Lịch sử Thiết Giáp Hạm (battleship)
HMS Dreadnought 1906 Biên dịch : hongsonvh I. Đôi nét về quá trình tiến hóa của các chiến hạm từ cuối Kỷ tàu buồm đến Kỷ hơi nước Đỉnh cao của Kỷ tầu buồm là vào khoảng thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, đây là thời kỳ giao tranh liên tục giữa hai cường quốc biển cả đó là nước Anh ...
Biên dịch : hongsonvh
I. Đôi nét về quá trình tiến hóa của các chiến hạm từ cuối Kỷ tàu buồm đến Kỷ hơi nước
Đỉnh cao của Kỷ tầu buồm là vào khoảng thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, đây là thời kỳ giao tranh liên tục giữa hai cường quốc biển cả đó là nước Anh và nước Pháp mà phần thắng cuối cùng đã nghiêng về phía người Anh với các trận đánh như Trận sông Nile. trận Trafalga… Cả hai quốc gia Anh và Pháp đều tiêu chuẩn hóa chiến hạm của mình thành 4 hạng từ khoảng 60 -120 súng/ 1 tầu chiến, và hạng tầu chính được sử dụng trong các trận đánh giữa hai quốc gia này là hạng II – khoảng trên dưới 70 súng/ 1 tầu chiến (những chiến hạm có nhiều súng hơn thì phải đánh đổi lấy độ cơ động). Những chiến hạm trong 4 hạng này được gọi là tầu tiền tuyến – the ship of the line, đây là những tầu chiến chính của một trận hải chiến, còn những con tầu nhỏ hơn với từ 30 – trên 40 súng được gọi là tầu Frigate, loại tầu này chức năng chính không phải là để chiến đấu mà là để tuần tra trinh sát.
Đến giữa thế kỷ 19 cùng với sự phát chiến của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự ra đời của động cơ hơi nước – đây có thể coi là thời đầu của kỷ hơi nước với sự kết hợp của cả hai động cơ chạy buồm và hơi nước trên một con tầu – người ta bắt đầu có một khái niệm mới về tầu chiến, đó phái là những con tầu có động cơ bằng hơi nước, nó phải được bọc thép và có ít súng chính nhưng có cỡ nòng rất lớn, hay người ta còn gọi chúng là chiến hạm bọc thép (ironclass) sự ra đời của loại chiến hạm này đã làm cho các tầu chiến chạy buồm chở thành lỗi thời, ví dụ điển hình là trong giai đoạn đầu của trận hải chiến Hampton Road của nội chiến Hoa kỳ, chiếc tầu bọc thép CSA Virginia của Hợp bang miền Nam đã đánh tơi bời hạm đội tầu gỗ truyền thống của Liên Bang miền Bắc. Sau cuộc đối đầu đỉnh cao giữa hai quái vật bọc thép, chiếc USS Monitor của miền Bắc với chiếc CSA của miền Nam, thì các cường quốc hải quân trên thế giới bắt đầu đổ xô đi đóng tầu bọc thép với cảm hứng là từ chiếc USS Monitor. Nhưng do sự hạn chế của trình độ khoa học kỹ thuật ở thời này mà các tầu lớp chiến hạm bọc thép chỉ dừng lại ở các công sự nổi có động cơ hơi nước và được bọc giáp mà thôi.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 khi thế giới phải trải qua 2 cuộc chiến, chiến tranh Trung – Nhật lần I năm 1894/5 và chiến tranh Nga – Nhật 1904/05 thì người ta mới thấy các thiết giáp hạm đúng nghĩa của nó (battleship) mới thật sự ra đời chứ không còn chỉ là các tầu bọc thép Ironclas nữa, và người ta gọi chúng là các thiết giáp hạm thời Tiền Dreadnought ( đọc phiên âm tiếng Ắnglê là Pri dredn:t)
Vậy những thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought là gì và chúng tiến hóa như thế nào?
Thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought là thuật ngữ chung tất cả các loại Thiết giáp hạm đi biển được đóng trong những năm giữa thập niên 1890 và 1905. Các tàu lớp Tiền Dreadnought thay thế lớp tàu chiến bọc thép của thập niên 1870 và thập niên 1880. Được làm từ thép, và được bảo vệ bởi áo giáp thép cứng, thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought mang khẩu đội súng chính cấp một hạng nặng trong tháp pháo và chúng được hỗ trợ bởi một hoặc một vài khẩu đội súng cấp hai có kích cỡ nhỏ hơn. Con tầu vận động bằng ba động cơ hơi nước mở rộng nhiên liệu than đá.
Trái ngược với sự phát triển một cách hỗn loạn của dòng tàu chiến bọc thép trong những thập kỷ trước, Trong những năm 1890 lực lượng hải quân trên toàn thế giới bắt đầu đóng chiến hạm theo một thiết kế phổ thông, như việc hàng chục thiết giáp hạm trên toàn thế giới được đóng chủ yếu theo thiết kế của lớp Thiết giáp hạm Majestic của Anh. Sự giống nhau xuất hiện ở các Thiết giáp hạm trong những năm 1890 được nhấn mạnh bởi số lượng ngày càng tăng các con tầu được đóng. Các quyền lực hải quân mới như Đức, Nhật Bản và Hoa Kỳ bắt đầu thiết lập các hạm đội tàu Tiền Dreadnought, trong khi hải quân các nước Anh, Pháp và Nga bắt buộc phải mở rộng để đáp ứng các mối đe dọa mới. Cuộc đụng độ quyết định của hạm đội tiền Dreadnought chính là cuộc đối đầu giữa Nga và Nhật Bản trong Trận Tsushima ngày 27 tháng năm năm 1905.
Nhưng hàng chục tàu chiến đã đột ngột trở nên lỗi thời bởi sự xuất hiện của chiếc HMS Dreadnought vào năm 1906. Chiếc Dreadnought theo xu hướng thiết kế thiết giáp hạm hạng nặng hơn, Tầm bắn của súng xa hơn và chỉ được trang bị một loại súng 12-inch (305 mm) ; Chiếc động cơ tua bin hơi nước cải tiến cũng giúp nó có tốc độ cao hơn. Các tầu lớp được đóng trước chiếc Dreadnought ngay lập tức bị đánh bại; lớp thiết giáp hạm mới được từ đó được gọi là lớp tàu Dreadnought trong khi các tàu được đóng trước đó thường được gọi là tàu tiền Dreadnought. Mặc dù bị lỗi thời, các chiến hạm tiền Dreadnought vẫn đóng một vai trò quan trọng trong Chiến tranh thế giới I và thậm chí có thể được thấy phục vụ trong Chiến tranh thế giới II
II. Sự tiến triển của tầu thiết giáp hạm
HMS Dreadnought cho thấy phần thân tàu thấp điển hình ở loại tầu bọc thép có tháp pháo. Con tàu này được hạ thủy năm 1875, không nên nhầm lẫn với kế thừa nổi tiếng của nó được hạ thủy vào năm 1906, đánh dấu sự kết thúc của kỷ nguyên Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought.
Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought được phát triển từ lớp chiến hạm bọc thép. Các chiến hạm bọc thép đầu tiên lớp La Gloire and Warrior trông giống như các tầu frigate có buồm, với ba cột buồm cao và pháo mạn tàu khi chúng được đưa vào biên chế đầu những năm 1860. Chỉ tám năm sau đó xuất hiện chiếc HMVS Cerberus, con tầu đầu tiên được đóng theo thiết kế của Sir Edward Reed, và ba năm tiếp theo thì là chiếc HMS Devastation, Một con tàu mà trông còn giống Thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought hơn nữa và là con tầu vượt đại dương đầu tiên đóng theo thiết kế của tầu Monitor. Đều không có cột buồm, cả hai tàu mang bốn khẩu súng hạng nặng trong hai tháp phía trước và phía sau. Chiếc HMS Devastation là một tầu kiểu monitor được thiết kế để tấn công bờ biển và bến cảng của đối phương vì vậy nó có phần thân tàu rất phấp, nó thiếu khả năng đi biển cần thiết để chiến đấu trên đại dương; sàn của chiến hạm này sẽ được quét bởi vòi phun nước chính vì vậy nên chúng làm ảnh hưởng đến việc sử dụng súng của nó. Lúc này Hải quân trên toàn thế giới vẫn tiếp tục đóng loại thiết giáp hạm có buồm, không có tháp pháo trên phần thân tàu đầy đủ và đã đủ tốt, để vượt biển và chiến đấu trên các đại dương.
Sự khác biệt giữa lớp thiết giáp hạm tấn công bờ biển và lớp thiết giáp hạm có khả năng hành trình trên đại dương trở nên mờ nhạt với việc xuất hiện lớp thiết giáp hạm Admiral, được đặt hàng vào năm 1880. Những con tàu ở lớp này phản ánh sự tiến hóa trong thiết kế của tầu bọc thép, chúng được bảo vệ bằng thép và giáp hợp kim hơn là từ sắt. Được trang bị súng có khóa nòng với các cỡ còng từ 12 inch -> 16 ¼ inch (305 mm và 413 mm), các tầu lớp Admiral tiếp tục xu hướng của tàu chiến bọc thép là phải có vũ khí khổng lồ. Các khẩu súng được gắn các bệ pháo có lá chắn nhằm giảm trọng lượng. Một số nhà sử học xem những con tàu này như là một bước tiến quan trọng hướng tới tàu Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought; những người khác xem chúng như là một thiết kế nhiều mắc mớ và không thành công.
Tiếp sau đó là sự ra đời của lớp tầu Royal Sovereign năm 1889, chúng được thống nhất trang bị súng 13,5-inch (343 mm) với bệ súng có lá chắn; chúng cũng lớn hơn đáng kể (trọng tải khoảng 14.000 tấn) và nhanh hơn (do sử dụng động cơ hơi nước mở rộng ba lần) so với lớp Admiral. Một điều rât quan trọng, các tầu lớp Royal Sovereign đã có một phần thân tàu cao hơn, làm cho chúng rõ ràng có khả năng đi biển tốt, đây là vai trò quan trọng của thiết giáp hạm.
Việc thiết kế Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought đến đỉnh cao ở lớp thiết giáp hạm Majestic, mà con tàu đầu tiên tromg lớp này được hạ thủy vào năm 1895. Những con tàu này được đóng với phần thiết giáp hoàn toàn bằng thép, và súng của chúng được đặt ở các bệ được bao chắn đầy đủ và chắc chắn gọi là tháp pháo. Chúng cũng dùng súng 12-inch (305 mm) làm súng chính, do những tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công nghệ đúc súng và chế tạo đạn, các khẩu súng đã nhẹ hơn và mạnh mẽ hơn so với các khẩu súng có cỡ nòng lớn hơn trước đây. Các tầu lớp Majestc cung cấp mô hình để đóng các thiết giáp hạm của Hải quân Hoàng gia Anh cũng như của lực lượng hải quân của các quốc gia khác trong nhiều năm sau.
Trang bị vũ khí
Các tàu thiết giáp thời tiền Dreadnought mang những khẩu súng có những cỡ nòng khác nhau cho các vai trò khác nhau trong những trận chiến tàu đối tàu. Vũ khí trang bị chính là bốn khẩu súng hạng nặng, được gọi là các khẩu súng cấp một và đặt ở hai tháp pháo phía trước và phía sau. Rất ít khi tàu Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought có những sắp xếp khác với thiết kế này. Ban đầu những khẩu súng này có tốc độ bắn chậm, độ chính xác bị giới hạn, tuy nhiên chúng là những khẩu súng hạng nặng, đủ để xuyên qua lớp giáp dày bảo vệ động cơ, kho đạn, và súng chính của chiến hạm của đối phương.
Loại cỡ phổ biến nhất của súng chính cấp I là loại có cỡ nòng 12 inch; thiết giáp hạm của Anh từ lớp Majestic trở đi đều sử dụng cỡ nòng này, cũng như các tàu Pháp kể từ lớp Charlemagne (được đặt hàng năm 1894). Người Nhật Bản, nhập khẩu và sử dụng súng 12-inch hầu hết các khẩu súng của họ từ nước Anh. Hoa Kỳ sử dụng cả hai loại cỡ nòng 12 – và 13-inch (330 mm) trong hầu hết các thập niên 1890 cho đến khi tầu lớp Maine được đặt hàng vào năm 1899, sau đó súng 12-inch (305 mm) đã được sử dụng phổ cập. Người Nga sử dụng cả hai loại cỡ nòng 12 và 10-inch (254 mm) làm vũ khí chính của họ; các tầu lớp Petropavlovsk, Retvizan, Tsesarevich, và lớp Borodino có các khẩu 12-inch (305 mm) trong khi các khẩu đội súng chính của lớp Peresviet lại sử dụng súng cỡ 10-inch (254 mm). Chiếc Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought đầu tiên của Đức sử dụng một súng trước 11-inch (279 mm) nhưng lại giảm xuống cỡ 9,4-inch (239 mm) ở hai súng sau nhưng người ta phải lại phải dùng tất cả súng 11 in ở cả súng trước lẫn súng sau với lớp tầu Braunschweig.
Trong khi kích cỡ của khẩu đội pháo chính vẫn khá ổn định, hiệu suất của các khẩu súng được cải thiện như việc sử dụng các nòng pháo dài. Việc ứng dụng thuốc súng cháy chậm như nitrocellulose và thuốc nô? không khói có nghĩa là một nòng súng dài hơn sẽ tạo ra một vận tốc đường đạn cao hơn và do đó phạm vi bắn cũng như khả năng xuyên phá của phát đạn sẽ cao hơn. Giữa lớp Majesticlớp và Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght của Anh quốc, độ dài của súng 12-inch tăng từ 35 đến 45 calibrevà tốc độ đường đạn tăng từ 2.417 feet / giây (737 m / s) đến 2725 feet / giây (s / 830 m).
Thiết giáp hạm lớp tiền Dreadnounght cũng mang một khẩu đội pháo cấp hai. Chúng bao gồm các khẩu súng nhỏ hơn, điển hình là ở kích cỡ 6-inch (152 mm), mặc dù bất cứ kích cỡ nào từ 4 ->9,2 inch (100-230 mm) đều có thể được sử dụng. Hầu như tất cả các khẩu súng cấp hai đều là loại ?obắn nhanh?, đây là áp dụng một loạt các sáng kiến về kỹ thuật để tăng tốc độ của loạt bắn, như việc sử dụng các catut đồng để chứa liều phóng, và cả hai cơ chế khóa nòng cũng như giá súng đều được hoàn thiện với mục tiêu là bắn nhanh và nạp đạn nhanh.
Vai trò của khẩu đội pháo cấp hai là để gây thiệt hại vào các phần kém được thiết giáp hơn của chiến hạm đối phương, khi không thể xuyên qua phần đai giáp chính, nó có thể gây thiệt hại ở các khu vực điểm được bọc thép mỏng như đài chỉ huy, hoặc bắt đầu cháy. Một điều quan trọng không kém là các khẩu đội pháo cấp hai được sử dụng để chống lại các tàu tuần dương, tàu khu trục, và thậm chí cả tàu phóng ngư lôi của kẻ thù. Một khẩu súng với cỡ nòng trung bình được cho là có thể xuyên qua các lớp giáp mỏng của các loại tàu nhỏ hơn, trong khi tốc độ bắn nhanh của khẩu đội pháo cấp hai quan trọng trong việc tiêu diệt các mục tiêu nhỏ nhưng cơ động,. Súng cấp hai được đặt trong nhiều vị trí khác nhau, đôi khi cũng được đặt trong tháp pháo, chúng thường được cố định trong các ổ súng bọc thép ở phía bên của thân tàu, hoặc ở các vị trí bọc giáp trên boong trên của con tầu.
Một số thiết giáp hạm tiền Dreadnought có mang một khẩu đội pháo trung gian, thông thường là các loại từ 8-inch (203 mm) tới 10-inch. Khẩu đội pháo trung gian là một phương pháp để tăng cường hỏa lực cùng một chiếc tàu chiến, chủ yếu sử dụng để chống lại các thiết giáp hạm hoặc ở khoảng cách xa. Hải quân Hoa Kỳ đi tiên phong trong khái niệm khẩu đội pháo trung gian trong các lớp tầu thiết giáp Indiana, Iowa và Kearsarge, nhưng đây không phải là các thiết giáp hạm được hạ thủy giữa các năm 1897-1901. Ngay sau khi hải quân Hoa Kỳ chấp nhận sử dụng khẩu đội pháo trung gian, các lực lượng hải quân của các cường quốc Anh, Ý, Nga, Pháp và Nhật Bản cũng cho hạ thủy các thiết giáp hạm có các khẩu đội pháo trung gian. Thế hệ sau của lớp tàu có khẩu đội pháo trung gian gần như cũng không có ngoại lệ là chỉ sau khi lớp Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght xuất hiện chúng đã ngày lập tức lỗi thời trước khi được hoàn thành.
Trong kỷ tầu bọc thép, phạm vi của các cuộc đụng độ liên tục ra tăng; trong Chiến tranh Trung-Nhật năm 1.894/5 khoảng cách của các trận là khoảng 1 dặm (2.000 m), trong khi đó tại Trận Hoàng Hải năm 1904, các hạm đội Nga và Nhật Bản đã nổ súng vào nhau ở khoảng cách hơn 8 dặm (13km) trước khi định vị ở khoảng cách 3 ->5 dặm Anh (6km và 8.5km). Trong quá khứ, sự ra tăng của khoảng cách giữa các đối thủ trong trận đánh chính là do sự ra tăng tầm bắn của ngư lôi, và một phần do trình độ tác xạ được cải thiện và kiểm soát phát bắn. Hậu quả là người ta lại phải có xu hướng thiết kế những khẩu đội súng cấp hai hạng nặng hơn, con tầu thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought lớp học, chiếc Lord Nelson của Hải quân Hoàng gia Anh là con tầu cuối cùng có các khẩu đội pháo cấp hai trung gian, với 10 khẩu súng 9,2in như là các khẩu đội pháo cấp hai của mình. Những con tầu thiết giáp hạm với cùng một loại các khẩu đội súng cấp hai hạng nặng thường được gọi là các thiết giáp hạm lớp ” bán Dreadnought?.
Vũ trang của lớp tầu tiền Dreadnought được hoàn tất bởi một khẩu đội pháo cấp ba hạng nhẹ và bắn nhanh. Các khẩu đội pháo cấp ba có bất kỳ cỡ nòng từ 3-inch (76 mm) xuống đến súng máy với vai trò của chúng là bảo vệ con tầu ở tầm ngắn để chống lại các tàu phóng ngư lôi, hoặc để bắn phá cấu trúc thượng tầng của một tàu chiến đối phương.
Ngoài việc trang bị vũ khí như súng pháo các loại, nhiều thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought được trang bị ngư lôi, chúng được bắn từ các ống ngư lôi cố định ở vị trí trên hoặc dưới mực nước. Vào thời kỳ các tầu tiền Dreadnought ngư lôi thường có đường kính 18 inch (46 cm) và có một vài loạt có hiệu quả chiến đấu tới vài nghìn mét. Tuy nhiên tại thời này, người ta vẫn chưa thấy có trường hợp nào một con tầu bị đánh chìm chỉ với một phát một ngư lôi.
Bảo vệ
Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought mang một trọng lượng đáng kể các giáp loại thép. Kinh nghiệm cho thấy việc bọc giáp toàn bộ con tầu theo một tỷ lệ nhất định sẽ không tốt bằng tập trung bọc giáp ở những nơi quan trọng. Phần trung tâm của thân con tầu là nơi đặt nồi hơi và động cơ, được bảo vệ bởi đai giáp chính, đai giáp này chạy từ ngay từ phần dưới mực nước cho một khoảng nào đó ở trên nó. Đây chính là ?othành trì trung tâm? dự định để bảo vệ các động cơ khỏi bị tổn thương từ ngay cả những phát đạn mạnh mẽ nhất. Các khẩu đội súng chính và các kho đạn đã bảo vệ bởi các lớp giáp dày từ đai giáp chính.
Sự bắt đầu của thời kỳ tiền Dreadnought được đánh dấu bằng một chuyển hướng từ lắp các súng chính trong một bệ súng mở (chỉ có một tấm chắc bảo vệ ở phía trước ) đến một tháp pháo đầy đủ được gắn vào con tầu.
Các tàu thiết giáp hạm của cuối thập niên 1880, ví dụ các chiếc lớp Royal Sovereign có lớp thiết giáp là hợp kim giữa sắt và thép. Loại giáp này nhanh chóng được thay thế bằng loại giáp thép Harvey cứng hơn, có hiệu quả hơn được phát triển tại Hoa Kỳ. Lần đầu tiên được thử nghiệm vào năm 1891, giáp Harvey đã được phổ biến trong các tàu thiết giáp đã được đóng trong các năm 1.893/5. Tuy nhiên, thời của nó cũng rất ngắn ngủi, trong năm 1895, chiếc thiết giáp hạm của Đức Kaiser Friedrich III đi tiên phong với thậm chí một loại giáp còn tốt hơn nhiều đó chính là giáp Krupp; chỉ trong vòng 5 năm Châu Âu đã cho thay thế toàn bộ bằng giáp Krupp, chỉ có Hoa Kỳ tiếp tục tồn tại sử dụng giáp thép Harvey thép đến tận thế kỷ 20. Việc nâng cao chất lượng của tấm giáp có nghĩa là tàu mới có thể bảo vệ tốt hơn từ một vành đai giáp mỏng hơn và nhẹ hơn. Một tấm giáp hợp kim dày 12 inch chỉ tạo độ an toàn tương đương với giáp dày 7,5 inch của Harvey hoặc 5,75 inch của Krupp.
Nguyên lý hoạt động của động cơ của thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought
Tất cả các tầu thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought chuyển động bằng động cơ pittông hơi nước. Phần lớn các con tầu có tốc độ từ 16 đến 18 hải lý / h (21 mph, 33 km / h). Các tàu lớp ironclads của những năm 1880 sử dụng động cơ phức hợp ( Compound engine), Nhưng vào cuối thập niên 1880 loại động cơ hiệu quả hơn đó là động cơ mở rộng gấp ba (triple expansion engine) được đưa vào sử dụng. Một số các hạm đội không phải là của Anh đã áp dụng động cơ hơi nước mở rộng gấp bốn lần.
Những cải tiến chính trong động cơ của các tầu thiết giáp thời tiền Dreadnought đến từ việc thu được hơi nước có áp suất càng cao hơn từ lò hơi. Các lò nồi hơi ống nhiệt (fire-tube boiler) hình trụ ban đầu đã được thay thế bằng nồi hơi ống nước hiệu quả hơn (water-tube boiler), chúng cho phép hơi nước với áp suất cao được tạo ra với tiêu thụ nhiên liệu ít hơn. Nồi hơi ống nước cũng an toàn hơn, với ít rủi ro về các vụ nổ hơn, và linh hoạt hơn loại lò nồi hơi ống nhiệt. Các lò hơi ống nước Belleville-loại đã được sử dụng trong hạm đội Pháp vào đầu năm 1879, nhưng phải cho đến năm 1894 mới được Hải quân Hoàng gia cho áp dụng vào các tàu tuần dương bọc thép và tầu tiền Dreadnought; các loại lò hơi ống nước khác cũng được sử dụng trong hải quân của các quốc gia khác trên toàn thế giới.
Nguyên lý làm việc của một động cơ hơi nước mở rộng ba lần là hơi nước có áp suất cao được sử dụng ba lần để tạo động lực.
Những động cơ trên sẽ làm chuyển động hai hoặc ba chân vít cánh quạt. Các quốc gia Pháp và Đức ưa chuộng cách sử dụng ba chân vít cánh quạt, cho phép làm cho động cơ ngắn hơn và do đó dễ dàng được bảo vệ hơn, chúng cũng cơ động hơn và có sức đề kháng tốt hơn với những thiệt hại ngẫu nhiên. Tuy nhiên loại ba chân vít thường lớn hơn và nặng hơn so với loại hai chân vít, loại thường được ưa thích sử dụng bởi lực lượng hải quân các nước khác.
Than là nhiên liệu gần như duy nhất trong thời thiết giáp hạm tiền-Dreadnought, mặc dù lực lượng hải quân thực hiện những thí nghiệm đầu tiên với động cơ đẩy dầu vào cuối thập niên 1890. Tăng tốc một, hai hải lý có thể thực hiện được bằng cách áp dụng biện pháp ?oforced draught? vào lò, nơi không khí được bơm vào lò, nhưng cách này làm nồi hơi chóng bị hỏng.
Các hạm đội tiền Dreadnought và các trận đánh
Các thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought ở thời kỳ hoàng kim của nó là cốt lõi của rất nhiều lực lượng hải quân trên thế giới. Nhiều tầu bọc thép lớp ironclad cũ vẫn còn được sử dụng. Cùng phục vụ trong quân ngũ với thiết giáp hạm là các tàu tuần dương được chia theo rất thứ hạng như tuần dương hạm bọc thép hiện đaih, về cơ bản đây là thiết giáp đã cắt giảm một số các lớp giáp, hoặc tàu tuần dương được gia cố hạng nhẹ hơn, và thậm chí cả tàu tuần dương không được thiết giáp cũ hơn, các tầu sloop và tàu khu trục bất kể rằng chúng được đóng từ thép, sắt hoặc gỗ. Các thiết giáp hạm thường bị đe dọa bởi tàu phóng ngư lôi; đó là thời kỳ của các tầu thiết giáp hạm tiền-Dreadnought mà người ta phải đóng những tàu khu trục với mục đích đầu tiên là để đối phó với mối đe dọa từ tàu phóng ngư lôi, và đồng thời trong thời gian này những chiếc tàu ngầm thực sự có hiệu quả đầu tiên cũng đang được chế tạo.
Thời của các tầu thiết giáp hạm tiền Dreadnought chỉ ra sự khởi đầu vào cuối thế kỷ 19, sự cân bằng về sức mạnh hải quân thế giới, vào lúc đó Pháp và Nga cố gắng cạnh tranh chống lại Hải quân Hoàng gia Anh, và cho thấy các ?oquyền lực hải quân mới? của Đức, Nhật Bản và Hoa Kỳ bắt đầu nổi lên. Các con tàu mới của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và ở một mức độ thấp hơn Hải quân Hoa kỳ hỗ trợ mở rộng những quyền hạn của các thuộc địa.
Trong khi thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought được sử dụng cho hải quân trên toàn thế giới, không có cuộc đụng độ nào giữa chúng cho đến cuối thời kỳ thống trị của chính các tầu này. Chiến tranh Trung-Nhật trong 1894-1895 là cuộc chiến có sự tham gia của Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought, nhưng thực chất đây là một cuộc đụng độ giữa thiết giáp hạm Trung Quốc và tàu tuần dương của Nhật Bản. Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ năm 1898 cũng là một trận chiến của các tầu không buồm, nhưng thực chất là thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought của hạm đội Mỹ tấn công tuần dương hạm Tây Ban Nha. Phải đến tận Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905 thì các thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought mới tham chiến một cách bình đẳng. Các cuộc đọ sức này xảy ra trong ba trận hải chiến: đó là chiến thắng về mặt chiến thuật của người Nga trong trận Port Arthur ngày 8-9 tháng 2 1904, không có kẻ thắng người bại trong trận Hoàng Hải ngày 10 tháng 8 năm 1904, và chiến thắng quyết định của Nhật Bản tại trận Tsushima ngày 27 tháng 5 năm 1905.
Chính sách Ngoại giao pháo hạm thường được thực hiện bởi các tàu tuần dương hoặc các tầu chiến nhỏ hơn thiết giáp hạm. Một hải đội của Anh gồm ba tuần dương hạm có gia cố và hai pháo hạm đã mang về sự đầu hàng của quốc gia Zanzibar trong năm 1896; và trong khi các thiết giáp hạm đã tham gia hạm đội kết hợp của các cường quốc phương Tây triển khai trong thời gian xảy ra cuộc nổi loạn Nghĩa Hòa Đoàn, thì thực chất phần hành động của hải quân (trấn áp khởi nghĩa của người Trung Quốc) lại được tiến hành bởi các pháo hạm, khu trục hạm và tầu sloop (một loại tầu chiến hạng nhẹ, có ít pháo trông giống du thuyền ngày nay rất được ưa dùng bởi các tay cướp biển người Pháp và Hà Lan).
Sự phát triển của thiết giáp hạm tiềnDreadnought ở Châu Âu
Hải quân châu Âu vẫn thống trị trong thời đại Thiết giáp hạm tiền Dreadnought. Hải quân Hoàng gia Anh vẫn là hạm đội lớn nhất thế giới, mặc dù những đối thủ truyền thống của hải quân Anh (nước Pháp) lẫn các cường quốc mới nổi về hải quân ở Châu Âu (nước Nga và nước Đức) ngày càng tỏ rõ rằng họ muốn chống lại uy quyền của nó.
Năm 1889, nước Anh chính thức thông qua một ?o Tiêu chuẩn hai sức mạnh – Two Power Standard? cam kết rằng nó sẽ đóng nhiều chiến hạm đến mức đủ để vượt quá hai lực lượng hải quân lớn nhất khác (ngoài Anh) kết hợp lại, vào thời điểm đó, đây có nghĩa là Pháp và Nga, những quốc gia đã chính thức trở thành đồng minh trong những năm đầu của thập kỷ 1890. Các con tầu lớp Royal Sovereign và Majesticlớp học được đóng bởi một chương trình thường xuyên với một tốc độ chế tạo nhanh hơn nhiều so với các năm trước đó. Các tầu lớp Canopus, Formidable, Duncan và King Edward VII đều xuất hiện một cách nhanh chóng từ các năm 1897-1905. Kể cả hai chiếc tàu thuộc sở hữu của Chile nhưng điều hành bởi người Anh thì Hải quân Hoàng gia (Anh) có 39 chiếc thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought đã được đóng xong hoặc còn đóng dở vào cuối năm 1904, bắt đầu tính từ chiếc Majestics. Hơn hai tá loại thiết giáp hạm cũ hơn vẫn đang phục vụ trong Hải quân. Chiếc tầu thời tiền Dreadnought cuối cùng của người Anh là chiếc lớp Lord Nelson, nó xuất hiện sau cả khi chiếc Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght ra đời (như vậy là lỗi thời kể từ khi chua được sinh ra).
Nước Pháp, đối thủ truyền thống về hải quân của nước Anh, đã tạm dừng đóng các thiết giáp hạm của nó trong thập niên 1880 vì ảnh hưởng của học thuyết Jeune Ecole, (người Pháp) ủng hộ việc dùng tàu phóng ngư lôi để đối đầu với thiết giáp hạm. Sau khi ảnh hưởng của Jeune Ecole đã bị lu mờ, chiếc thiết giáp hạm đầu tiên của người Pháp đã được hạ thủy là chiếc Brennus trong năm 1889. Chiếc Brennus và các con tàu được đóng giống nó là những cá thể đối lập với các lớp tầu lớn của Anh, chúng một sự sắp xếp mang phong cách riêng của các khẩu súng hạng nặng, với chiếc Brennus thì nó mang ba khẩu 13,4-inch (340 mm) còn các con tàu đóng theo lớp của nó mang hai khẩu 12-inch và hai khẩu 10,8-inch trong một tháp pháo duy nhất. Các chiếc lớp Charlemagne, được hạ thủy năm 1894-1896, là những chiếc đầu tiên sử dụng 4 súng tiêu chuẩn 12-inch (305 mm) vũ khí chính. Học thuyết Jeune Ecole để lại một ảnh hưởng rất lớn về chiến lược trong hải quân Pháp, và đến cuối thế kỷ 19 Pháp đã từ bỏ cuộc cạnh tranh với Anh với số lượng thiết giáp hạm. Người Pháp phải chịu nhiều thiệt thòi nhất từ cuộc cách mạng của lớp tầu Dreadnought, với bốn tàu của lớp Liberté vẫn còn được đóng dở dang khi chiếc thiết giáp hạm lớp Dreadnounght được hạ thủy, và sáu chiếc của lớp Danton được đóng sau đó. ( như vậy Pháp có tổng số 10 chiếc thiết giáp hạm bị lỗi thời khi còn chưa được hoàn thành)
Nước Đức chỉ khởi đầu để xây dựng một lực lượng hải quân vào đầu những năm 1890 nhưng đến năm 1905 nước này hết sức hăng hái tham gia vào một cuộc chạy đua vũ trang với nước Anh mà cuối cùng (cuộc chạy đua này) là một trong những nguyên nhân gây ra Chiến tranh thế giới I. Những chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnought của người Đức là những chiếc lớp Brandenburg, chúng được hạ thủy vào năm 1890. Vào năm 1905, khoảng 19 thiết giáp hạm đã hoàn thành hoặc tiếp tục được chế tạo, nhờ vào việc cho phép việc gia tăng mạnh trong chi tiêu của hải quân ở các điều luật Hải quân năm 1898 và năm 1900. Sự gia tăng là do sự xác định của trưởng hải quân Đức Alfred von Tirpitz và ý tưởng này ngày càng tăng cùng với sự cạnh tranh về mặt đối thủ tầm cỡ quốc gia với Vương quốc Anh. Bên cạnh lớp Brandenburg, các thiết giáp hạm tiền Dreadnought của Đức còn bao gồm các tàu lớp Kaiser Friedrich III, Wittelsbach, Và Braunschweig mà đỉnh cao là lớp Deutschland, phần lớn các tầu của lớp này đã phục vụ trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới. Nhìn chung, các tàu của Đức được cho là yếu hơn các tầu tương đương của Anh nhưng chúng không kém phần tinh tế
Người Nga cũng tham gia vào một chương trình mở rộng hải quân trong những năm 1890; một trong những mục tiêu chính của Nga là để duy trì lợi ích của mình chống lại việc người Nhật Bản mở rộng ảnh hưởng ở vùng Viễn Đông. Các chiếc lớp Petropavlovsk được bắt đầu đóng vào năm 1892 sau khi người Anh đóng lớp Royal Sovereign; các con tàu được đóng về sau cho thấy ảnh hưởng nhiều hơn của các thiết kế của người Pháp, chẳng hạn như lớp Borodino. Sự yếu kém của ngành đóng tàu Nga được thể hiện ở chỗ rất nhiều tàu của nước Nga được chế tạo ở nước ngoài; các tàu tốt nhất, như lớp Retvizan, được đóng chủ yếu ở Mỹ. Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905 là một thảm họa cho các thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought của Nga; trong số 15 thiết giáp hạm kể từ khi chiếc Petropavlovsk được hoàn thành, Mười một chiếc bị đánh chìm hoặc bị bắt trong chiến tranh. Một trong số đó, chiếc chiến hạm nổi tiếng Potemkin đã làm binh biến và bị đánh đắm, tuy nhiên nó đã được trục lên và lại tham gia vào quân ngũ. Sau chiến tranh Nga ?” Nhật, người Nga đã hoàn tất bốn chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnought nữa vào năm 1905.
Giữa năm 1893 và 1904, Italy hạ thủy tám chiếc thiết giáp hạm, hai chiếc của lớp sau có tốc độ nhanh một cách đáng kể, mặc dù lớp Regina Margherita được bảo vệ kém và lớp Regina Elena được vũ trang yếu. Về một số khía cạnh những tàu này thể hiện khái niệm của các tuần dương hạm. Đế quốc Áo-Hung cũng cho thấy một sự phục hưng của hải quân trong những năm 1890, mặc dù trong chín trong số thiết giáp hạm tiền Dreadnought được đặt hàng thì chỉ có ba trong số chúng là ra đời trước chiếc Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght, những chiếc còn lại đã bị lạc hậu.
Sự phát triển của thiết giáp hạm tiền Dreadnought ở Hoa kỳ và khu vực Thái Bình Dương
Hoa Kỳ bắt đầu đóng chiếc thiết giáp hạm đầu tiên của nó vào năm 1891. Những con tàu này là loại thiết giáp hạm tầm ngắn bảo vệ bờ biển tương tự như chiếc Hood của người Anh ngoại trừ sự cải tiến là việc sử dụng khẩu đội pháo trung gian có kích cỡ 8-inch. Hải quân Hoa Kỳ tiếp tục đóng tàu có tầm tương đối tầm ngắn và kém khả năng trong vùng biển dữ, cho đến khi lớp Virginia được hạ thủy trong những năm 1901-1902. Tuy nhiên, đó là những con tàu đầu tiên đảm bảo cho ưu thế của hải quân Mỹ chống lại hạm đội lạc hậu của người Tây Ban Nha cổ – (người TBN) không có tàu tiền Dreadnought trong hạm đội của họ – trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, đáng chú ý nhất là Trận Santiago de Cuba. Chiếc Virginia và hai chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnounght sau nó được hoàn thành sau sự ra đời của chiếc thiết giáp hạm lớp Dreadnounght và sau khi bắt đầu việc thiết kế các tàu lớp Dreadnought của USN. Hạm đội Great White của Hoa kỳ có 6 thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought có khả năng đi vòng quanh thế giới kể từ 16 tháng 12 năm 1907, đến 22 tháng 2 năm 1909.
Nhật Bản đã tham gia vào cả hai cuộc hải chiến hải lớn của thời đại Thiết giáp hạm tiền Dreadnought. Những chiếc thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought đầu tiên của người Nhật là các chiếc lớp Fujic, vẫn còn đang được đóng tại các ụ tầu khi xảy ra Chiến tranh Trung-Nhật năm 1894-1895, người Nhật Bản chỉ dùng các tuần dương hạm bọc thép và tàu tuần dương có gia cố để đánh bại Hạm đội Bắc Dương của người Trung Quốc, gồm một