18/06/2018, 16:56

Lịch sử quan hệ quốc tế cổ đại (bài 2)

PHẦN 2: LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ TRUNG ĐÔNG CỔ ĐẠI Nguyễn Huỳnh Đăng Khoa 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI TRUNG ĐÔNG TỪ THẾ KỈ XXX – IV TRƯỚC CÔNG NGUYÊN 1.1 Điều kiện tự nhiên và dân cư ở Trung Đông. Trung Đông ...

PHẦN 2: LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ TRUNG ĐÔNG CỔ ĐẠI

near-east-empires.jpg

Nguyễn Huỳnh Đăng Khoa

1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI TRUNG ĐÔNG  TỪ THẾ KỈ XXX – IV TRƯỚC CÔNG NGUYÊN

1.1 Điều kiện tự nhiên và dân cư ở Trung Đông.

Trung Đông là một khái niệm dùng để  chỉ một khu vực tiếp giáp ba châu lục Á, Âu và Phi, tuy nhiên đây là một khái niệm tương đối dùng để chỉ một khu vực địa lý, văn hóa có nét tương đồng nhất định. Trung Đông là một khái niệm bắt đầu từ thời trung đại, tức là từ năm 476, khi mà người phương Tây – La Mã dùng để chỉ các nước nằm ở bờ Đông Địa Trung Hải, và xem đó là vùng đệm để đi sang phương Đông cũng như Bắc Phi hay Ả Rập. Đến thời kì cận, dưới tác động của Kito giáo và các cuộc thập tự chinh, cụm từ Trung Đông được các nước phong kiến châu Âu dùng như là một vùng của những kẻ ngoại đạo, và đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ nhất, khái niệm Trung Đông được dùng để chỉ một khu vực quốc tế nhưng chỉ là giới hạn giữa Thổ Nhĩ Kì và vùng Viễn Đông. Đến cuối Đệ nhị thế chiến, Trung Đông trở thành danh từ quốc tế để chỉ một vùng lãnh thổ từ Nam Á đến Bắc Phi. Và đến ngày nay Trung Đông là khái niệm dùng để chỉ khu vực tiếp giáp giữa châu Á, châu Phi, và châu Âu, với diện tích gần 10 triệu km2, trên 300 triệu dân và 16 quốc gia: Ai Cập, Libya, Kuwait, Bahran, Quatar, Oman, Ả Rập Xê út, các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Yemen, Isreal, Jordan, Syria, Irag, Iran và Thổ Nhĩ Kì. Như vậy nghiên cứu về lịch sử quan hệ quốc tế ở Trung Đông thời kì cổ đại sẽ tập trung vào những mối quan hệ giữa các quốc gia trong phạm vi với khái niệm Trung Đông ngày nay nhưng ở thời kì cổ đại, và giữa khu vực này với các quốc gia, khu vực cùng thời kì lịch sử.

Nhưng trước khi đi vào nghiên cứu về lịch sử quan hệ quốc tế ở Trung Đông cổ đại thì chắc hẳn chúng ta cần phải thấy được những điều kiện tự nhiên tại vùng đất này, một trong điều tiên quyết và có vai trò quyết định khi nghiên cứu một vấn đề lịch sử, mà cụ thể ở đây là quan hệ quốc tế Trung Đông cổ đại.

Do vị trí đặc biệt của mình Trung Đông có nhiều loại địa hình khác nhau, nhưng nhìn chung vẫn có mấy dạng chính sau. Giống như mọi khu vực ở phương Đông, Trung Đông luôn có những con sông lớn, mà sau này tại ven lưu vực của chúng đã xuất hiện những nền văn minh lớn như Ai Cập hay Lưỡng Hà, đó là các con sông như Nin, Tigris, Ofrat, hay những con sông nhỏ như sông Gioocdan, Litani. Gắn liền với những con sông chắc hẳn là những đồng bằng cực kì rộng lớn và màu mỡ, có vai trò như là một món quà, một tặng phẩm cho các nền văn minh cổ đại. Nếu nhìn từ góc độ địa lí đã phân tích bên trên chắc hẳn Trung Đông cổ đại mang những nét tương đồng với lịch sử phương Đông, đó là việc hình thành nên các quốc gia cổ đại trên cơ sở các con sông lớn, nông nghiệp, thủy lợi. Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên ở Trung Đông không hẳn là vậy, khu vực đặc biệt này còn có một thế mở, do việc nằm giữa vùng tiếp giáp ba châu lục lớn với những nền văn minh cổ đại rực rỡ, Trung Đông sớm trở thành một nơi mà các thương nhân, cụ thể hơn là tiếp xúc giao lưu mạnh mẽ nhất, ở đây tôi gọi là vùng nối. Cùng với đó, với việc tiếp giáp với với các biển, vịnh lớn như Địa Trung Hải, Caxpi, vịnh Ba Tư, Hồng Hải, nên không khỏi ngạc nhiên khi về mặt địa lí Trung Đông có diện tích lớn các vùng sa mạc do ảnh hưởng của biển, cùng với đó là khí hậu nóng, khô cằn vầ vô cùng khắc nghiệt. Như vậy về mặt địa lí có thể khái quát như sau, Trung Đông có nhiều sông lớn, đồng bằng ở trung tâm và ven biển, đa phần vẫn là sa mạc, cao nguyên, và đồi núi. Chính yếu tố tự nhiên làm cho Trung Đông mang những nét tương đồng với cả châu Á và châu Âu, đặc biệt là trong việc hình thành những nền văn minh, yếu tố văn hóa và cơ sở kinh tế, dân cư.

Nói về dân cư và chủng tộc, Trung Đông có hai đại chủng lớn là Mongoloit và Oropoit, sau đó được phân chia làm các dân tộc khác nhau, như người Thổ, người Do Thái, người Ả Rập, người Nilote,.. Đây là những chủ thể chính của các nền văn minh cổ đại ở Trung Đông.

Tóm lại, về điều kiện tự nhiên, Trung Đông là khu vực đặc biệt mang những nét đặc trưng của phương Đông và phương Tây, là vùng đất mở, với chủ thể là các dân tộc thuộc hai đại chủng lớn Mongoloit và Oropoit. Chính những điều kiện tự nhiên như vậy đã tạo nên những cơ sở hình thành và tạo nên đặc thù của lịch sử Trung Đông, đặc biệt là quan hệ quốc tế.

1.2 Khái quát quá trình hình thành các quốc gia cổ đại Trung Đông – chủ thể cơ bản của quan hệ quốc.

Theo các tài liệu khảo cổ học, Trung Đông được xem là một trong những nơi bắt nguồn, cái nôi của nhân loại, và giai đoạn tiền sử ở khu vực này cũng bắt đầu từ rất sớm, ngay khoảng 800.000 năm trước công nguyên với các di chỉ hóa thạch người cổ đại ở Bắc Phi và Anatolia. Trải qua nhiều giai đoạn tiến hóa, đặc biệt là về công cụ lao động, từ 1800 năm trước công nguyên tại Trung Đông đã xuất hiện tổ chức cộng đồng Thị tộc mẫu hệ. Trong thời gian này, cũng giống như các thị tộc khác, cư dân Trung Đông chủ yếu sử dụng công cụ đá thô sơ, kinh tế hái lượm là chủ yếu. Khi bước sang giai đoạn đá mới, đầu thời kì kim khí vào khoảng 9000 – 4000 năm trước công nguyên, với việc phát triển không ngừng của công cụ lao động, đặc biệt là sự xuất hiện của đồng thau ngay từ rất sớm từ các mỏ lộ thiên đã dẫn đến một cuộc cách mạng về công cụ sản xuất, điều kiện cơ bản dẫn đến phân công lao động trong xã hội Trung Đông bấy giờ. Với cung tên, sự xuất hiện của hình thức săn bắn thay cho săn bắt, trồng trọt dần thay thế cho hái lượm, và cả chăn nuôi gia súc, tất cả đã đòi hỏi một vai trò ngày càng lớn của sức lao động của người đàn ông, và vai trò của họ trong nền kinh tế. Như vậy, chính những điều kiện trên đã làm xã hội cổ đại Trung Đông mẫu hệ chuyển dần và hoàn toàn sang phụ hệ, mà ta có thể gọi giai đoạn này là Thị tộc Phụ quyền. Bên cạnh những Thị tộc như vậy, các bộ lạc và liên minh các bộ lạc gần gũi nhau cũng được hình thành. Và cũng vào lúc này ở Trung Đông luôn diễn ra các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc nhưng chưa là quan hệ quốc tế, vì chủ thể của quan hệ quốc tế chưa xuất hiện – đó là các quốc gia. Mà chỉ khi nền kinh tế với sự tiếp sức của quá trình phát triển công cụ lao động, phân công lao động, các ngành nghề tách biệt ra nông nghiệp và các ngành nghề mới xuất hiện, đã kéo theo chế độ tư hữu hình thành, cuối cùng là sự phân hóa xã hội sâu sắc. Cuối cùng với việc các tù trưởng, tộc trưởng, những người có quyền thế tước đoạt của cải về tay mình đã đẩy mạnh quá trình tư hữu tư liệu sản xuất, cơ sở hạ tầng xã hội của chế độ cộng sản nguyên thủy dần không còn phù hợp nữa. Đến khoảng thiên niên kỉ III trước công nguyên, công xã nguyên thủy tan ra và nhường chỗ cho một xã hội mới, xã hội chiếm hữu nô lệ, và bắt đầu hình thành nên các nhà nước sơ kì đầu tiên, bắt đầu xuất hiện các chủ thể của quan hệ quốc tế Trung Đông cổ đại.

Có thể điểm quan những quốc gia tiêu biểu thời sơ sử như sau. Ra đời sớm nhất chính là Ai Cập cổ đại hình thành từ khoảng thiên niên kỉ III trước công nguyên trải qua năm thời kì đó là: tảo kì vương quốc (3200 – 2686 trước công nguyên), cổ vương quốc (2686 – 2133 trước công nguyên) ,thời kì phân liệt và trung vương quốc (2133 – 1786 trước công nguyên), giai đoạn chuyển tiếp và tân vương quốc (1786 – 1085 trước công nguyên), hậu kì Ai Cập (1085 – 526 trước công nguyên) sau các thời kì phân liệt đến năm 30 trước ông nguyên Ai Cập bị La Mã thôn tín.

Cũng khoảng thiên niên kỉ III trước công nguyên, tại lưu vực hai con sông lớn là Tigris và Ofrat hình thành nên các thành bang của người Ur, Eridu, Uruk, Umma, Larsa, Lagash, Nuppur, Kish,… Đến khoảng năm 2200 trước công nguyên, quốc gia của người Xiri, và các quốc gia Nam Địa Trung Hải hợp lại thành Lưỡng Hà với trung tâm là Irac gày nay. Từ 2200 trước công nguyên đến khoảng 1900 trước công nguyên vùng Lưỡng Hà lần lượt do các các vương triều của người Xume, Akkad, Ur thay nhau thống trị vùng Lưỡng Hà. Sau đó vùng Lưỡng Hà bị vương triều Babilon cai trị từ 1894 đến 1595 trước công nguyên.

Cũng từ thiên niên kỉ III trước công nguyên tại phía Bắc Lưỡng Hà, bờ tây sông Tigris hình thành nên thành bang Assyria chuyên chế nô lệ do người Semites làm chủ. Lịch sử Assyria được chia làm ba giai đoạn: cổ Assyria (thiên niên kỉ III – thế kỉ XVI trước công nguyên), trung Assyria (từ thế kỉ XV – thế kỉ IX trước công nguyên), tân Assyria từ (thế kỉ VIII – thế kỉ VII trước công nguyên).

Sau khi Assyria bị diệt vong, ở vùng Trung Đông nổi lên hai đế quốc là vương quốc Chaldans (Tân Babilon) và Media, nhanh chóng chiếm quyền làm chủ Nam Lưỡng Hà, Syria, Isreal, và phần lớn Phonicia. Nhưng đến thời vua Nebuchadnezzar của Tân Babilon thông qua việc kết hôn với công chúa Media đã gộp cả Media vào vương quốc của mình. Vương quốc Tân Babilon chỉ tồn tại trong thời gian từ năm 626 trước công nguyên đến năm 539 trước công nguyên.

Phía Đông Tiểu Á, trên cao nguyên Phonecia, nhưng ban đầu là ở thượng du Haris. Mặc dù do điều kiện địa lí khắc nghiệt, ít mưa và trong thiên niên kỉ III trước công nguyên cư dân Hittite chủ yếu vẫn còn trong giai đoạn tan ra của chế độ bộ lạc thị tộc. Đến 2000 năm trước công nguyên với tác động kinh tế từ các thương nhân Assyria và ảnh hưởng ngữ hệ Ấn Âu, các thành bang của người Hittite đã ra đời, bắt đầu lịch sử nhà nước của cư dân nơi đây. Từ thế kỉ XVI trước công nguyên Hittite trở thành một đế quốc, luôn thi hành chính sách bành trước ra các vùng lân cận như Ai Cập, Assyria. Tuuy nhiên, do theo đuổi những cuộc chiến tranh xâm lược lâu dài, đế quốc này nhanh chóng suy yếu, và bị xâm lược bởi các thế lực bên ngoài nên nhanh chóng kết thúc vào thế kỉ VIII trước công nguyên, và bị Assyria thôn tính.

Cùng lúc này trên vùng đất dài và hẹp ở bờ biển Đông Bắc Địa Trung Hải, Đông dãy Lebanon, phía Bắc Palestine, Nam Tiểu Á, và nằm trên con đường mậu dịch trên bộ và trên biển cổ đại, đã xuất hiện các quốc gia của người Simites như Byblos, Ugarit, Xidon, Tyre, người Hi Lạp gọi là Phoenecia với niên đại khoảng 3000 – 2000 năm trước công nguyên. Đến thế kỉ VIII trước công nguyên chịu chung số phận với Hittite, Phoenecia bị đế quốc Assyria thôn tính. Vai trò quan trọng của Phoenecia vê quan hệ quốc tế là vùng có vị trí chiến lược nhất về giao lưu, buôn bán và truyền bá các nền văn hóa bên cạnh những thành tựu  mà đặc biệt là bộ kí tự 22 chữ và hệ thống đánh vần.

Một quốc gia hình thành tại giai đoạn này ở Trung Đông chính là Palestine cổ đại. Quốc gia này nằm giữa Ai Cập và sa mạc Syria, phía Tây giáp với Địa Trung Hải, phần lãnh thổ quốc gia này bao gồm cả biển chết và sông Jordan. Thiên niên kỉ II trước công nguyên chế độ thị tộc của người Hebrew – chủ nhân chính vùng đất Palestine đã tan rã, xã hội bất đầu có sự phân chia giai cấp, quốc gia bắt đầu hình thành, với phía bắc là quốc gia Isreal, phía nam có vương quốc của người Do Thái, nhưng đến cuối năm 2000 trước công nguyên một tộc người trên biển là Philistine đến, chiếm và lập nên vương quốc của họ, theo người Hy Lạp gọi đây là Palestine. Trong thời kì dài từ năm 1000 đến 960 trước công nguyên người Do Thái, Isreal, Philistine tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, cuối cùng hình thành nên quốc gia Isreal – Do Thái lấy trung tâm Jerusalem làm thủ đô và trung tâm Do Thái giáo. Lịch sử quốc gia này cũng không mấy yên bình, từ thế kỉ XIX đến VIII là nội chiến giữa Isreal và Do Thái, từ thế kỉ IV bị Macdonia, Ptolemy, Seleucus xâm chiếm. Cuối cùng đến năm 63 trước công nguyên Palestine trở thành một tỉnh của La Mã.

Dường như suốt một thời kì dài từ thiên niên kỉ III đến thế kỉ VII trước công nguyên Assyria là một trong những đế quốc hùng mạnh và có ảnh hưởng nhất ở Trung Đông cổ đại, vì vậy trong giai đoạn suy yếu và dân tan rã của nó đã mở đầu cho sự xuất hiện những đế quốc mới như Lydia, Média. Một quốc gia được nhắc đến ở đây chính là đế quốc Ba Tư. Từ thế kỉ VII trước công nguyên Média đã vươn lên mạnh mẽ tại vùng cao nguyên Iran, từ núi Hendu Kosh đến Zagros, cả những vùng đất ven Lý Hải, vịnh Ba Tư. Đến thế kỉ VI, 6 bộ lạc người Ba Tư đã liên minh dưới sự lãnh đạo của Cyrue nhanh chống đánh bại Média, thành lập nên vương quốc Ba Tư (Achearnenids). Trong vòng chưa đầy một thế kỉ Ba Tư làm chủ hoàn toàn tiểu Á, đến thời vua Darius Ba Tư đã bành trước ra khắp Trung Đông, châu Phi và các thành bang Hy Lạp. Đến năm 330 đế quốc Ba Tư bị Macedonia xâm chiếm và đi vào diệt vong. Nhưng có thể nói lịch sử quan hệ quốc tế dưới thời đế quốc Ba Tư đã vượt qua phạm vi của một khu vực.

1.3 Đặc điểm chung của các quốc gia cổ đại Trông Đông.

Chính điều kiện tự nhiên khiến Trung Đông mang những đặc điểm khác biệt, tuy có phần tương đồng với cả châu Âu – thế giới Hy Lạp cổ đại hay kể cả là phương Đông. Mang trong mình cả vùng địa lý mở, với hàng loạt các con sông lớn nhỏ, kể cả cao nguyên, sa mạc và các đồng bằng ở trung tâm cũng như là vùng ven Caxpi hay Địa Trung Hải. Do đó, các quốc gia cổ đại – sơ kì tại Trung Đông hình thành với một dạng hình riêng là như vậy.

Những đặc điểm chung được nhắc đến ở đây phải đi từ các cơ sở hình thành của các quốc gia sơ kì Trung Đông, như đã đề cập ở phần trước, cũng như mọi nền văn minh sớm của nhân loại, vào thiên niên kỉ III trước công nguyên, hầu hết chế độ tư hữu, phân công lao động đã làm cho chế độ thị tộc dần tan rã, và nhường chỗ cho một hình thức xã hội mới – chế độ chiếm hữu nô lệ. Tóm lại về mặt thời gian, có thể thấy từ giữa cho đến cuối thiên niên kỉ III trước công nguyên, những quốc gia lớn nhỏ ở Trung Đông lần lượt ra đời, mà có hai dạng chính, đó là các quốc gia theo kiểu một nhà nước lớn như Ai Cập hay các thành bang nhỏ ở vùng Lưỡng Hà, hay Phoenecia.

Một đặc điểm thứ hai, đó là về kinh tế. Nhắc đến yếu tố kinh tế của Trung Đông cổ đại phải nhìn thấy được những tác động to lớn từ vị trí và điều kiện địa lí của khu vực này mang lại. Một vùng đất mở khi mà tiếp giáp cả ba châu lục, Á, Âu, Phi; cùng với hệ thống sông lớn như Nin hai Tigris, và việc tiếp giáp hầu như là tất cả các vùng, vịnh biển quan trọng ở thời kì cổ đại tại châu Âu hay vùng Viễn Đông (Ấn Độ). Cũng như ở phần trước, những con sông lớn và trải dài hàng nghìn kilômet như Nin qua Ai Cập; Ofrat, Tigris qua Lưỡng Hà, đã bồi đắp nên những đồng bằng vô cùng rộng lớn và màu mỡ, là cơ sở của một nền nông nghiệp thủy lợi mang phương hướng phương Đông. Nếu như vị trí mở và tiếp giáp các biển, vịnh khiến cho nền kinh tế thương nghiệp khu vực này sớm phát triển, cùng với nông nghiệp thủy lợi xuất phát từ các con sông và đồng bằng do chúng bồi đắp, tất cả tạo nên một đặc điểm thú vị về kinh tế ở Trung Đông cổ đại, đó chính là xuất hiện cả nông nghiệp thủy lợi và kinh tế thương nghiệp. Do đó, không khỏi ngạc nhiên khi bắt gặp tại Trung Đông cổ đại luôn có những nhà nước tồn tại dựa trên kinh tế trồng trọt, chăn nuôi và thủy lợi là chính, nhưng vẫn có những nhà nước nagy từ cơ sở hình thành và tồn tại của nó đã gắn liều với việc buôn bán như đế quốc Hittite chẳng hạn. Điều này khiến ta liên tưởng tới viễn cảnh tương tự ở thế giới Hy Lạp cổ đại, khi so sánh đặc điểm kinh tế của hai thành bang tiêu biểu bấy giờ là Athens và Sparta, rõ ràng mặc dù đặc điển chung của Hy Lạp hay kinh tế phương Tây là thương nghiệp, như Sparta là một ví dụ cho thành bang nông nghiệp. Tóm lại, đặc điểm chung về kinh tế của Trung Đông cổ đại chính là sự đan xen và hào quyện giữa kinh tế nông nghiệp thủy lợi và kinh tế thương nghiệp, chúng đối xứng với nhau không chỉ vì diện tích lãnh thổ mà còn là về lịch sử hình thành, phát triển của các quốc gia sơ kì tại nơi đây. Cuối cùng, tại các quốc gia cổ đại Trung Đông kinh tế không phải là tập trung trong các công xã nông thôn mà là tại các đền thờ thần, hay gọi là kinh tế đền thờ, bởi vì lúc này tôn giáo đóng vai trò quan trọng, nếu không nói là cao nhất, tại các trung tâm tôn giáo luôn có cơ sở kinh tế riêng và là cơ sở chủ yếu của cả quốc gia, bởi vì thường kinh đô và các trung tâm này luôn đồng nhất với nhau. Nhìn vào Ai Cập hay là các thành bang Sumer hay bất kì quốc gia Trung Đông cổ đại nào sẽ thấy được.

Có lẽ, xuất phát từ điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế, tuy mỗi quốc gia Trung Đông là khác nhau, nhưng nhìn chung có hai loại nhà nước chính, đó là hình thành các nhà nước cổ đại lớn mang thiên hướng phương Đông như Ai Cập, và các nhà nước nhỏ theo kiểu phương Tây – các thị quốc như thành bang Xume, Akkad, Babilon,… Tuy nhiên, các quốc gia sơ kì dù là theo loại hình nào đi chăng nữa, về ban đầu vẫn là những tiểu quốc đơn lẻ, nhưng  sau quá trình lịch sử lâu dài, với vai trò của những vương triều hùng mạnh, những cuộc chinh phạt dai dẳng, cuối cùng đã dẫn đến việc hình thành nên một quốc gia thống nhất trung ương tập quyền như Ai Cập cổ đại, hay là liên minh các thành bang như là phần còn lại ở Trung Đông, theo kiểu một nhà nước phân quyền.

Mặc dù là kiểu nhà nước nào đi chăng nữa thì chế độ chính trị tồn tại lúc bấy giờ chính là nhà nước chủ nô, với sự thống trị của tầng lớp chủ nô, và kẻ làm ra hầu hết của cải cho xã hội chính là những người nô lệ, và rất khó để xếp chế độ nô lệ lúc bấy giờ ở Trung Đông là theo kiểu phương Tây hay phương Đông nhưng nhìn chung nó biểu hiện và dường như là giao thoa giữa hai vùng với nhau. Thông qua các bộ luật như Hummurabi ở Babilon, giai cấp thống trị dễ dàng bóc lột tầng lớp bị trị, mà cơ sở để họ áp đặt ban đầu là dựa vào yếu tố tôn giáo, nghĩa là thần quyền, về sau mới là sức mạnh quân đội. Đây không chỉ là đặc điểm chính trị – xã hội riêng ở Trung Đông cổ đại, mà hầu như nó phổ biến ở tất cả thế giới bấy giờ.

Đặc điểm quan trọng nữa của các quốc gia Trung Đông cổ đại chính là yếu tố tôn giáo. Hầu như ngay từ thời kì cộng sản nguyên thủy, tại vùng đất này đã xuất hiện những tôn giáo nguyên thủy dưới hình thức Totem giáo hay Bái vật giáo, có nghĩa là các tôn giáo đa thần. Và kể cả ngay sau khi hình thành nên các quốc gia sơ kì thì hình thức tôn giáo trên vẫn được duy trì, một điều đáng lẽ mâu thuẫn ở đây chính là mối quan hệ giữa vương quyền và thần quyền diễn ra như thế nào? Khi chúng ta điều biết rõ để xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền, điều đầu tiên chính là phải thống nhất về mặt tư tưởng, mà ở thời kì cổ đại không gì khác chính là cần một tôn giáo độc thần. Đúng vậy, đa thần giáo chỉ là hình thức ban đầu của sự chuyển giao từ chế độ cộng sản nguyên thủy sang một xã hội có nhà nước. Trong thời gian dài, để củng cố uy quyền cho các vị vua, độc thần giáo dần ra đời. Đầu tiên kể đến Ai Cập, sau cuộc cải cách của Amenkhotep IV vào năm 1400 trước công nguyên, với việc đề ra việc thờ một vị thần mặt trời duy nhất là Aton, “Thần Atôn chính là Pharaông đã được thần thánh hóa”[1]. Đối với thế giới Trung Đông ngoài Ai Cập, có lẽ Do Thái giáo là tôn giáo độc thần sớm nhất và duy nhất trong thế giới cổ đại. Nó gắn liên với việc di cư của người Ixrean vào vùng Lưỡng Hà từ thế kỉ XIII trước công nguyên, là môt bộ phận của việc thờ thần Abraham. Do Thái giáo là tôn giáo độc thần ảnh hưởng trực tiếp đến các quốc gia thành bang Ixrean – Do Thái mà cả các nước Tây Á cổ đại, và có thể nói Do Thái giáo hay “Chúa cứu thế là sản phẩm của lịch sử”[2]. Tóm lại, từ đa thần giáo, dần dân với sự phát triển của chế độ nhà nước và phục vụ cho vương quyền, những tôn giáo độc thần đã ra đời từ những cơ sở bái vật giáo hay Totem giáo trước đây, cuối cùng tụ chung lại vương quyền gắn với thần quyền, tôn giáo trở thành một công cụ phục vụ cho chính trị.

Đặc điểm cuối cùng, cũng là đặc điểm quan trọng trong bài viết này, không gì khác chính là động cơ, và chính sách của các quốc gia cổ đại ở Trung Đông. Nói ngắn gọn, các quốc gia cổ đại, với sự phát triển nhanh chóng kéo theo là nhu cầu nguyên liệu và nô lệ, chúng buộc phải tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược. Nhưng trước khi hùng mạnh, với vai trò của một nhóm các bộ lạc hay thành bang đã đứng lên thống nhất các tiểu quốc để xây dựng nên các nhà nước thống nhất hay các liên bang các quốc gia thành thị. Cuối cùng, xen lẫn với chính sách bành trước ra bên ngoài là sự phân liệt, thống nhất trong nội bộ từng quốc gia sơ kì ở Trung Đông.

Trên đây là toàn bộ những đặc điểm cơ bản nhất của các quốc gia Trung Đông cổ đại, chính những đặc điểm này sẽ tạo nên những quan hệ quốc tế với những đặc điểm riêng biệt, mà chủ thể chính đó là các quốc gia sơ kì Trung Đông giai đoạn này.

2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ Ở TRUNG ĐÔNG THỜI KÌ CỔ ĐẠI

2.1 Phân kì lịch sử quan hệ quốc tế ở Trung Đông thời kì cổ đại.

Có thể nói, việc phân kì lịch sử quan hệ quốc tế thời kì cổ đại nói chung và lịch sử quan hệ quốc tế ở Trung Đông hoàn toàn khó khăn, vì nếu xét về đặc điểm quan hệ quốc tế thời kì này chủ yếu là chiến tranh và xung đột, tuy có sự giao thoa và giao lưu kinh tế văn hóa nhưng chỉ là thứ yếu. Do đó, tiêu chí hay đặc điểm để phân kì rõ ràng lịch sử quan hệ quốc tế ở Trung Đông bấy giờ là dựa vào vai trò và đóng góp của một đế quốc chi phối trong một thời gian nhất định, chẳng hạn thời kì Ba Tư ở thế kỉ VI trước công nguyên đã đưa quan hệ quốc tế vượt ra hoàn toàn phạm vi khu vực, tác động ra bên ngoài với cuộc chiến tiêu biểu Poleponeus. Tóm lại có thể chia ra mấy thời kì sau đây.

Thời kì thứ nhất từ khoảng thiên niên kỉ III trước công nguyên tới giữa thế kỉ VI trước công nguyên: là thời kì hình thành nên các quốc gia cổ đại lớn nhỏ nhưng phân tán sâu sắc, đồng thời diễn ra quá trình thống nhất, liên minh, xâm lược và bành trướng chủ yếu trong khu vực Trung Đông, xảy ra trên các mặt kinh tế, chính trị, và văn hóa. Thời kì này chủ yếu là quan hệ trong khu vực hơn là ra bên ngoài.

Thời kì thứ hai từ giữa thế kỉ VI trước công nguyên đến giữa thế kỉ IV trước công nguyên, gắn liền với sự ra đời và diệt vong của đế quốc Ba Tư. Trong thời kì này quan hệ quốc tế diễn ra trên hai mặt rõ ràng hơn, là giữa các nước trong khu vực và giữa Trung Đông với các thành bang Hy Lạp, với các nước Viễn Đông và trên con đường thương mại qua khu vực này.

Việc phân kì trên tuy chưa thật sự chính xác hoàn toàn nhưng mỗi thời kì được phân chia xuất phát từ những đặc điểm quan hệ quốc tế của từng thời kì đó, trong những phần sau sẽ làm rõ hơn.

Tuy nhiên nếu trình bày lịch sử quan hệ quốc tế theo sự phân kì bên trên hoàn toàn khó khăn, bởi lẽ chính tại Trung Đông như phân tích ở chương I chúng t thấy, nó được chia thành hai vùng khác biệt nhau, đó là thế giới của Ai Cập và thế giới các nước Tây Á. Như vậy, trong chương này chúng ta sẽ trình bày quan hệ quốc tế Trung Đông cổ đại theo phân kì và theo hai vùng cụ thể như trên.

2.2 Quan hệ chính trị – xã hội và các cuộc chiến tranh tiêu biểu.

Nhắc đến quan hệ quốc tế thời kì cổ đại, hầu như tại tất cả các khu vực đều xảy rra một tình trạng chung đó là bùng nổ hàng loạt các cuộc chiến tranh xâm lược, bành trướng, thay nhau thống trị một vùng địa lý. Quan hệ quốc tế ở Trung Đông cổ đại cũng nằm trong đặc điểm chung đó, nhưng mối quan hệ này chỉ được xem là chủ đạo chứ không phải là duy nhất, bởi vì bên cạnh đó còn có các quan hệ về kinh tế, văn hóa.

Trung Đông được xem là một khu vực có mối quan hệ tương đối phức tạp, bởi lẽ nó không đồng điệu như các thành bang Hy Lạp, các quốc gia sơ kì Trung Đông ngay từ những điều kiện tự nhiên, cơ sở hình thành và phát triển từng đất nước đã chia rõ làm hai, một kiểu nghiên hẳn về đặc điểm nhà nước phương Đông, một nghiên về đặc điểm của phương Tây, và kể cả một sô thành bang lai tạo hai đặc điểm trên. Do đó việc nghiên cứu về quan hệ chính trị cũng khó khăn, nhưng dưới đây sẽ trình bày một số mối quan hệ chính trị, các cuộc chiến tranh tiêu biểu nhất, thể hiện đầy đủ đặc điểm quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này theo phân kì lịch sử quan hệ quốc tế và hai khu vực khác biệt nhau tại Trung Đông.

2.2.1 Quá trình thống nhất, phân liệt Ai Cập và bành trướng sang Tiểu Á.

Ancient-egypt-map.jpg

Quá trình thống nhất và phân liệt Ai Cập là quá trình tiêu biểu nhất cho mối quan hệ giữa các tiểu quốc thời kì này.

Trước thời Tảo kì Ai Cập cổ đại, trên lưu vực sông Nile đã xuất hiện hàng chục bộ lạc lớn nhỏ trải dà từ miền Nam ra miền Bắc, chính xác hơn là có khoảng 40 bộ lạc sau này trở thành các tiểu quốc luôn luôn tranh giành ảnh hưởng với nhau. Cụ thể có hai vương triều hình thành trước giai đoạn Tảo kì, đó chính là Hạ Ai Cập ở vùng đồng bằng phía Bắc sông Nile, Thượng Ai Cập ở phía Nam sông Nile đến vùng Syene. Giữa thượng và hạ Ai Cập luôn xảy ra chiến tranh và xung đột trong thời gian dài, mãi đến khaongr năm 3100 vua Mina của Thượng Ai Cập đánh bại Hạ Ai Cập và xây dựng nên một quốc gia thống nhất sau hàng ngàn năm phân liệt. Như vậy mối quan hệ giữa Thượng và Hạ Ai Cập chính là quá trình xung đột lẫn nhau.

Tuy nhiên sau 600 năm thống nhất các vương triều lại một lần nữa xung đột và mâu thuẫn lẫn nhau. Thời kì Trung vương quốc cũng là một thời kì mà Ai Cập bị phân liệt mạnh mẽ, mãi đến năm 2222 tức là từ vương triều thứ X Ai Cập phân liệt lại một lần nữa thống nhất. Công cuộc thống nhất là một cuộc chiến tranh dài lâu giữa hai thế lực của Heralepoit và Tebo, cuối cùng Tebo giành thắng lợi do sự ủng hộ mạnh mẽ của các tiểu quốc phía Nam. Cũng từ khi mà Ai Cập thống nhất và được trị vì bởi vương triều X, từ năm 2000 trước công nguyên Ai Cập thống nhất lần lượt xâm chiếm ra các vùng đất bên ngoài, đó là quá trình mở rộng lãnh thổ quy mô lớn đầu tiên, mà chủ yếu là sang Nubi và Vadi Hanphra, tức là vùng phía Nam sông Nin.

Từ năm 1867 – 1849 trước công nguyên Ai Cập bành trướng đến tận Siri và Palestine, và biến hai vùng đất này thành các tỉnh của mình với sự cai trị trực tiếp từ các quan Ai Cập.

Tuy nhiên đến khoảng năm 1786 trờ đi Ai Cập chứa đựng nhiều mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ, nên hàng loạt các cuộc khởi nghĩa bùng nổ, khiến chính quyền trung ương suy yếu rõ rệt đã tạo cơ hội cho người Hykos xâm chiếm và cai trị. Sự thống trị gần 200 năm từ năm 1710 – 1560 trước công nguyên của người Hykos khiến cho xã hội bấy giờ chứa đựng nhiều mâu thuẫn, mà đặc biệt là mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị trước kia với kẻ xâm lược. Chính việc bị xâm lược đã tạo nên mối quan hệ mới ở Ai Cập và các vùng lân cận lúc bấy giờ.

Cụ thể chính là, tại vùng Thượng Ai Cập lực lượng người Hykos rất yếu nên nơi đây là trung tâm chính để các quý tộc chuẩn bị khởi nghĩa. Vị Pharaoh của vương triều XVII ở vùng Thibes có tên là Kamose đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Tiếp nối sự thất bại của Kamos, năm 1570 trước công nguyên đến 1546 trước công nguyên Ahmose I tiếp tục công cuộc chống ngoại xâm. Trong thời gian này, một liên minh giữa lực lượng Ai Cập với người Crete ở Aegean đã đánh bại người Hykos. Cuối năm 1567 Ai Cập được độc lập và thống nhất, bước vào giai đoạn Tân vương quốc từ đó cho đến năm 1085 trước công nguyên. Chính quá trình đấu tranh chống ngoại xâm lâu dài đó, sau khi thống nhất Ai Cập đã hình thành thêm tầng lớp quý tộc quân sự, và cũng tạo ra những điều kiện phát triển cực thịnh giai đoạn tiếp theo.

lib-ushistory-egypt-civilization-8fe7e20e

Như đã nói, chính sự thống nhất và ổn định chính trị, xã hội, và tác động của tầng lớp quý tộc quân sự hiếu chiến, nhu cầu về nguyên liệu và nô lệ đã thúc đẩy Ai Cập thời kì Tân vương quốc phải đẩy mạnh xâm lược ra bên ngoài, không chỉ là ở vùng Palestine mà là sang tận Lưỡng Hà mà quá trình đó là một mối quan hệ mới. Chính ngay từ khi đánh bại người Hykos ra khỏi Ai Cập, tức là năm 1567 trước công nguyên Pharaoh Ahmos I đã cử binh tấn công họ đến tận vùng Palestine và sau ba năm đã chiếm và lần nữa biến Palestine thành tỉnh thuộc Ai Cập. Quá trình bành trướng của Ai Cập cổ đại thời Tân vương quốc thật sự được đẩy mạnh vào thời Thumose III từ năm thế kỉ XVI trước công nguyên đã xâm chiếm thành công Nubia, Libia, Syria. Trước sức mạnh bấy giờ ngay cả Lưỡng Hà phải e dè, chấp nhận cống nạp để tránh phải chiến tranh với Ai Cập. Và từ đầu thế kỉ XVI trước công nguyên cho đến cuối thế kỉ XIV trước công nguyên được gọi là thời kì “đế quốc cổ Ai Cập”[3], hay gọi là thời kì duy trì chính sách đối ngoại bành trướng mạnh mẽ.

Tuy nhiên bước vào cuối thời kì đế quốc của mình vào thế kỉ XIV trước công nguyên Ai Cập lại phải vướng sự cạnh tranh hay gọi là thời kì hùng bá giữa Ai Cập và Hittite. Từ vương triều XIX ở thế kỉ XIV trước công nguyên sau khi chiếm hết các vùng lân cận, và đang ngắm ngầm đến khu vực Tiểu Á nhưng vấp phải sự ảnh hưởng của đế quốc Hittite tại đây. Cuộc chiến tranh giành vùng Tiểu Á giữa Ai Cập và Hittite kéo dài bất phân thắng bại đến khi hòa ước giữa hai nước này được kí kết vào năm 1259 trước công nguyên. Bản hòa ước với nội dung chủ yếu như sau: thứ nhất cả hai bên ngừng chiến tranh và thứ hai là không được xâm chiếm các thuộc địa của nhau. Tuy nhiên hòa ước không chỉ ra một ranh giới phân định rõ ràng nên đôi lúc Hittite đem quân tiến đánh thuộc địa Syria của Ai Cập.

Sau khi cuộc chiến tranh Ai Cập – Hittite kết thúc, Ai Cập bị lủng đoạn bởi các chủ nô giàu lên từ chiến tranh, và các chủ nô khu đền thờ thần Mặt Trời Amon. Mãi đến năm 1085 trước công nguyên các thế lực tại Thebes và Herihor đã lập nên vương triều XXI kết thúc thời kì Tân vương quốc, mở đầu giai đoạn suy thoái hay hậu kì của Ai Cập cổ đại.

Giai đoạn hậu kì chia làm 2 thời kì. Thời kì thứ nhất từ năm 1085 – 525 trước công nguyên, Ai Cập diễn ra sự phân liệt mạnh mẽ, hàng loạt các vương triều của người Libia, Nubia, Piankhi thay nhau nắm quyền, tình trạng này diễn ra đến thế kỉ VII trước công nguyên. Sau đó Ai Cập bị Assyria xâm lược, nhưng không lâu đế quốc Assyria rơi vào khủng hoảng, một lần nữa Ai Cập giành được độc lập xây dựng vương triều thứ 26 từ năm 664 – 525 trước công nguyên, cuối cùng năm 525 trước công nguyên bị Ba Tư xâm lược. Sự thống trị của Ba Tư kéo dài đến năm 404 trước công nguyên. Ai Cập giành được độc lập trong những năm thế kỉ V trước công nguyên lập nên vương triều 28, tuy nhiên đến vương triều 31 tức là từ 334 – 332 trước công nguyên Ba Tư lần nữa đã thống trị Ai Cập. Cuối cùng, lịch sử Ai Cập cổ đại kết thúc trong lúc Ba Tư bị Macedonia đánh bại và cũng bị đế quốc mới nổi ở phương Tây này xâm lược, bị Hy Lạp hóa, cột mốc đánh dấu sự sụp đổ của Ai Cập là vào năm 332 trước công nguyên.

Tóm lại, lịch sử quan hệ quốc tế nhìn từ góc độ Ai Cập, một quốc gia cổ đại điển hình với những nét tương đồng với các quốc gia phương Đông khác đã diễn ra với hai quan hệ chủ yếu: thống nhất các tiểu quốc, phân liệt; xâm lược, bành trướng và bị xâm lược.

2.2.2 Lịch sử quan hệ quốc tế Trung Đông cổ đại giữa các quốc gia sơ kì Tây Á từ thiên niên kỉ III đến thế kỉ IV trước công nguyên.

babylon city.jpg

Tây Á cổ đại cũng như Ai Cập là một trong những cái nôi văn minh của Trung Đông nói riêng và thế giới nói chung. Ngay từ thiên niên kỉ III trước công nguyên tại Tây Á đã hình thành nên các quốc gia đầu tiên, sớm nhất là vùng phía nam Lưỡng Hà. Lịch sửu quan hệ quốc tế của Tây Á có thể bao gồm những cột mốc quan trọng sau đây: năm 2340 quốc gia tập quyền thống nhất đầu tiên – Akkad được xây dựng thống trị toàn bộ khu vực Lưỡng Hà; Từ vương triều người Ur đến vương quốc Babilon (20111 – 1750) chế độ chuyên chính trung ương tập quyền đã tiến tới giai đoạn hoàn bị, xã hội nô lệ đã tiến tới thời kì cực thịnh”[4]; sau khi Babilon sụp đổ thì các thành bang thương nghiệp Hittite, Palestine, vương quốc Do Thái đã nhanh chóng trở thành đế quốc, chi phối toàn bộ Trung Đông; đế quốc Assyria hoàn thành việc bành trướng ra toàn bộ Tây Á trong thế kỉ XVIII trước công nguyên và ảnh hưởng ở đây đến cuối thế kỉ VII trước công nguyên; tiếp đên là sự thống trị Tây Á của vương quốc Babilon mới từ 664 – 528 trước công nguyên; từ 538 – 330 trước công nguyên là sự thống trị của Ba Tư; cuối cùng từ năm 330 Trung Đông rơi vào thời kì Hy Lạp hóa bởi đế quốc Macedonia. Cụ thể sẽ được trình bày dưới đây.

  • Chiến tranh, xung đột giữa các thành bang ở Lưỡng Hà.

Do đặc điểm quan hệ quốc tế thời kì cổ đại ở Trung Đông cực kì phức tạp, diễn ra không phải hoàn toàn trên phạm vi toàn khu vực mà chủ yếu là tại một số vùng nhất định như Bắc Phi với vai trò của Ai Cập cổ đại, vùng Lưỡng Hà với các thành bang thương nghiệp từ Sumer đến tân Babilon, cao nguyên Phoenecia với Hiittie, vương quốc Phoenicia và Do Thái, kể cả Palestine. Cho nên ở đây lấy Lưỡng Hà làm khu vực tạm thời để phân định quan hệ quốc tế về mặt không gian, nhưng mang tính tương đối để nhằm xác định được chủ thể chính – các quốc gia tham gia vào các mối quan hệ chính trị này.

Nhắc đến khu vực Lưỡng Hà cổ đại, có thể thấy từ thiên niên kỉ III trước công nguyên tại vùng Babilon đã xuất hiện các quốc gia thành thị như Ur, Lagash, Larsa, Kish,… Tuy nhiên các thành bang này còn đang trong giai đoạn tan rã của hình thức bộ lạc, dân cư chỉ vài trăm đến nghìn người, diện tích “không rộng quá 100 dặm”[5]. Do nhu cầu nô lệ, ruộng đất và nguồn nước, nên giữa các thành bang thường xảy ra chiến tranh. Năm 2600 trước công nguyên thành bang Kish, Lagash và Umma đã tiến hành cấm cột mốc biên giới để phân định lãnh thổ, đây được xem là một sự kiên ngoại giao đầu tiên trên thế giới. Đồng thời các thành bang trên còn kí một văn bảng quy định về quy tắc và quyền lãnh thổ sau khi phân chia. Mặc dù ba thành bang mạnh nhất Sumer không gây chiến trong thời gian kéo dài, nhưng mọi chuyện đã thay đổi khi nội bộ Lagash lại xảy ra mâu thuẫn gay gắt giữa chủ nô và bình dân. Sau thời gian đấu tranh lâu dài một vị vua mới có tên là Lugal ban hành các cải cách phục vụ cho bình dân từ năm 2378 -2371 trước công nguyên, điều này đe đọa đến quyền lợi của quý tộc. Do đó, bọn quý tộc chủ nô đã liên minh với Umma để lật đổ vương triều mới ở Lagash. Như vậy chiến tranh lần nữa đã nổ ra, cuối cùng Lagash sụp đổ, thế lực Umma ngày một lớn và nhanh chóng chiếm hết Sumer thống trị vùng đất này đến năm 2340 trước công nguyên.

Lúc này ở vùng Akkad một thành bang cùng tên đã nhanh chóng vươn lên thống trị, và chinh phục toàn bộ các thành bang Sumer, kể cả Umma, thống nhất Babilon sau nhiều năm phân liệt. Sau khi thống nhât các bang Sumer, vương triều Akkad tấn công sang Elam – Khuzestan thuộc Iran ngày nay, Đông tiểu Á và Syria. Và cũng như các thành bang Sumer trước đây Akkad cũng nhanh chóng suy yếu do những mâu thuẫn nội bộ và sự tranh quyền giữa các tiểu quốc, tạo điều kiện đến thế kỉ XXI trước công nguyên lại bị chính thuộc địa của mình là Khourites xâm chiếm toàn bộ Sumer. Quan hệ quốc tế tại Sumer thật sự không có điểm gì mới, khi mà thế lực Khourites cực yếu và mỏng ở phía bắc nơi có thành bang Lagash, vì vậy mà thành bang này dễ dàng tránh được sự kiểm soát của Khourites, xây dựng lực lượng nhanh chóng. Nhưng lúc này thành bang mạnh nhất có lẽ là Uruk, năm 2116 trước công nguyên Uruk đã đánh bại người Khourites ra khỏi Sumer, thống nhất vùng Nam Lưỡng Hà, lập nên vương triều thứ ba tại vùng đất này có tến là Ur. Vương triều Ur không mấy quan tâm đến việc xâm lược mà chủ yếu là phát triển kinh tế. Tuy nhiên chính sự mất căng đối trong kinh tế công xã với kinh tế đền thờ và sự bóc lột thậm tệ nô lệ đã làm cho xã hội Ur nhanh chóng đi đến mâu thuẫn gay gắt, chính điều này đã làm Ur suy yếu từ năm 2003 trước công nguyên. Điều không thể tránh khỏi đó là bị các thế lực khác xâm lược, cụ thể là sự xâm chiếm của người Elam và Amorite. Nhưng thật sự từ năm 2024 trước công nguyên Ur đã trở thành thuộc địa của Amorite

Sau khi đánh bại vương triều III Ur, trong khi người Elam chỉ cướp bóc và bỏ đi, trong khi đó nhận thấy những điều kiện thuận lợi ở vùng đất phía nam Lưỡng Hà người Amorite vốn trước đây là những kẻ du mục ở Tiểu Á nhanh chóng rời bỏ lối sống đó để tiến hành xây dựng một quốc gia cố định của họ, đó là vương triều Babilon tại Lưỡng Hà từu năm 1894 – 1585 “là thời kì huy hoàng nhất trong lịch sử Lưỡng Hà”[6]. Tuy nhiên điều đó chỉ thật sự diễn ra dưới thời trị vì của vua Hammurabi. Babilon nhanh chóng bành trướng ra bên ngoài không chỉ bằng quân sự mà còn là ngoại giao. Với sự khôn khéo của vua Hammurabi, Babilon đầu tiên đã chiếm lấy các tiểu quốc đồng tộc, liên minh với Laxa và Meri, chiếm Esmuna, khi đủ mạnh quay lại chiếm Laxa và Meri. Đến cuối năm 1762 trước công nguyên Babilon đã thống trị hoàn toàn vùng đất rộng lớn đó là toàn bộ Lưỡng Hà. Như vậy Lưỡng Hà lần nữa lại được thông nhất. Tuy nhiên vao giữa thế kỉ XVI trước công nguyên Babilon phải đối mặt với sự tranh giành giữa các bang nội bộ, sự xâm nhập của các tộc người bên ngoài vào nên cũng nhanh chóng suy sụp. Mở đầu là sự xâm nhập của người Hittite với nhiều lần cướp bóc và tiêu diệt vương triều thứ nhất của Babilon. Trong khi chưa thành lập được vương triều mới thì một Hải Quốc vương triều tự xưng đã được thành lập. Nhưng không lâu người Kassite ở phía Đông sông Tigris đã tiêu diệt vương triều này và thống trị gần 400 năm tại Lưỡng Hà, thời kì này gọi là vương triều thứ ba của Babilon (1530 – 1157 trước công nguyên). Mặc dù thống trị lâu dài và có những cải cách quan trọng nhưng vương triều này vẫn không thể giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của xã hội nô lệ và với các thuộc địa, vì vậy lịch sử vùng Babilon nhanh chóng gắn với hàng loạt cuộc khởi nghĩa, hay nói đúng hơn là chiến tranh giữa các thành bang. Cuối cùng lợi dụng tình hình trên, chính ngoại xâm là kẻ hưởng lợi, không ai khác đó là đế quốc Assyria. Năm 729 Babilon chính thức bị Assyria thôn tính.

  • Ảnh hưởng của đế quốc Assyria và Tân Babilon.

Assyria là một trong những quốc gia hình thành sớm nhất ở vùng Lưỡng Hà, từ thiên niên kỉ III trước công nguyên tại phía Tây sông Tigris. Chủ nhân của nó chính là người Semite. Lịch sử Assyria chia làm ba giai đoạn đó là: cổ Assyria (thiên niên kỉ III đến thế kỉ XVI trước công nguyên), trung Assyria (thế kỉ XV – thế kỉ IX trước công nguyên), tân Assyria (thế kỉ VIII – VII trước công nguyên).

Assyria trong giai đoạn trước khi vương triều Akkad hùng mạnh chủ yếu thuần phục và được coi như là một bang nhỏ chuyên về tôn giáo. Nhưng do việc tránh phải vướng vào vòng chiến của các thành bang, cộng với điều kiện thuận lợi như nhiều đồng cỏ lớn, đồng bằng khiên nền kinh tế Assyria phát triển. Do tích lũy và yên ổ trong một thời gian lâu dài nên nên nhanh chóng phát triển mọi mặt, và chịu sự dòm ngó từ bên ngoài, mà đặc biệt chính thương nghiệp của Assyria đã khiến quốc gia này phải bị lệ thuộc chính trị sau sự xâm lược của Mitanie vào thế kỉ XVI trước công nguyên.

Nhưng may mắn thay cho Assyria, chỉ hai thế kỉ sau tức là thế kỉ XIV trước công nguyên, Mitanie bị một đế quốc ở Phoenecia là Hittite tấn công. Nhân cơ hội đó Assyria giành được độc lập, và để tránh bị xâm lược lần nữa Assyria phải đổi chính thể cộng hòa từ khi thành lập sang chế độ quân chủ chủ nô. Chính yếu tố này làm Assyria trở nên hiếu chiến và nhanh chóng bành trướng và trở thành một đế quốc hùng mạnh bậc nhất Lưỡng Hà. Tuy nhiên điều khôn ngoan của Assyria nằm trong chính sách đối ngoại và chính sách di dân của nó, để tránh bị các quốc gia lân cận xâm lược và cũng như tạo mọt vành đai vững chắc bên ngoài đất nước, Assyria cho di dân và liên minh với các thành bang lân cận, nhưng đây là vấn đề của thế kỉ VIII trước công nguyên nghĩa là trong giai đoạn tân Assyria. Trở lại với trung Assyria, thời kì mà quốc gia này tiến hành hàng loạt các cuộc bành trướng sang vùng Babilon ở phía nam, đến bờ Đông Địa Trung Hải. Tuy nhiên vào thế kỉ XI trước công nguyên một tộc người Semite là Aramaeaus đã tấn công và đồng hóa hầu như toàn bộ Assyria. Sau một thế kỉ Assyria mới đánh bại Aramaeaus và xây dựng một đế quốc hùng mạnh vào thời kì tân vương quốc từ thế kỉ VIII đến VII trước công nguyên.

Với những trang bị như cung tên và máy bắn đá, Assyria tỏ ra vượt trội hơn hẳn so với các thành bang và các quốc gia khác ở Trung Đông. Nhờ đó mà nó đã chinh phục được Đông Tiểu Á (Syria, Israel, Phoenecia) từ cuối thế kỉ VIII trước công nguyên. Thế kỉ VII trước công nguyên Assyria chiếm Tiểu Á và cả Ai Cập. Như vậy Assyria thời tân vương quốc đã chiếm hầu như toàn bộ Trung Đông. Do đó mà ảnh hưởng của quốc gia này cực kì lớn, nhưng trong phần này chỉ đề cập đến yếu tố chính trị. Dĩ nhiên việc các thuộc địa cống nạp và phục tùng Assyria là điều không thể tránh khỏi, nhưng vì sao mà đế quốc này duy trì được hệ thống thuộc địa rộng lớn lâu dài vậy? Đó là do chính sách di dân quá khôn ngoan – cưỡng chế di dân.

Chính sách di dân của Assyria có hai nội dung chính, thứ nhất là đối với các bang thuộc địa không phát triển thì bị bắt hết làm nô lệ, sau đó cưỡng ép nông dân đến để cải tạo đất đai. Thứ hai, đưa dân vào các thành bang lớn để đồng hóa dân tộc.

Tuy nhiên mặc dù thi hành chính sách có phần khôn ngoan nhưng Assyria vẫn không thể thoát khỏi hai mâu thuẫn truyền kiếp của một đế quốc quân sự, một là mẫu thuẫn xã hội, hai là mâu thuẫn dân tộc. Như ở phần Ai Cập hay các thành bang Lưỡng Hà, chúng ta thấy khi mà Assyria suy yếu tại những thuộc địa kể trên xuất hiện hàng loạt các cuộc khởi nghĩa khiến khó khắn đối với Assyria ngày càng chống chất, mà tiêu biểu là năm 655 trước công nguyên Ai Cập đã độc lập.

Cùng với những sự lủng đoạn của bọn thầy cúng trong các khu đền thờ, bên ngoài nhiều quốc gia khác cũng bước vào giai đoạn cực thịnh như Ai Cập giành độc lập và phục hưng, Lydia ở Tiểu Á, Media ở cao nguyên Iran, không chỉ đe dọa đến phạm vi ảnh hưởng mà còn là sự tồn tại của chính Assyria.

Trong các thế lực mới nổi sau khi Assyria rơi vào tình trạng khủng hoảng phải kể đến vương quốc Chaldans. Năm 621 trước công nguyên Chadans đã liên minh với Media đánh đánh bại hoàn toàn Assyria. Trước đó tạ Babilon vương quốc Chaldans đã được thành lập vào năm 625 trước công nguyên và tồn tại đến năm 539 trước công nguyên, cùng với Media thống trị toàn bộ Tây Á. Do đó vùng Tây Á bị xâu xé bởi hai thế lực mới này, quá trình thống nhất tại đây không bằng những cuộc chiến tranh mà thông qua một hình thức ngoại giao phổ biến thời cổ – trung đại. Thế kỉ VI trước công nguyên với việc vua Chaldans kết hôn với công chúa Media, đã hoàn tất việc xác nhập hai quốc gia này thành một thể. Như vậy vương triều Chaldans hay gọi là Tân Babilon đã thống trị hoàn toàn vùng Tiểu Á, và đang tạo những bước tiến cho cuộc xâm lược tại Trung Đông. Khi mà vùng biên giới phía Bắc – Media đã yên ổn, Tân Babilon tập trung bành trướng ra phía Tây của vương quốc. Đầu tiên là xâm lược chính vùng Ai Cập, sau đó là tranh giành Palestine với Syria. Cuối cùng đến năm 586 Tân Babilon chiếm được Jesusalem, tiêu diệt vương quốc Do Thái. Trong thời kì này Babilon đã áp dụng chính sách cưỡng bức di dân của Assyria, do đó đã phần nào yên ổn tạm thời các vùng mới chiếm đóng. Tiếp theo, Babilon tiến ra các đảo quan cao nguyên Phoenecia, điểm đến đầu tiên là thành bang Tyre, tuy nhiên thất bại. Đối với Ai Cập, Babilon cũng không đủ sức chiếm hoàn toàn mà chỉ là cướp bóc và trở về. Mặt dù rất hùng mạnh nhưng Babilon lại lo sợ Media ở phía Bắc, trong trường hợp xấu nhất là liên minh giữa họ tan rã, Media sẽ nhanh chóng đánh bại Babilon, vì vậy để ngăn chặn điều này Babilon đã cho xây dựng đường biên giới ngăn cách hai quốc gia, đồng thời cung cấp nô lệ và một số của cải cho gia đình công chúa Media, đặc biệt là xây dựng vườn treo, sau này trở thành một trong bảy kì quan của thế giới.

Tân Babilon tồn tại không lâu, cũng do mẫu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ, mâu thuẫn dân tộc giữa đế quốc và thuộc địa, cùng với các cuộc chiến dai dẳng, tất cả làm cho đế quốc này suy yếu. Đến thế kỉ VI trước công nguyên Tân Babilon bị Ba Tư thôn tính.

Như vậy có thể thấy Assyria và Tân Babilon là hai đế quốc có tầm ảnh hưởng sâu sắc về chính trị ở Tây Á, đặc biệt là Lưỡng Hà sau thời kì chiến tranh và xung đột giữa các thành bang Sumer tại nơi đây.

2.2.3 Quan hệ quốc tế ở Trung Đông cổ đại tại vùng cao nguyên Phoenecia.

hittite3.jpg

Nếu như ở Lưỡng Hà Assyria và T

0