18/06/2018, 16:23

Luận về Tào Tháo

Trích sách Nói Chuyện Tam Quốc Tác giả: Vũ Tài Lục “Car la force est juste quand elle est nécessaire”- Machiavel “Dĩ dật đạo sử dân, tuy lao bất oán Dĩ sinh đạo sát dân, tuy tử bất oán sát giả” – Mạnh Tử Qua sách sử Trung ...

Tao Thao.jpg

Trích sách Nói Chuyện Tam Quốc

Tác giả: Vũ Tài Lục

“Car la force est juste quand elle est nécessaire”- Machiavel

“Dĩ dật đạo sử dân, tuy lao bất oán

Dĩ sinh đạo sát dân, tuy tử bất oán sát giả” – Mạnh Tử

Qua sách sử Trung Hoa, đời Bắc Tống đã có người ghi lại một đoạn bút ký nói rằng: “Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại thì khoái chí reo mừng”.

Đọan bút ký ấy cũng cho ta biết ngay cả trước khi tập Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, dân chúng đã có một nhận xét riêng của họ: Yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo.

Tâm lý yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo gây ra bởi hai nguyên nhân:

a) Quan niệm chính trị của người Đông Phương căn bản là sùng bái nhân nghĩa đạo đức, triệt để bài bác quyền thuật cơ mưu.

b) Chịu ảnh hưởng của bọn học phiệt có tư tưởng chính thống và đạo thống.

Như vậy thì bộ Tam quốc chí diễn nghĩa tuy phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng sự thực bộ tiểu thuyết này đã có một quá trình sáng tác của nhiều người. Ở Tam quốc chí diễn nghĩa ta còn thấy nhà văn La Quán Trung sử dụng đến mức tuyệt diệu nghệ thuật văn học để làm nổi bật hai bộ mặt thiện, ác tương phản của Tào và Lưu, cùng khơi sâu tâm lý yêu Bị ghét Tháo vẫn sẵn có từ trước.

Điểm này La Quán Trung có đáng trách hay không? Trả lời, bộ biên tập của nhà xuất bản Trung Quốc viết:

– “Tam quốc chí diễn nghĩa, khác hẳn với những sách viết về khoa học xã hội. Nhiệm vụ của nó không phải là trình bày bình luận hoặc phân tích một cách khách quan trên một số vấn đề lý trí, mà là dùng nghệ thuật sáng tạo để làm cảm động người đọc, trực tiếp đánh vào tình cảm người đọc”.

Đối với La Quán Trung thì tiểu thuyết viết Tào Tháo không phải là tạo ra nhân vật lịch sử Tào Tháo nguyên hình như cũ, mà là mượn nhân vật lịch sử để sáng tạo ra hình tượng nhân vật và tính cách điển hình rất phong phú phức tạp. Nói một cách khác, trong truyện viết Tào Tháo không phải chỉ là viết Tào Tháo thực trong lịch sử mà là viết ra rất nhiều Tào Tháo trong lịch sử. Chủ yếu của tiểu thuyết là sáng tạo ra một nhân vật điển hình để vạch rõ thói hung tàn nham hiểm của bọn thống trị phong kiến, để cho nhân dân quần chúng nhận thức được một cách cụ thể. Tức là đem tất cả những hình tượng tàn ác, bản chất xấu xa bỉ ổi của thống trị phong kiến tập trung lại, khái quát lên, sáng tạo ra cái nhân vật phản diện Tào Tháo. Phản ảnh như vậy so với cách trực tiếp bộc lộ càng sâu sắc hơn, so sánh với trực tiếp tố cáo, tư tưởng tính càng mạnh mẽ hơn, đó là một sự thống nhất hoàn chỉnh giữa tư tưởng và nghệ thuật tính rất cao vậy.

Về phần chúng ta bình luận về Tào Tháo, thì chúng ta bàn luận trên cơ sở nào?

Chúng ta sẽ trình bày, phân tích Tào Tháo trên một số vấn đề lý trí.

Do đó, việc cần thiết hàng đầu là một thái độ tuyệt đối khách quan, nghĩa là hãy tước bỏ đúng mức tâm lý yêu ghét bị tuyên nhiễm bởi Tam quốc chí diễn nghĩa.

Chính thống và đạo thống

Chính thống và đạo thống là bản chất chính trị và tư tưởng học thuật đạo đức của thời đại phong kiến.

– Chính thống là uy quyền do một tập đoàn chính trị muốn kéo thành xâu, thành chuỗi quyền thống trị của mình tạo ra. Quyền ấy kế tiếp theo nguyên tắc cha truyền con nối.

– Đạo thống là một thứ tư tưởng độc tôn, học thuật độc tôn. Khi một hệ thống tư tưởng nào đã bám được thế lực chính trị, nắm quyền thống trị, hoặc từ hệ thống tư tưởng thông qua đấu tranh mà nắm được chính quyền thì tư tưởng độc tôn, học thuật độc tôn sẽ chỉ chuyên dạy, chuyên khuyến dụ mọi người ủng hộ chính quyền chính thống.

Thời đại phong kiến, kẻ thống trị muốn củng cố địa vị của mình, chủ yếu thường dùng đến chính sách ngu dân vô cùng thâm độc. Chính sách ngu dân tuy biểu hiện ra bằng nhiều phương thức khác nhau, nhưng tóm lại chỉ là sự sử dụng, khai thác triệt để khả năng của đạo thống, khiến cho quần chúng rộng lớn không có dịp tiếp thu bất cứ một hiểu biết nào khác ngoài những điều mà bọn thống trị cho phép.

Tâm lý sùng thượng đạo đức, bài bác quyền thuật cơ mưu trong chính trị là tốt, vì nó mang tính chất tươi đẹp của tinh thần nhân văn. Nhưng nếu tinh thần nhân văn ấy bị lý luận đạo thống lợi dụng thì hóa dở.

Cho nên, muốn tước bỏ được mức tâm lý yêu ghét Lưu Tào, chúng ta không thể không chống cái nền móng của tâm lý ấy là những tư tưởng chính thống, đạo thống của bọn học phiệt tay sai chính quyền phong kiến.

Tào Tháo là con người thế nào?

Các nhà văn học Trung Quốc thường phân tích về thân phận Tôn Quyền là con nhà quý tộc, Lưu Bị là người kẻ chợ và Tào Tháo là dòng dõi môn phiệt. Sở dĩ Tào Tháo ở trong hàng ngũ môn phiệt bởi vì cha Tào Tháo là Tào Tung làm quan đến chức Thái Úy và Tháo nhờ thế lực của cha nên hai mươi tuổi đã được cử làm Hiếu Liêm.

Hiếu Liêm là một chức quan nắm quyền cai trị ở cấp bực trung bình của chính quyền địa phương. Chức Hiếu Liêm là sản phẩm của nền hành chính Hán Triều. Đời Hán Vũ Đế đặt ra lệ bắt các trưởng quan địa phương mỗi năm phải chọn và đề cử một người thanh liêm, hay một người con hiếu ra chấp chính.

Đặt ra chức này, Hán Vũ Đế muốn lấy Đức Hạnh dùng làm nền tảng cai trị. Ban đầu do sự thi hành đúng nên Hiếu Liêm cũng gây thành phong khí tốt, dư luận hay. Nhưng lần lần, Hiếu Liêm trở thành một thứ hàng độc quyền của các đại gia, mặt khác nó làm cản bước tiến của trí thức, trở thành đầu mối của tranh chấp Bình dân và Môn phiệt. Hiếu Liêm đã biến chất không còn như ý nguyện của Hán Vũ Đế muốn dùng nó làm chiếc cầu cảm thông giữa quần chúng với chính quyền nữa.

Tào Tháo nhận chức Hiếu Liêm, tất nhiên cũng sẽ bị trí thức bình dân và quần chúng nhìn bằng con mắt hằn học và cũng bị liệt vào hàng phe phái Môn phiệt.

Biết vậy, nên lúc tại chức Tào Tháo đã ra sức chống lại bọn cường hào, đả kích chính sách hoạn quan. Do đó lúc sang nhận chức ở Tế Nam, bị bọn cường hào cùng bè lũ tay sai hoạn quan oán hận, Tháo sợ gây nên tai họa lớn, bèn từ chức.

Lúc từ chức, Tào Tháo 30 tuổi, ông nói:

– “Cùng chức Hiếu Liêm với tôi có người 50 tuổi mà trông vẫn còn trẻ măng, tôi còn những 20 năm nữa mới bằng họ, vậy tội gì mà không tìm cách ẩn cư đợi thời”.

Tào Tháo lui về quê hương là Tiêu huyện, dựng một căn nhà thoáng đãng để đọc sách, giồng hoa, săn bắn. Thời gian này Tào Tháo đem hết tâm trí vào việc rèn luyện khả năng chính trị, quân sự.

Xem thế đủ biết, tuy xuất thân môn phiệt nhưng nhờ nhãn tuyến chính trị sắc bén, Tháo đã gột bỏ tâm chất môn phiệt để nhất định đứng vào hàng ngũ trí thức và quần chúng tiến bộ.

Về quan hệ Nam Nữ, Tam quốc chí diễn nghĩa cho rằng Tháo là một người dâm dục, bậy loạn bất cố đạo nghĩa. Tính chất đó được chứng minh bằng sự kiện Tháo ngủ với người thím Trương Tú khiến Tú nổi giận làm phản, nhờ Điển Vi hy sinh cứu Tháo và chết thay cho Tháo. Chuyện này chỉ là một câu chuyện gán ghép gượng gạo không lấy chi làm thật nhằm mục đích làm tăng giá trị điển hình cho một nhân vật tàn ác, gian hùng mà thôi.

Trong dân gian thì lưu truyền một sự tích tình ái của Tào Tháo trái hẳn với việc Trương Tú. Đó là chuyện nàng Lai Oanh Nhi. Đầu đuôi như sau:

– “Đời Hậu Hán, những ca sĩ đất Lạc Dương nổi tiếng là đẹp là hay. Trong số ấy, có nàng Lai Oanh Nhi vượt hẳn lên cả về tài lẫn sắc.

Tài sắc đã trội hơn người, tính nết nàng còn đặc biệt hơn nữa. Oanh Nhi rất kiêu ngạo. Biết bao Vương Tôn Công Tử hoài công theo đuổi mà Lai Oanh Nhi chưa từng để mắt đến người nào.

Tào Tháo rất tinh thông âm luật, lại là một nhà thơ tài tình, gặp giọng hát cùng nhan sắc Oanh Nhi rất lấy làm xứng ý. Bấy giờ Lạc Dương đại loạn nên Lai Oanh Nhi chịu nương nhờ bàn tay che chở của Tào Tháo, theo Tháo đi đánh Đông dẹp Bắc độ nhật nơi doanh trại. Oanh Nhi thường ca hát những bài thi, bài từ của Tào Tháo và các danh sĩ để Tào Tháo uống rượu hân thưởng. Đối với sinh hoạt lưu động, nàng vốn không ưa nên Oanh Nhi lúc nào cũng buồn. Tháo tuy chịu tài năng ưa nhan sắc nàng nhưng phần vì việc quân cơ bận bịu, phần vì quý sự nghiệp chính trị hơn nên Tháo ít khi gần gũi. Lai Oanh Nhi lại càng cảm thấy cô quạnh. Chẳng bao lâu, Oanh Nhi đem lòng yêu một chàng thị vệ, đêm đêm vẫn cùng nhau hò hẹn. Quan niệm tình ái của Tào Tháo rất rộng rãi, vả lại ca kỹ trong doanh trại nhiều nên mối tình giữa Lai Oanh Nhi với chàng thị vệ kia cũng gặp rất ít trở ngại. Nhưng một chuyện bất ngờ xảy đến, chàng thị vệ được lệnh sai đi thám thính đồn lương bên địch, chàng liền đến báo cho người yêu biết. Oanh Nhi thấy sứ mệnh có vẻ nguy hiểm nên nhất định không chịu rời tay.

Tào Tháo trị quân rất nghiêm, dĩ nhiên theo quân pháp thì bỏ trốn nhiệm vụ trong lúc tình thế nghiêm trọng, chàng thị vệ si tình bị phán quyết tử hình. Lai Oanh Nhi hay tin gào khóc và bất chấp cả mọi nguy hiểm chạy đến bên Tháo xin tha tội cho người yêu. Gặp Tào Tháo nàng cứ thực sự tâu bày mọi chuyện, khiến cho Tào Tháo hết sức ngạc nhiên. Trầm ngâm hồi lâu, Tháo nghĩ ra một biện pháp, đề nghị tha tội cho chàng thị vệ với điều kiện là Oanh Nhi phải chịu chết thay.

Không chút do dự, Oanh Nhi xin chịu, nàng còn yêu cầu một điều là hoãn ngày chết cho nàng hai tháng để nàng có đủ thì giờ huấn luyện các ca kỹ khác tất cả tài nghệ của mình để trả ơn Tháo.

Lời thỉnh cầu của Oanh Nhi cũng được chấp thuận. Nàng liền chọn bốn người xuất sắc nhất, ngày đêm tập dượt và sau cùng trong số bốn người, Oanh Nhi đã tạo hẳn ra một người khả dĩ thay thế cho mình hầu hạ Tào Tháo.

Làm xong nhiệm vụ, Oanh Nhi thản nhiên đến thụ tội.

Tào Tháo cảm thấy bâng khuâng vì không ngờ việc tình ái lại thâm sâu đến thế. Tháo bèn cho gọi chàng thị vệ, nói lại mối tình nồng nhiệt của Oanh Nhi đối với y. Tháo càng ngạc nhiên, khi thấy chính miệng tên thị vệ nói ra là y coi mối tình ấy chẳng khác nào chuyện qua đường. Nghe xong, Tào Tháo căm giận muốn chém phăng tên thị vệ cho rồi, nhưng nghĩ lại lời đã trót hứa với Oanh Nhi nên thôi. Đồng thời Tào Tháo cùng tỏ ý không muốn bắt Oanh Nhi phải chết thay nữa. Sợ Oanh Nhi biết mình bị xử tệ bạc còn đau khổ gấp bội, Tháo bèn sai đuổi tên thị vệ về quê quán. Oanh Nhi biết, nàng quyết sống thác với tình, khẩn khoản xin Tháo cho đi theo tình nhân. Cực chẳng đã Tháo đành phải chịu. Lúc tiễn đưa Oanh Nhi, Tào Tháo sụt sùi khóc.

Ít ngày sau, Tháo nhận được tin Lai Oanh Nhi tự thắt cổ chết. Sự tích Lai Oanh Nhi trong cuộc đời Tào Tháo cho chúng ta biết:

– a) Mặt sinh lý Tào Tháo rất tùy tiện và đã sửa soạn chu đáo để không đến nỗi phải bậy bạ với người đàn bà nạ dòng trong họ nhà Trương Tú.

– b) Mặt tình ái, tình cảm của Tào Tháo đòi hỏi đến một mức phong nhã khá cao.

Vậy mụ gái xề nhà Trương Tú không thể nào quyến rũ nổi Tháo phải hy sinh uy tín của Tháo đã tạo ra bằng bao nhiêu công phu, như thế đắt quá.

Gian thần thoán đoạt?

Hậu thế gán cho Tào Tháo hai chữ “gian tặc”. Lý do là Tào Tháo đã thoán đoạt ngôi nhà Hán. Dùng danh từ gian tặc để chỉ Tào Tháo hoàn toàn là lý luận của bọn chính thống đương thời và đời sau. Chống lại sự vu oan đó, chúng ta chưa cần viện dẫn nhiều mặt khác mà có thể đứng ngay trên lập trường chính thống cũng đủ biện bạch cho Tào Tháo.

Trước hết, suốt đời Tào Tháo nắm quyền thao túng quốc sự không hề có chuyện phế lập. Thế lực họ Tào không ai chối cãi là đã lấn át cả vua nhưng không phải là thoán đoạt, bởi vì:

a) Sau Hán Vũ Đế, Hoắc Quang làm đại thần phụ chính thì nội bộ chính quyền nhà Hán đã phân hóa giữa chính phủ và Hoàng thất, đưa dẫn tới xung đột rồi.

b) Đời Tháo thì Hoàng thất nhà Hán đã mất khả năng và uy tín thống trị. Đương nhiên, Tháo phải tận lực xử dụng quyền lực để ổn định quốc gia.

Với Tào Tháo, vấn đề thoán đoạt vô nghĩa và ông không coi việc ấy là tham vọng hay mục đích của đời ông.

Dẹp xong ba mươi vạn quân Khăn vàng, đánh tan Viên Thiệu, bình Viên Thuật, đả bại Lưu Biểu, Tháo nói:

– “Giả thử quốc gia mà không có tôi, thì còn biết bao kẻ xưng vương xưng đế.”

Suy ngẫm về lực lượng của mình, Tháo thường nói:

– “Mọi người thấy binh lực tôi mạnh, lại cho rằng tôi là người không tin thiên mệnh nên ngờ tôi có ý lật nhà Hán. Nhưng tôi nghĩ trái hẳn, tôi há không biết rằng Tấn văn Công xưa mạnh nhường ấy mà vẫn một lòng một dạ với nhà Chu, Chu Vương chiếm hai phần ba thiên hạ mà vẫn phụng sự nhà Ân hay sao?”

Sách sử ghi chép rằng:

– Bình nhật, Tào Tháo thường hay kể chuyện tình cố quốc của Nhạc Nghị với nước Yên, với vẻ mặt hết sức cung kính say sưa.

Tam quốc chí dựa vào quan điểm chính thống, diễn tả hành động thoán đoạt của Tào Tháo trên mấy sự việc quan trọng như:

1) Vụ săn bắn ở Hứa Điền.

2) Ngôn ngữ trong bài hịch kể tội của Trần Lâm.

3) Vụ bức tử Đổng Phi.

Dưới đây chúng ta hãy bàn cãi từng sự việc một.

Như chúng ta đã được biết, kể từ sau đời Hán Vũ Đế, chính quyền đã có sự phân tách giữa chính phủ và hoàng thất nhà Hán đã kém vế rồi, triều thần thuộc tập đoàn thống trị phe chính phủ vẫn thường lấn áp quyền Hoàng đế, ngược lại Hoàng thất luôn luôn tìm cách khôi phục quyền mình. Thậm chí để gây cánh, tin dùng cả bọn hoạn quan để mong tạo thế lực. Đến loạn kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ, mới đầu hoàng thất bị xâm phạm, sau cả chính phủ cũng bị khinh miệt. Do đó, đứng trước tai ách chung, triều thần và hoàng thất tạm gác bỏ xung đột, liên kết với nhau, vì sức không đủ nên phải cầu viện bên ngoài. Triều thần và vua chúa thỏa thuận mời Tháo. Tháo được Triều thần chọn bởi hai lẽ:

1) Lực lượng Tào gần Kinh đô nhất.

2) Tào Tháo cũng dòng dõi môn phiệt, chung quyền lợi với bách quan trong triều. Cả hoàng thất lẫn triều thần mơ hồ tưởng rằng lực lượng của Tháo là một lực lượng của chức viên thuộc hạ. Họ lầm vô cùng, lầm vì trí lực của họ không đạt tới mức Tháo. Tháo mạnh là vì ông biết gắn liền với lực lượng chính trị đang lên, chứ Tháo đâu có mạnh là vì dòng dõi môn phiệt, cho nên, việc về dẹp giặc của Tào Tháo đối tượng không chỉ riêng kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ; đối tượng còn khả năng đứng mũi chịu sào trong cơn đại biến động nữa. Lúc Lý Thôi Quách Dĩ thua chạy rồi triều thần mới ngã ngửa ra. Các quan muốn bảo vệ quyền lợi của mình liền thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế, để làm lập trường đấu tranh với Tào Tháo. Thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế rồi, triều thần liền phát động tâm lý căm phẫn, thương xót vua bị Tào Tháo ức chế như Tháo đã cả gan tế ngựa ra đứng trước mặt vua để nhận lời chúc mừng của Bách quan, khiến Quan Vân Trường giận, mày tầm dựng ngược mắt phượng giương to, cầm đao thúc ngựa định ra chém Tào Tháo.

Cuộc xung đột giữa triều thần với tập đoàn Tào Tháo lan rộng từ trung ương ra các địa phương. Trịnh Thượng Thư gửi thư cho Viên Thiệu khuyên Thiệu cất quân đánh Tào. Thiệu nghe và sai Trần Lâm thảo hịch đánh Tào. Lời hịch mang những lời chủ yếu như sau:

– Thường nghe rằng Minh chúa nhân nguy để chế biến, Trung thần lo nạn để lập công.

– Trước kia nhà Tần vua yếu, Triệu Cao lộng quyền hống hách trong triều, một tay tác oai, tác phúc.

– Tháo, nòi giống sót của Hoạn quan, gian xảo độc ác, thích gây ra sự biến loạn, vui mừng thấy sự tai vạ.

– Tháo vốn thân dê mà đội lốt hổ, nhưng lại thừa cơ mà bạo ác càn rỡ, tàn dân hại người lương thiện. Vì thế quan thái thú Cửu Giang là Biên Nhượng tài cán giỏi giang, thiên hạ biết tiếng, nói thẳng lòng ngay, không a xiểm ai, cũng bị nó hãm hại, đầu phải bêu, vợ con phải tàn sát. Từ đó sĩ phu ai cũng tức tối.

– Tháo dám rông rỡ làm càn, hiếp vua thiên đô, khinh nhờn nhà vua, nát phép loạn kỷ, ngồi giữ cả việc ba đài, chuyên chế triều chính, muốn thưởng ai thì thưởng, muốn giết ai thì giết, yêu ai thì người ấy sung sướng đến cả năm ngành, ghét ai thì người ấy phải chết cả ba họ. Ai bàn tán phải trái thì trị tội công khai, ai thầm vụng chê bai thì bị giết ngấm ngầm. vì thế trăm quan buộc miệng, đường xá đưa mắt nhìn nhau.

– Cho nên quan thái úy là Dương Bưu, từng giữ hai chức là Tư Không và Tư Đồ, nhất phẩm trong nước, Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn.

– Quan Nghi Lang là Triệu Ngạn, lời ngay nói thẳng có thể nghe theo, vì thế Vua nghe nói động lòng, thay đổi nét mặt, tỏ ý khen thưởng. Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét, vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn lấp đường nói năng của mọi người, tự tiện bắt Triệu Ngạn giết đi, mà không nói cho Vua biết.

Rõ ràng tinh thần bài hịch hoàn toàn đại biểu cho quyền lợi nhóm triều thần, còn quyền lợi vua, quyền lợi dân thì chỉ là phụ, phần trang trí cho bản hiệu triệu thêm chính nghĩa thôi.

Bên ngoài Viên Thiệu hiệu triệu đánh Tào, bên trong các triều thần tụ họp âm mưu lật Tào Tháo. Vì tổ chức Tháo chặt chẽ quá, nên hoạt động của đám triều thần chỉ thu hẹp vào việc giết Tháo. Sứ mệnh giết Tháo được giao phó cho danh y Cát Bình giả đến chữa bệnh, rồi tìm cách đầu độc, chuyện tính không xong, Cát Bình bị giết, bọn Vương tử Phục bị bắt cùng với cả nhà Đổng Thừa. Tháo sai đem ra chợ chém tất.

Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi đem gươm vào cung để giết Đổng quý Phi. Quý Phi là em gái của Đổng Thừa đã có mang 5 tháng. Hiến Đế xin cho Đổng Phi, nói: Đổng Phi đã có mang 5 tháng xin thừa tướng thương cho. Tháo không nghe. Đổng Phi khóc nói: Xin cho toàn vẹn thân thể mà chết, đừng để bộc lộ. Tháo sai đem tấm lụa trắng đến trước mặt Đổng Phi. Đổng Phi cứ van khóc mãi, Tháo liền quát võ sĩ lôi Đổng Phi ra thắt cổ ở cửa Cung.

Tam Quốc chí diễn nghĩa viết:

Đời sau có thơ than Đổng Phi rằng:

Ân ái đền xuân cũng uổng thôi

Trứng rồng tan vỡ đáng thương ôi

Đường đường Đế chủ sao không cứu

Tầm tã nhìn suông nước mắt trôi

Bọn chính thống dùng mọi cách bi thiết hóa để gợi tình cảm chống Tào trên vụ án chính trị Đổng Phi. Thảm cảnh ngụy tạo ấy chỉ tốt cho văn nghệ chứ không thể dùng làm căn cứ để phán xét công việc của một người có trách nhiệm với lịch sử. Bọn chính thống vì tôn phụng quyền lợi một tộc họ nên lấy cá nhân mà đại biểu cho đại cục. Đổng Phi dù có bị giết tàn nhẫn hơn thế nữa, lịch sử cũng không vì vậy mà bớt những vụ tương tự.

Chính trị không phải là một công việc êm ái, nhẹ nhàng như ta nhàn nhã hái bông hoa, vì chính trị vốn là mối mâu thuẫn xung đột ác liệt của xã hội. Làm chính trị là đối phó với những gì cường bạo, tham lam xảo quyệt. Nhà chính trị cỡ lớn phải biết ràng buộc vào sự an, nguy của thời thế, của đại cục. Giết Đổng Phi, Tào Tháo nói: “Nếu ta thất bại thì Quốc gia sẽ bước vào cục diện cực nguy hiểm”.

Một nhà chính trị nếu có đủ thế lực, đủ uy tín để nói câu đó mà không thấy tự ngượng, mà không bị người khác chối bỏ thì thiết tưởng thân phận cá nhân kiểu Đổng Phi chẳng là nghĩa lý gì hết. Không bắt giết bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa và Đổng Phi để bọn này liên lạc được với Viên Thiệu làm loạn thì xã hội sẽ ra sao? Bản thân Tháo sẽ ra sao?

Khi người ta, chẳng hiểu may hay là không may, phải sống vào lúc nhiễu nhương, xã hội hỗn loạn mà trách nhiệm xây dựng, bình định lại rơi vào chính tay mình thì đương nhiên không thể tránh khỏi tình trạng hành động tự do của kẻ này sẽ đe dọa đời sống của kẻ khác và tàn bạo phải nẩy sinh ra.

Thời đại và xã hội mà Tào Tháo sinh trưởng

Trải qua một thời gian khá dài, toàn bộ văn hóa Trung Quốc lấy dân tộc làm trung tâm, dựa thế lực của kinh tế và quân sự, đã phá tan những chướng ngại phong kiến, để đi sang thời đại thống nhất Trung Quốc. Ban đầu là nhà Tần, sau đến Lưu Bang giữ vai chính trên vũ đài hòa theo với các cuộc vận động của phần tử trí thức.

Thời kỳ trước Tam quốc và chính Tam quốc, công cuộc thống nhất chưa hoàn thành cho nên nhiệm vụ thống nhất càng nặng thì toàn bộ xã hội Trung Quốc đã rơi vào tình trạng cực rối loạn. Tuy nhiên, bánh xe lịch sử cũng không vì thế mà ngừng hướng về thống nhất. Chỉ có khác một điểm là: Lẽ ra chính quyền Trung ương lãnh đạo công cuộc thống nhất, nhưng vì Trung ương quá yếu nên việc thống nhất chuyển sang tay các thế lực lớn ở địa phương thôn tính những thế lực nhỏ để thống nhất từng mảnh trước, chờ đợi cuộc tranh chấp cuối cùng tiến tới thống nhất toàn bộ.

Xã hội rối loạn của Tam Quốc có thể khái quát bằng mấy điểm sau đây:

a) Thối nát, băng hoại đến nỗi mất hết khả năng giải quyết mọi vấn đề khẩn cấp của Quốc gia và bảo đảm những điều kiện sinh hoạt thường nhật của dân chúng.

b) Tâm lý oán ghét chế độ mỗi ngày mỗi tăng cao, quần chúng rộng lớn hầu như tuyệt vọng, họ sẵn sàng hy sinh để thay đổi số phận.

c) Mâu thuẫn, xung đột kịch liệt ngay trong nội bộ hàng ngũ thống trị, phe thống trị mất tin tưởng cả chính mình.

d) Xã hội khao khát một thế lực mới để dẹp loạn.

Tào Tháo sinh ra, lớn lên trong thời đại và xã hội kể trên. Tháo lại gánh trách nhiệm Quốc gia, để làm tròn trách nhiệm, tất nhiên Tào Tháo phải là hiện thân của một chính trị gia đại tài.

Từ ngàn xưa, nhân danh tư tưởng nhân văn, nhân danh văn minh loài người, nhân danh hạnh phúc hết thẩy đều đòi hỏi chính trị tuyệt đối phải là một hành động đạo đức. Danh từ đạo đức ở đây khuyên tròn trong hàm nghĩa tuyệt đối, không bạo động, không giết người, không đổ máu, không tù đày, không tranh chấp, không đàn áp. Thường thường nó biến ra tín điều mà những kể thống trị muốn nó tồn tại mãi có lợi cho họ. Đôi lúc, nó là cơ sở cho một lý thuyết không tưởng. Nhưng cũng không ai chối cãi được rằng: “Ở toàn bộ lịch sử, tranh chấp chính trị bao giờ cũng chỉ là những cuộc chiến tranh”. Phương pháp làm cho chính trị thành công với phương pháp dẫn chiến tranh đến thắng thắng lợi không khác gì nhau cả, nghĩa là phải có thế lực, có bản lĩnh để vận dụng vũ lực tiêu diệt kẻ thù, kẻ chống lại mình. Máu đổ nhiều hay ít, thanh toán nhau, tiêu diệt nhau tàn khốc hay không tàn khốc còn tùy ở những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử. Miễn là máu đổ người chết để thực hiện một con đường sống cho đa số, cho dân tộc, cho tiến bộ, cho thái bình. Đạo đức biến đổi theo sự đòi hỏi của chính trị. Tại sao nói thế? Trả lời, chúng ta hãy đặt thêm một câu hỏi nữa. Đạo đức là gì? Người đời xưa giảng rằng: “Đạo đức thị ứng thời chi vật dã” (Đạo đức là một vật để ứng phó với thời thế), ví như mùa nóng mặc áo vải, mùa rét mặc áo lông cừu. Nếu nóng bức mà mặc áo lông cừu, rét mướt mà mặc áo vải là trái ngược với thời. Đạo đức là nguồn gốc nguyên tắc của hành động vậy.

Đời loạn có đạo đức của đời loạn, nghĩa là nhất nhất mọi hành động phải có nguyên tắc mang hiệu lực ứng phó với tình thế loạn. Cho nên Đạo đức của con người chính trị không là gì khác ngoài những hành động chính xác.

Biết vận dụng nhân nghĩa để kiến tạo lực lượng.

Thâu thập được quyền uy rộng lớn để huy động quần chúng, tiêu diệt những ác thế lực.

Đủ mưu thuật để lãnh đạo đấu tranh đến thắng lợi.

Tóm lại Đạo đức tức là phẩm chất chính trị vậy.

Sự nghiệp Tào Tháo là sự nghiệp chính trị, vậy khi phê phán Tháo chúng ta không thể không đứng ra khỏi con người chính trị được.

Trước hết Tào Tháo có nhân nghĩa để vận dụng không?

Tào Tháo hàng ngàn năm nay vẫn bị hình dung như một kẻ bất nhân bất nghĩa. Lý do của nó chúng ta đã nói ở trên, thiết tưởng chẳng cần nhắc lại dài dòng.

Lưu Bị thường nói: “Nay khác ta như nước với lửa là Tào Tháo. Tháo cấp ta khoan, Tháo bạo ta nhân, Tháo dối ta thật”. Như vậy để nêu rõ tính cách hung dữ, tàn nhẫn trá ngụy của Tào Tháo. Ở Tam Quốc chí diễn nghĩa dưới ngòi bút của nhà văn La Quán Trung, nghệ thuật vẽ nên con người tàn ác còn được biểu hiện huy hoàng hơn. Trong tiểu thuyết dù là việc lớn, hoặc những chi tiết nhỏ, chỗ nào Tào Tháo cũng tỏ cái tính cách “Thà ta phụ người chớ để người phụ ta”. Lưu Bị thì chỗ nào cũng tỏ cái tác phong “Thà chết không làm điều phụ nghĩa”, tạo thành sự đối chiếu thật rõ rệt mạnh mẽ, đến nỗi cái tên Tào Tháo được dùng để xưng danh những kẻ gian hùng xấu xa. Tình cảnh Tào Tháo giống in tình cảnh Machiavel, nhà văn chính trị Ý đại Lợi của thế kỉ thứ 16, bị người đương thời phỉ báng là: “tục tĩu khốn nạn”. Tên Machiavel biến thành hình dung từ Machiavelique để chỉ những gì hung ác, tồi tệ, giảo quyệt.

Ta đừng lẫn tiểu thuyết với lịch sử, ta cũng không nên lẫn lịch sử gian tạo với lịch sử chân thực. Đó là điều căn bản trước khi bắt tay vào việc đi tìm tòi cái nhân nghĩa của Tào Tháo. Mạnh Tử nói: “Nghĩa là làm việc đúng mực” (nghĩa giả sự chi nghị dã).

Vậy muốn tìm hiểu việc nào có nghĩa hay không, đương nhiên phải xét việc ấy cho thật thấu đáo đã. Không thể phê phán với thái độ tự cho đã nhìn thấy sự vật trước khi có ánh sáng.

Xét cho thấu đáo ta sẽ thấy rằng: Ở địa vị và hoàn cảnh Tào Tháo, nhân nghĩa không thể là đem gạo phát chẩn như kiểu mấy đại gia quy Phật, không thể như Sái Ung quỳ khóc thây Đổng Trác, không thể như Nễ Hành đánh trống chửi bậy, không thể như bọn người bất tài ôm Hiến Đế mà than thở v.v…

Phạm vi và cơ sở nhân nghĩa của Tào Tháo rộng lớn hơn rất nhiều. Đó là sinh mệnh của hàng trăm vạn người, sự an ninh cho quốc gia, sự yên bình cho Xã hội sau bao tai biến tầy trời: Hoàng Cân, Đổng Trác, Lã Bố, Quách Dĩ, Lý Thôi. Đời sau vì bọn chính thống làm lạc hướng, đã quên mất cái nhân nghĩa to tát kia mà chỉ nghĩ đến mấy cá nhân tầm thường: Triệu Ngạn, Dương Bưu, Đổng Thừa, Đổng Phi, Hiến Đế, dùng làm căn cứ kết tội Tào Tháo bất nhân, bất nghĩa.

Nhưng đáng kể nhất vẫn là con người chính trị của Tào Tháo

Jean Jacques Rousseau viết:

– Chớ lầm tưởng rằng những nhà hiền triết đã biết rõ con người, trái lại họ còn rất mù mờ là khác, vì họ thường xét đoán con người qua những thành kiến của họ, nguy hơn nữa là không có một hạng người nào lại lắm thành kiến bằng những nhà hiền triết.

Vào thực tiễn, các hiền triết bao giờ cũng thất bại bởi vì thế giới của họ thuần những tư tưởng trừu tượng, những nguyên tắc thuần lý, những chân thiện mỹ tuyệt đối. Còn thế giới loài người, sinh hoạt xã hội thì khác hẳn.

Nước Cộng Hòa lý tưởng của Platon, Thành phố Thiên đường của Saint-Augustin và thiên quốc của Thomas Campenella đều chỉ là những giấc mộng, tương tự giấc mộng của vị lương y muốn tương lai y khoa sẽ vượt ngưỡng cửa Tử thần đến cõi bất diệt.

Thực tiễn là bản chất của chính trị.

Thực tiễn là kim chỉ nam của tất cả mọi hoạt động chính trị.

Ở chính trị chỉ có vấn đề lợi hại, thành công, thất bại, tồn tại và tiêu diệt. Muốn thành công, muốn tồn tại cần phải thủ đoạn mưu lược, biết tiến, biết thoái, phải có sức làm việc cần khổ, một nghị lực dồi dào.

Con người chính trị ví như vị kỹ sư sử dụng hết thẩy những gì cần thiết hữu ích để đạt tới kết quả.

Thời đại Tam Quốc, một mình Tào Tháo là xứng đáng đủ điều kiện cần thiết của một con người chính trị. Bên cạnh Tào Thào là Gia Cát Lượng. Nhưng ở Khổng Minh người ta vẫn thấy vơi vơi, phảng phất tựa hồ mộng tưởng thống nhất cho nước Ý của Dante mà chưa có lý luận của Machiavel bổ túc, chủ nghĩa Xã hội không tưởng của Saint-Simon, Kropotkine mà chưa có tư tưởng khoa học và tư tưởng thực tế đấu tranh. Tóm lại con người chính trị của Khổng Minh phải đứng bên cạnh con người chính trị Tào Tháo thì tính chất của chính trị thời đại Tam Quốc mới hiển hiện, mới thấy rõ chỗ kỳ diệu mà Thánh Thán đã phê phán.

Xem Tam Quốc chí diễn nghĩa, nghiên cứu Tam Quốc dù tùy theo tâm chất ta yêu hay ghét Tào Tháo, nhưng sâu kín trong lòng, chúng ta ai ai cũng thán phục Tào Tháo và công nhận Tào Tháo đã dạy được chúng ta nhiều điều hơn tất cả những nhân vật khác thuộc thời đại đó.

Tâm lý chính trị của Tào Tháo: hành động trước hết

Tam Quốc chí diễn nghĩa kể:

– Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến cả. Khi uống rượu được vài tuần, Doãn tự nhiên che mặt khóc hu hu.

Các quan giật mình hỏi rằng:

– Nay là ngày sinh nhật của quan Tư Đồ, sao Ngài lại khóc như vậy?

Doãn thưa rằng:

– Nay có phải là ngày sinh nhật của tôi đâu. Vì có một việc muốn nói với các vị nhưng sợ Đổng Trác sinh nghi, cho nên mượn cớ thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Đức Cao Hoàng ngày xưa đánh Tần diệt Sở, bao nhiêu công phu mới nên cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Đổng Trác. Tôi khóc là vì thế.

Các quan nghe nói cũng đều khóc cả.

Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng:

– Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, có khóc chết được thằng Đổng Trác không?

Doãn ngoảnh lại xem ai, người ấy là Kiêu Kỵ Hiệu Úy Tào Tháo. Doãn giận nói rằng:

– Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, nay người không biết nghĩ báo quốc lại nhăn răng ra mà cười à?

Tháo nói:

– Tôi cười, có phải cười gì đâu? Cười là cười các Quan, không biết nghĩ kế gì mà trừ thằng Đổng Trác. Tháo này tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt đầu thằng Trác, treo ở cửa chợ để tạ thiên hạ.

Doãn liền đứng dậy hỏi rằng:

– Mạnh Đức có kế gì tài thế?

Tháo nói:

– Tôi lâu nay sở dĩ khuất thân nhờ Đổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó đã hơi tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan Tư Đồ có con dao Thất bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen này vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Đổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì.

Ở thời loạn, mọi người không thể cứ ngồi “ca cẩm” mà mong thay đổi tình thế. Toàn bộ trí thức Kinh Đô họp ở nhà Vương Doãn với thái độ than vãn nhù nhờ đã làm nổi bật ngôi sao chính trị Tào Tháo ngay từ lúc bấy giờ, lúc Tháo chưa có một tư bản chính trị nào.

Tào Tháo cười bọn đó, cũng như nhà văn Gorki cười bọn trí thức: “Bọn họ, số đông đều biết, đều giỏi mơ tưởng một đời sống hạnh phúc cho nhân loại thiên vạn năm, nhưng lại không người nào tự hỏi mình có dám đứng lên xây dựng nó?”

Tào Tháo là người cơ trí, lại dám hành động, đương nhiên quyền lãnh đạo sau này phải lọt về tay Tháo. Mặc dầu những bước đầu thất bại. Giết không nổi Trác, Tháo phải bỏ trốn, rồi đi theo liên quân miền Đông lại gặp sự rụt rè của Viên Thiệu, Tháo dám một mình đuổi đánh quân Đổng Trác. Tuy thất bại, nhưng Tháo cũng mở mắt cho mọi người thấy rằng:

– Muốn cứu vãn một tình trạng thì không thể chỉ ngồi nhìn nhau bàn tán, than khóc, thề bồi, mà phải hành động rỏ máu và mồ hôi. Nói suông để tự an ủi, tự làm với nỗi bực bội sẽ làm cho người ta cứ nói suông mãi mãi. Cái cười của Tào Tháo muốn bảo cho bọn Vương Doãn, hãy quay lại tự vấn, tự xét cái thái độ ăn nhiều, uống nhiều và nói nhiều.

Không mập mờ

Một chính trị gia hay một tập đoàn chính trị phải kiến tạo lập trường rõ rệt. Nhà văn Chekow đã miêu tả sự thất bại qua nhân vật Gusev “lúc nào cũng bị dầy vò bởi ý tưởng mờ ảo mà hắn ta không định rõ là hắn muốn gì?”

Ở Tào Tháo, ngay từ khi bắt đầu hoạt động, Tào Tháo đã đặt mình vào một vị trí nhất định không chân nọ chân kia, chờ đợi như nhiều kẻ khác.

Việc mưu sát Đổng Trác hỏng, mặc dầu đã biện hộ cho khỏi bị nghi ngờ, nhưng chẳng dùng dằng, Tháo ra cửa mượn ngựa trốn thẳng một mạch. Trên sự việc là trốn để tránh họa cho thân, nhưng trên tâm lý Tháo quyết đối lập với Trác. Thoát rồi, Tháo liền thảo hịch đánh Trác, tờ hịch của Tháo được các trấn hưởng ứng, chư hầu hội tụ. Trác thua chạy về phía Tây. Viên Thiệu không đuổi, có ý muốn thỏa hiệp với Trác. Tháo nhất định phá việc đó nên mang một vạn quân cùng các bộ tướng suốt ngày đuổi theo đánh Đổng Trác.

Bình xong giặc Khăn Vàng vùng Từ, Duyện, Tháo được các triều thần gọi về dẹp loạn Lý Thôi-Quách Dĩ. Chủ kiến đã định, tới thành đô, lập tức Tháo quét sạch luôn cả bọn danh sĩ lỗi thời cùng toàn bộ tập đoàn thống trị cũ.

Với Tháo, trên phương diện thủ đoạn cơ mưu chính trị có thể mang những nét quanh co uẩn khúc, nhưng trên phương diện lập trường thì chỉ có một vạch thẳng. Bởi lẽ đó mà những người theo Tào Tháo tin ông ta hoàn toàn. Bởi đường lối chính trị minh bạch mà Tào Tháo tạo được một uy thế chính trị vững chắc.

Cứng rắn

Tào Tháo thường nói: “Thật là khôi hài nếu con người ta cũng giống như cây đàn, hễ hơi đụng tới thì nó kêu rên lên”. Chính trị với Tháo đòi hỏi sự tiêu diệt mọi tình cảm lòng thòng vô ích. Thương vay khóc mướn sẽ làm sét rỉ tâm não nhà chính trị.

Đúng thế, kẻ nhạy cảm thường vẫn là kẻ tự phản bội chính mình, cho nên nhà văn Andreev trong tập truyện ‘Bẩy kẻ bị chết treo” đã ca tụng thái độ kiên quyết của một nhà cách mạng qua nhân vật “Kẻ tử tù”:

– Ôi! Nếu mặt con người mà khóa được như cánh cửa lao thất, thì mặt người tù ấy tôi thấy bưng kín, lạnh lùng và bên ngoài còn cả chiếc khóa to lớn.

Bàn về công cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo

Như ta đã biết, xã hội Trung Quốc đương thời Tào Tháo mang nhiều mối xung đột quyết liệt:

– Xung đột nội bộ chính quyền trung ương.

– Xung đột giữa các chính quyền địa phương với chính quyền Trung ương,

– Xung đột giữa các lực lượng địa phương với nhau.

– Xung đột giữa hai cấp lãnh đạo cũ và giai cấp lãnh đạo đang lên, hay xung đột giữa phần tử trí thức bình dân và phần tử trí thức danh gia thế tộc.

– Xung đột giữa quần chúng rộng lớn với chế độ lại trị đang đi xuống của chính quyền triều Hán.

– Xung đột giữa khuynh hướng thống nhất và khuynh hướng chia cắt phong kiến.

Tóm lại, Trung Quốc lúc đó đang đi vào cơn khủng hoảng lớn trên chính trị, văn hóa và sinh hoạt, nói chung là khủng hoảng của Trật tự và Tiến bộ (l’ ordre et le progrès). Một đằng trật tự cũ đang ra sức phá hoại tiến bộ. Đằng khác, tiến bộ đang ra sức kiến tạo lực lượng mới để nhoi lên.

Trật tự và Tiến bộ là hai vấn đề cơ bản cho sự sinh tồn của một chế độ. Muốn giải quyết những xung đột trên thì vấn đề chủ yếu là vấn đề chính quyền, bởi vì quyền lực chính trị là chiếc chìa khóa cần thiết để khai thông các lối ngõ bị lấp bít. Quan niệm và học thuyết về chính quyền cũng là quan niệm và học thuyết của cuộc diễn tiến lịch sử. Học thuyết chính trị Đông Phương coi trọng quyền bính như thế nào?

Khổng Tử nói: “Không búa rìu làm sao đốn cây?”

Tuân Tử nói: “Tạo Phụ là người tài cưỡi xe, nay không có xe có ngựa thì lấy gì để tỏ cái tài năng của mình. Hậu Nghệ giỏi bắn, nay không có cung có tên thì lấy gì để tỏ cái giỏi của mình”.

Quỷ Cốc Tử nói: “Công việc muốn tốt là phải chế ngự được người chứ không để người chế ngự ta. Muốn chế ngự người, tất phải nắm được quyền, cho nên mới có câu đại trượng phu lấy quyền để mà sai khiến chúng nhân vậy”.

Quyền bính đối với chính trị cần thiết như chiếc búa với người tiều phu, hay nói khác đi, chính trị và quyền bính chẳng khác chi con Lang con Bối sống dựa vào nhau, con này rời ra con kia chết, con kia rời ra con này chết, chính trị và quyền bính mang tính chất cộng sinh (Symbiose).

– Quyền bính là gì?

Theo cổ nhân: “Quyền thị chúng lực chi yếu, cương chi cương, y chi lãnh”, nghĩa là quyền ví như đầu giềng của chiếc lưới, cổ của chiếc áo, chủ chốt của mọi lực lượng. Khi ta cầm vào cổ áo, ta sẽ mang chiếc áo dễ dàng, ta cầm được đầu giềng của lưới, ta sẽ điều khiển được chiếc lưới dễ dàng, nhẹ nhàng.

– Làm thế nào để có quyền?

– Đương nhiên phải tranh thủ để có chính quyền.

– Tào Tháo đã tranh đoạt chính quyền ra sao? Tư tưởng hậu thế sau khi bị chính thống hóa cũng như bị ảnh hưởng Tam Quốc chí diễn nghĩa đã khinh ghét Tào Tháo đều chú trọng và căn cứ vào cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo. Đó là tất cả vấn đề mà chúng ta sẽ bàn tới những dòng dưới đây.

– Tranh thủ chính quyền tự cổ xưa đến nay, từ Đông sang Tây đều có hai cách thức: “cách thức bạo động và cách thức không bạo động”. Xét trong lịch sử thì cách thức bạo động hay cách thức không bạo động đều mang nhiều hiện tượng khác nhau. Tỉ dụ: Nhượng quyền như Nghiêu Thuấn, thoán đoạt như Hồ Quý Ly, mưu sát như vụ Brutus, thông qua nghị hội như các cuộc giải tán nội các ở các nước Tây phương ngày nay, dùng chiến tranh xâm lược, chiến tranh giải phóng v.v… Những hiện tượng khác nhau ấy phải tùy theo những điều kiện, tình hình và tính chất của đấu tranh cao hay thấp của lịch sử mà phát hiện.

Cổ học Trung Quốc quan niệm về cả hai cách thức bạo động và không bạo động như sau:

a) Dùng đức.

b) Dùng Công.

c) Dùng Mưu.

d) Dùng Vũ.

Nhưng cổ nhân thường trọng lối khéo léo hòa bình dành chính quyền hơn là dùng lối bạo tàn để cưỡng đoạt.

– Dùng Đức là thế nào?

– Như vụ ông vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn vì thấy Thuấn được dân yêu chuộng.

– Dùng Công là thế nào?

– Như vua Vũ trị thủy để quy tụ lòng ngưỡng mộ của muôn dân.

– Dùng Mưu là thế nào?

– Như vua Thang đánh bại quân Kiệt, dùng Nữ Hoa và Khúc Nghịch làm tay sai để mê hoặc vua Kiệt mà che đậy mưu của mình.

– Dùng Vũ thì thế nào?

– Như Hán cao Tổ và Hạng Võ phát động chiến tranh chống Tần.

Chữ Vũ ở đây nên hiểu theo cái nghĩa bạo động ngược lại với bất bạo động. Còn nếu hiểu rộng lớn hơn thì trong Vũ cũng phải có đủ cả Đức, Công, Mưu thì mới quyết thắng được. Hơn nữa xét cho cùng, mọi nút chuyển trọng đại của lịch sử chưa hề có lần nào được giải quyết mà không xảy ra bạo động, như Lénine đã viết:

La violence est’ accoucheuse de toute vieille societe grosse d’ une societe nouvelle, l’ instrument à l’ aide duquel le mouvement social se fait place et brise les formes politiques mortes et figées.

(Bạo lực là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới, là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết.)

Bạo động hay không bạo động đều tùy thuộc những điều kiện, tình hình, tính chất lịch sử, vì vậy ta không thể kết tội bạo động cũng như nhất định không bạo động. Không bạo động từ bao giờ đến giờ vẫn chỉ là một ước mơ chứ chưa thành một quy luật. Chẳng phải bất cứ thời thế nào cũng cho phép nhà chính trị dùng Đức, dùng Công.

Phê phán Tào Tháo, có người viết:

– “Sinh hoạt chính trị của Tào Tháo gồm trước sau hơn bốn mươi năm thì đã quá 30 năm Tào Tháo ngụp lặn trong chiến tranh”.

Lời phê phán trên đây cho chúng ta thấy cuộc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo là cuộc tranh đoạt bằng vũ lực, lấy chiến tranh giải quyết vấn đề.

Trở ngược lại từ loạn Khăn Vàng, Hoạn quan, Ngoại thích đến Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ ta thấy gì?

Hết thẩy chỉ là những âm mưu tranh ngôi, đoạt vị của những thế lực chống đối nhau của cùng một “gia thuộc” của trật tự cũ. Do đó ta không thể gọi đấy là những cuộc đấu tranh giành chính quyền được, vì bản chất các tranh giành ấy không đặt trên nền tảng chính quyền. Bởi thế cho nên ta mới thấy những hiện tượng rất khôi hài mà Tam Quốc Chí diễn nghĩa thuật lại như:

Hà Hậu nói:

– “Chúng mày đừng lo, ta sẽ bảo hộ cho”. Bèn giáng chỉ triệu Hà Tiến vào cung khẽ bảo rằng: “Anh em ta hàn vi từ thuở nhỏ, nếu không có bọn Trương Nhượng sao có phú quý ngày nay? Nay thằng Kiển Thạc bất nhân đã bị giết rồi, sao anh còn tin lời người ta nói mà toan giết cả bọn hoạn quan?”

Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê thấy phe Đổng thái Hậu thất bại, bèn đem vàng ngọc đút lót em trai Hà Tiến là Hà Miên và mẹ Tiến là Vũ dương Quân nhờ vào nói khéo với Hà thái Hậu che chở cho. Bởi vậy mười tên Thường thị lại được tin dùng.

………………………………………………

Trác hỏi Ngu Phu rằng:

Ai xui mày làm phản?

Phu trợn mắt thét mắng:

– Mày không phải là vua tao, tao không phải là tôi mày, sao gọi là phản được. Tội mày đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết mày. Tao tiếc rằng không xé nhỏ được xác mày ra để tạ thiên hạ.

Trác tức lắm, sai đem Ngu Phu ra mổ. Phu cứ mắng chửi Đổng Trác đến lúc chết.

Hiến Đế khóc nói:

– Trẫm bị hai thằng giặc ấy khinh nhờn đã lâu. Nếu giết được thì may lắm.

Bưu tâu rằng: “Tôi có một mẹo, trước làm cho hai đứa tự tàn hại lẫn nhau rồi sau mới vời Tào Tháo đem binh vào giết, quét sạch lũ giặc để yên triều đình”.

Hiến Đế hỏi: “Kế ấy là kế gì?”

Bưu tâu: “Tôi nghe vợ Quách Dĩ rất hay ghen, sai người đi lại với vợ nó, dùng kế phản gián, hai thằng giặc tất giết lẫn nhau”.

Vua liền hạ chiếu phong Lý Thôi làm Đại tư Mã. Thôi mừng nói rằng: “Phúc này thật là thần thánh giáng cho ta. Lạy thánh vạn lạy, có cầu cúng Ngài cũng có hơn”.

Lý Nhạc và Hàn Tiêm lại có hơn hai trăm đầy tớ bộ hạ, nào thầy cúng nào thầy thuốc. Hai đứa tâu cho làm Hiệu úy Ngự sử cả. Khắc ấn không kịp, lấy dùi vạch gỗ ra làm ấn chẳng ra thể thống gì cả nữa.

Nền tảng chính quyền là gì?

Nhiều người vẫn quan niệm chính quyền qua những yếu tố “nổi” mà sơ sót những yếu tố “chìm”, chẳng hạn như nhìn thấy ở chính quyền những yếu tố: vũ lực, tổ chức cai trị, căn cứ địa, tổ chức kỹ thuật, tiền bạc mà không nhìn thấy sự tiến bộ của xã hội, uy thế chính trị, uy thế xã hội và tư tưởng nhân sinh. Nhà triết học Aristote viết: “Người là một động vật chính trị”. Sở dĩ người là một động vật chính trị là vì người biết quây quần kết tụ thành từng tập đoàn, các tập đoàn lại kết tụ lại thành xã hội và cứ phát triển rộng lớn không ngừng.

Xã hội càng rộng lớn thì tính cách kết tụ càng phức tạp, trong đó những tập đoàn kết tụ qua kinh tế, qua học thuật, qua tôn giáo v.v…

Các tập đoàn ấy do sự cần thiết của tiến bộ, phát triển và sinh tồn nên có hai bộ mặt sinh hoạt trái ngược hẳn: Một mặt liên hợp sống chung và một mặt đấu tranh lẫn nhau. Hai bộ mặt sống chung và đấu tranh cần phải có một sự điều chỉnh, nếu không xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, cướp bóc, hà hiếp. Nhu yếu điều chỉnh chế tạo ra chính quyền. Như vậy, nhiệm vụ hàng đầu của chính quyền là phải kiến lập được trật tự vững chắc. Muốn kiến lập được trật tự vững chắc, chính quyền cần nắm đủ yếu tố: vũ lực, tổ chức cai trị, căn cứ địa, tổ chức kỹ thuật, tiền bạc v.v… Những yếu tố này kể làm những phương tiện để thực hiện trật tự. Nhưng ta không được quên rằng xã hội luôn luôn chuyển hình, tiến bộ, lẽ đương nhiên chính quyền cũng phải mang nhiệm vụ thỏa mãn nhu yếu tiến bộ của xã hội, nếu chính quyền và trật tự đi thụt lùi so với nhu yếu tiến bộ, chẳng chóng thì chày chính quyền và trật tự sẽ bị tiến bộ quật ngã để rồi chế tạo một trật tự mới hơn, tiến bộ hơn. Cho nên muốn thỏa mãn nhu yếu tiến bộ của xã hội, chính quyền tự nó có sẵn sàng uy thế chính

0