềm mại và nhiều chiều nữ tính, đó là thơ. Lưu Quang Vũ là nhà thơ có quá nhiều nam tính. Những năm 1972, 1973, thơ anh như yếu đuối hơn, như thiếu tự tin hơn và luôn viết cho một người. Không thể nào mà người ta không tò mò, rằng người phụ nữ ấy là ai? Sau 35 năm của những bài thơ và 20 năm mất đi người thi sĩ bạc mệnh, những đau đớn của mối tình si ấy dường như vẫn vẹn nguyên trong chị, nữ hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền.

Có một khoảng thời gian thơ của Lưu Quang Vũ buồn kinh khủng, những vần thơ dành cho một người phụ nữ nào đó mà bỗng nhiên tâm thế đàn ông của Lưu Quang Vũ trở nên đầy mặc cảm và ẩn ức. Dù đó có là những lời thơ như van xin, khao khát một tình yêu với nỗi buồn rầu bao phủ thì thơ của anh vẫn tiềm tàng một bản năng chở che mạnh mẽ mà chắc chắn có quá nhiều phụ nữ muốn được là... Để không chỉ riêng tôi muốn biết, muốn tìm hiểu về chị, hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền (con gái của nhà văn Kim Lân, chị gái của hoạ sĩ Thành Chương)

Hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền một thời được coi là thần đồng hội hoạ trong thập kỷ 60 khi chị biết vẽ từ rất sớm, lại sinh trưởng trong một gia đình quá truyền thống là gia đình của nhà văn Kim Lân. 35 năm trước cho một cuộc tình không năm tháng mà hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền gọi cuộc tình ấy là “tình yêu của tôi, nỗi buồn của tôi”. Đó không giống một tình yêu bình thường, hai người gặp nhau và phải lòng nhau ngay lập tức. Khi đó hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền đang làm thêm việc vẽ minh hoạ cho sách và làm cho Tạp chí Thanh Niên của Trung ương Đoàn. Nhân một buổi gặp cộng tác viên cuối năm, Lưu Quang Vũ đã gặp Nguyễn Thị Hiền. Sau buổi họp, vừa về đến nhà, nhà văn Kim Lân đã nói: “Con ơi con, Vũ vừa đến tìm con đấy”. Đó là tiếng gõ đầu tiên đến trái tim người đàn bà này, có một chút ngạc nhiên, một chút lạ lẫm rằng có một người đàn ông đang kiếm tìm mình. Để rồi căn phòng tối với bài thơ “Đất nước đàn bầu” mà Lưu Quang Vũ đọc cho Hiền nghe trong ánh sáng của một ngọn đèn dầu chỉ còn là cái cớ cuối cho tình yêu trong sáng ấy khởi phát. Lưu Quang Vũ đi theo Hiền về nhà – như sau này bao lần đi theo khác, đứng khuỵ chân ở cửa – như sau này, anh cũng đứng cái dạng khuỵ chân làm tim Nguyễn Thị Hiền buốt nhói, trong chiếc áo lính bạc màu dài đến ngang đầu gối. Ngày ấy, Lưu Quang Vũ làm những câu thơ:

Người con giai đến phòng em chiều thu
Mặc áo mưa lính rách rưới
Hắn buồn và nói luyên thuyên…
…Người con giai nói với em
Hắn không phải tấm hình đẹp trong sách
Hắn chỉ là dãy phố nghèo lấm đất
Không giấu che sự thật của lòng mình
Chỉ là bờ đê nhiều khói và than
Là con thuyền
Luôn luôn kiếm tìm, luôn luôn từ bỏ
Với cuộc đời thường, em còn bao mối giây gắn bó
Em đi được với hắn không?

Cái dáng đứng khuỵ chân ấy ám ảnh đến mãi sau này trong trí nhớ của hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền về người đàn ông chị đã yêu bằng tất cả những tuyện vọng và đau đớn. Nỗi khổ cũng bắt nguồn từ đấy cho đến mãi sau này. Hai người không thể nào vượt qua những rào cản của ranh giới đạo đức thông thường…

Trong suốt buổi trò chuyện, đôi mắt sau cặp kính tròn của hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền lúc nào cũng long lanh nước, chị liên tục đưa tay xoa lên ngực trái, bởi nỗi đau đớn của một tình yêu dù đã 35 năm trôi qua và người trong cuộc cũng đã rời bỏ cõi trần này tròn 20 năm.

Khoảng thời gian ấy, Lưu Quang Vũ vừa đi bộ đội về, có vợ con rồi, không có công ăn việc làm và mới bị kỷ luật. Tất nhiên với vô số những khuyết điểm ấy chỉ có thể làm cho mọi ngươì xung quanh lo hộ nữ hoạ sĩ thần đồng Nguyễn Thị Hiền chứ không phải là tác nhân khiến chị mảy may băn khoăn, mảy may suy tính trước tình yêu của mình dành cho thi sĩ.

* Những lời đồn về một Lưu Quang Vũ tài hoa có tác động gì với chị không? Phải có 1 nguyên nhân nào trước khi “sét” ái tình giáng xuống chị chứ?

- Tôi là người không quan tâm đến những lời đồn thổi cũng như quá khứ của Vũ. Có lẽ tôi đã đến với Vũ bằng sự rung động đối với những bài thơ của Vũ. Còn Vũ, Vũ đến với tôi bởi tranh của tôi. Từ thơ và tranh chúng tôi nhận ra nhau. Muôn ngàn lời đồn thổi cũng chẳng có tác động gì hết. Khi đó đài BBC có đưa tin trong Nam có hoạ sĩ Bé Ký, ngoài Bắc có Nguyễn Thị Hiền. Nhà văn Nguyên Hồng muốn đưa tôi đi học nước ngoài. Và đó là 1 trong những nguyên nhân người ta nhân danh để phản đối chuyện tình của tôi với Vũ.

* Vì anh Vũ khi đó có vợ rồi hay vì điều gì khác nữa? Họ có gì không ưa anh ấy chăng?

- Tôi cũng không hiểu nữa. Có thể bởi vì Vũ đã có vợ và mọi người lo cho tôi, lo cho sự nghiệp của tôi. Theo con mắt của mọi người thì sự nghiệp của tôi đang đi lên. Mọi người không muốn tôi phải trả giá trong mối quan hệ này. Rồi cơ quan, đoàn thể, họp kiểm điểm lên xuống. Đôi khi người ta nhân danh một điều gì đó và tin là họ đúng để người ta chà đạp rất kinh khủng những điều trong sáng, mong manh và tuyệt đẹp. Họ đã nhân danh tôi, nhân danh là vì sự nghiệp của tôi để làm điều đó. Khi ấy tôi còn quá trẻ với đời thường vì tôi suốt ngày đi học và đi vẽ. Nghỉ hè thì bố cho nghỉ 3 ngày rồi sáng vẽ, chiều vẽ, tối vẽ. Nếu không lại đọc sách. Không biết cái gì về đời thường, nên khi phải đối mặt với nó, tôi không hiểu tại sao nó lại phũ phàng đến thế? Chúng tôi yêu nhau thế nào ư, chỉ toàn là những cuộc hẹn. Và vô cùng trong sáng.Tôi mang màu và toan đến 28 Triệu Việt Vương, nhà bạn của chúng tôi là anh Lâm “râu” để vẽ, Vũ thì làm thơ. Có những câu tôi còn nhớ trong bài “Gửi Hiền”:

Đêm phòng không tiếng nổ vỡ khắp trời
Nỗi cô đơn đen ngòm như miệng vực
Tôi muốn đi tới đích cùng em
Tôi phải đi tới đích cùng em
Lòng tôi như buổi sớm vẫn nguyên lành
Em nhận lấy, em đừng e ngại mãi
Tôi tan nát, tôi kinh hoàng sợ hãi
Em cô đơn rồ dại của tôi ơi!

* Những kỷ niệm cay đắng nào khác bên cạnh quãng thời gian như mơ ấy? Để rồi mối tình này cũng chẳng đến một cái happy ending nào?

- Đầy cay đắng, đầy cay đắng. Tôi cảm tưởng lúc đó mọi người rủ nhau quyết tâm mà phá cho bằng được. Tôi và Vũ buồn lắm, cứ đi lang thang với nhau, đi café rồi đi ra biển. Có quá nhiều sự thật tôi cũng không muốn nói nữa. Bởi khi nói ra có lẽ lại thành nói xấu một người nào đó. Dù đó là sự thật thì cũng khó lòng lý giải, rằng tôi không hiểu tại sao có những lúc mọi người lại xấu đến thế? Tôi không muốn nói đến ai. Chỉ biết là khủng khiếp. Và đến giờ tôi cũng không giải thích được. Tình yêu của chúng tôi là tình yêu không năm tháng. Sau đó thì Vũ và Xuân Quỳnh đến với nhau. Nhưng kỳ lạ thay, mối tình ấy trong tôi không có sự ghen tuông như những tình yêu nam nữ bình thường khác, mà nó là thứ để mỗi khi nghĩ đến, trong tim tôi lại đau như cắt. Đau vật chất một cách thực sự. Không có sự hớn hở, sung sướng. Vũ cũng vậy.

* Ngoài sự phản ứng của gia đình thì có phải là một mối tình kinh thiên động địa với dư luận khi ấy?

- Đúng là kinh thiên động địa đấy, một trận cuồng phong. Có nhiều người bảo vệ vì thương tôi và người phản đối cũng dữ dội như trong 1 cơn điên… Đã có quá nhiều người làm tổn thương chúng tôi…

* Hai người có nghĩ đến chuyện lấy nhau không?

- Có chứ, bởi vì tôi sinh trưởng trong một gia đình lễ giáo rất nghiêm khắc. Bản chất của tôi đã yêu thì hết lòng. Nên khi Vũ và tôi không thể đến được với nhau, tôi đã buồn lắm. Nhưng không ngày nào Vũ không đón tôi. Sáng nào tôi đi làm, Vũ cũng đứng ở đầu ngõ Hạ Hồi nhìn tôi, rồi đạp xe đạp đi sau tôi. Tôi chuyển hướng sang đường khác, Vũ vẫn đạp xe theo tôi...

* Thời gian đó, bác Kim Lân nói với chị thế nào về mối quan hệ ấy?

- Bố tôi là một người quá yêu tôi. Đến nỗi mà tôi lớn lắm rồi, đến tuổi yêu từ đời nảo, đời nào rồi, mà cứ ai đến nhà chơi, bố tôi còn nói thẳng: “Xin lỗi mời anh đi về để cho cháu nó còn vẽ…”. Tôi cũng rất yêu bố tôi, ông là người đã chia sẻ với tôi rất nhiều. Tôi học giỏi nhưng khi tốt nghiệp cũng bị đánh liểng xiểng. Bố luôn bên tôi, sâu nặng hơn cả những người bình thường khác. Có thể cả đêm hai bố con nói về Picasso, về bác Sáng, bác Phái, về văn chương… Bố tôi rất sợ tôi đi với Vũ thì không làm được sự nghiệp của mình. Nhưng khi nào cụ phản đối, cụ cáu giận thì tôi lại dễ chịu. Khủng khiếp nhất là cụ bắt đầu ốm. Giữa mùa hè nắng chang chang của HN, cụ đi tất, quấn khăn len đắp chăn bông nằm rên hừ hừ trên giường như sắp chết. Tôi không đủ sức chịu đựng điều đó. Tôi đã từng đi luôn khi bố tôi mắng tôi, đuổi tôi, nhưng khi mọi người báo: “Ông Lân ốm rồi” thì tôi lại về. Đứng giữa hai con người, một là bố hai là Vũ. Cuối cùng tôi chấp nhận xa Vũ… như những câu thơ Vũ viết:

Có gì đâu mà tiếc mà buồn
Em biết đấy anh chẳng tin định mệnh
Nhưng trên đời này chỉ ước mơ là có thật
Hai ta hãy là giấc mộng của nhau thôi

***

Sau này, khi bán được một số tranh đáng kể với số tiền đủ đề hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền mua được 1 căn nhà riêng phía sau ga Hàng Cỏ, tình yêu vẫn đầy ắp trong lòng dành cho Vũ nhưng chị không dám gặp anh bởi “nếu gặp chắc chắn chúng tôi sẽ làm điều gì đó có lỗi với Xuân Quỳnh”. Nhưng mà lúc nào Lưu Quang Vũ cũng đứng từ xa nhìn Hiền mỗi khi có thể thấy chị ở đâu. Có lần anh còn leo lên cửa sổ ở Cục Xuất bản chỉ để nhìn chị, và chị thì đứng khóc. Hai người không thể đến với nhau, không nên đến với nhau đã giữ mãi tình yêu trong sáng ấy. Và Nguyễn Thị Hiền gặp người chồng của mình, anh Lê Dưỡng Hạo, (nhà nghiên cứu Hán Nôm và mỹ thuật, em trai của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh) năm 1978. Sau khoảng 1, 2 tháng quen biết, hai người cưới nhau. (Anh chị có một cô con gái là hoạ sĩ trẻ Hiền Minh)

Sau 10 năm, cũng là khi hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền đã có một cuộc sống hạnh phúc êm ấm bên chồng con, chị có gặp lại người thi sĩ xưa nay đã là một nhà viết kịch nổi tiếng. Chị vẫn nhớ mãi câu nói của Vũ: “Nếu ai mà làm cho Hiền không vẽ được nữa thì đó là tội ác!”. Hai người vẫn xa nhau. Trong đáy sâu thẳm của chị Hiền là tình cảm trong sáng thiêng liêng của chị và Vũ. Nhưng họ không gặp nhau vì cả hai bây giờ đã có gia đình riêng. Lưu Quang Vũ vào Sài Gòn dựng kịch. Họ hẹn nhau 2 tháng sau sẽ cùng làm chung 1 cuốn sách, như nối dài những dang dở đã hẹn ước từ những năm xưa. Không ai ngờ đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng… Chị kể:

- Tôi và Vũ có thần giao cách cảm khủng khiếp. Một đêm tôi nằm ngủ, tôi mơ thấy mình đi đóng mấy cái áo quan một lúc. Tôi lay chồng dậy và nói tôi mệt quá vì mơ một giấc mơ như vậy. Nhưng sáng ra tôi buồn lắm, buồn đến mức không sao chịu được. Tôi đòi chồng đưa đi chơi, đến nhà hai vợ chồng anh Đỗ Hải. Ngồi được 1 lúc thì có người đến báo tin gia đình Lưu Quang Vũ bị tai nạn chết chiều qua. Ôi trời ơi, chiều qua họ bị tai nạn thì tối tôi nằm mơ như vậy...

***

35 năm của mối tình ấy, và 20 năm ngày mất của con người tài hoa bạc mệnh, tôi tìm được trên mạng một đoạn thơ của Lưu Quang Vũ, như một dự báo âm thầm từ nhiều năm về trước, trước khi tai nạn bất ngờ cướp anh đi.

Có gì đâu mà khóc
Hạnh phúc chỉ là điều bịa đặt
Nên tình yêu là chuyện viển vông thôi
Sương mùa đông lặng lẽ đã giăng đầy
Bao kỷ niệm, quên đi đừng nhớ nữa
Lá sẽ rơi trên cỏ mòn lối cũ
Thân cây xưa sẽ gục đổ bên thềm
Lời anh nói vang lên
Như những lời vĩnh biệt
"Cuộc sống chia rẽ chúng ta
Chỉ cái chết là nối gần nhau lại”
Sau này chết đi, ở bên nhau mãi
Chấm dứt mọi đắng cay buồn tủi
Mọi nhọc nhằn ngang trái
E chúng mình không nhận được ra nhau.

Cát Khuê

Nguồn: Phụ nữ TP.HCM chủ nhật, tháng 6/2008
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Bài liên quan

Lưu Trọng Lư

Lưu Trọng Lư (19/6/1912 – 10/8/1991) là một nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam, quê làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Ông học đến năm thứ ba tại trường Quốc học Huế thì ra Hà Nội làm văn, làm báo để kiếm sống. Ông là ...

Lê Tắc 黎崱

Lê Tắc 黎崱 (?-?) vốn họ Nguyễn, sau đổi họ Lê, không rõ năm sinh mất, tự Cảnh Cao 景高, hiệu Đông Sơn 東山, là một sử gia người Việt, đã sang Trung Quốc sống vào thời nhà Nguyên, và soạn bộ "An Nam chí lược" ở đó. Ông là người huyện Đông Sơn, Ái Châu (nay thuộc Thanh Hoá). Sách vở cũ của người Việt biên ...

Đới Thu Hương

Đới Thu Hương là phu nhân trung tướng, anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc. Chưa rõ năm sinh, quê ở Quảng Chính, Quảng Xương (Thanh Hóa). Nhập ngũ tháng 2/1945, tham gia phục vụ chiến trường A2, các đường Trường Sơn, biên giới Việt Lào, Đường mòn Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp khoa Thư viện trường Đại học Văn ...

Phạm Trung Kiên

Phạm Trung Kiên là một cây bút của hội bút Hương đầu mùa, báo Hoa học trò , ngày trước.

Đoàn Vị Thượng

Đoàn Vị Thượng công tác tại báo Giáo dục và Thời đại . Ông là một nhà thơ có nhiều tác phẩm và đóng góp cho lứa tuổi học trò. Các tác phẩm đã xuất bản: - Ngôi trường, hoa phượng và tôi (thơ, 1987) - Thơ Đoàn Vị Thượng (1988) - Chuyện tình chim hót (truyện dài, 1989) - Môi thơm (truyện dài, 1990) - ...

Lê Quát 黎括, Lê Bá Quát

Lê Quát 黎括 tự là Bá Quát, hiệu Mai Phong, thuộc dòng dõi Lê Văn Thịnh, Chưa rõ sinh và mất năm nào. Ông người huyện Đông Sơn, là một trong số những học trò xuất sắc của Chu An, từng thi đỗ Thái học sinh và giữ một số chức vị quan trọng dưới triều Trần Minh Tông. Sang triều Trần Dụ Tông, vào đầu năm ...

Lê Duy Phương

Lê Duy Phương là nhà thơ thời chống Mỹ. Tuy anh là chuyên viên cao cấp nghành Kế hoạch Đầu tư nhưng tâm hồn lại rất thi sĩ. Khai bút 2004 anh đã viết: Sáu mươi năm tuổi có gì đâu Hình như tất cả mới bắt đầu Kế hoạch làm thơ và viết báo Ba nghề ba nghiệp mấy nông sâu Anh đã in trên 10 tập thơ người ...

Nguyễn Hồng Kiên

Nguyễn Hồng Kiên là tiến sĩ sử học, nhà khảo cổ, nhà thơ, và còn là một blogger có tiếng trong và ngoài nước với bút danh Gốc Sậy.

Đoàn Văn Khâm 段文欽

Ðoàn Văn Khâm 段文欽 người đời Lý. Thân thế và sự nghiệp chưa rõ, chỉ biết đã từng làm đến chức Công Bộ Thượng Thư dưới triều vua Lý Nhân Tông (1072-1128). Tác phẩm chỉ còn lưu lại 3 bài thơ. Qua mấy bài thơ còn lại, ta có thể thấy ông là người hâm mộ đạo Phật và cũng là nhà thơ xuất sắc đời bấy giờ.

Nguyễn Tấn Cảnh

Nguyễn Tấn Cảnh, chưa rõ năm sinh năm mất, hiệu là Quả Viên, người xã Du Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Đỗ cử nhân năm 1886, làm tri phủ huyện Văn Giang (Hưng Yên). Ông là con trai Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản.

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...