Kiến trúc phục vụ chính trị
Gian triển lãm của Đức Quốc xã và gian của Liên Xô (phải) tại Triển lãm quốc tế Paris 1937 Christopher Laws Trương Quý dịch và tổng hợp 75 năm trước, rạng sáng ngày 22. 6. 1941, Đức Quốc xã bất ngờ tấn công Liên Xô, đưa cuộc Thế chiến II vào một giai đoạn khốc liệt ngoài ...
Christopher Laws
Trương Quý dịch và tổng hợp
75 năm trước, rạng sáng ngày 22. 6. 1941, Đức Quốc xã bất ngờ tấn công Liên Xô, đưa cuộc Thế chiến II vào một giai đoạn khốc liệt ngoài sức tưởng tượng. Chiến dịch mang tên Barbarossa này khởi đầu thuận lợi cho Đức Quốc xã, chiếm được đến phân nửa lãnh thổ thuộc châu Âu của Liên Xô, song cuối cùng phải dừng chân tại cửa ngõ Matxcơva tháng 2. 1942, đánh dấu sự chuyển hướng có tính thất bại chung cuộc của Đức. Nhưng vào cuối những năm 1930, với việc ký Hiệp ước không xâm phạm Xô-Đức (còn gọi là Hiệp ước Molotov-Ribbentrop), người ta chưa thể hình dung được sự kinh khủng của cuộc đối đầu quân sự sau đó, vốn dẫn tới cái chết của 26 triệu người trên đất Liên Xô.
Tuy nhiên, cuộc đối đầu về chính trị qua các hoạt động văn hóa-thể thao đã rất nổi bật trong các sự kiện như Olympic 1936 tại Munich hay Triển lãm Thế giới 1937 tại Paris. Trước khi các sức mạnh vũ khí được trưng trổ, thì sức mạnh của kiến trúc và kỹ nghệ đã được hai bên phô diễn chẳng giấu giếm gì. Bài viết dưới đây cho thấy sự liên quan, thậm chí là tương đồng của kiến trúc trong việc tạo ra biểu tượng chính trị thế nào ở hai cường quốc đối địch.
*
Triển lãm quốc tế Nghệ thuật và Kỹ thuật trong Đời sống hiện đại năm 1937 (Exposition Internationale des Arts et Techniques dans la Vie Moderne, thời trước các cụ ta hay gọi là Đấu xảo) được tổ chức tại Paris, diễn ra từ ngày 25. 5 đến 25. 11, đặt tại khu Trocadéro, bên sông Seine ngay đối diện tháp Eiffel. Đây là triển lãm quốc tế lần thứ sáu tại thủ đô của Pháp, sau các năm 1855, 1867, 1878, 1889 và 1900.
Trên cùng một ngọn đồi đã từng được sử dụng cho triển lãm vào năm 1867, vào năm 1878, người ta cho xây Cung Trocadéro. Được kiến trúc sư Gabriel Davioud thiết kế, gồm một sảnh hòa nhạc trung tâm, hai tòa tháp và hai dãy nhà cánh, cung điện là một tổ hợp của kiến trúc Moor (hình thức kiến trúc Hồi giáo phổ biến ở Bắc Phi và bán đảo Iberia), Byzantine và cổ điển, tạo ra cảm giác không gần gũi với công chúng.
Ẩm thấp, không có hệ thống sưởi và chiếu sáng, cung điện cũng cho thấy không phù hợp với vai trò sau đó của nó trong việc là bảo tàng nhân học đầu tiên của Paris, Musée d’Ethnographie du Trocadéro. Picasso đã tới đây thăm vào năm 1907, và bộ sưu tập bảo tàng (gồm các đồ thủ công châu Phi, mặt nạ, tượng gỗ) đã cho thấy sự ảnh hưởng có tính quyết định của nó đến tác phẩm Những cô gái ở Avignon được ông hoàn thành sau đó. Mặc dù vậy, ông đã ghi lại trong chuyến thăm đầu tiên rằng “mùi ẩm mốc và thối rữa lưu cữu trong cổ họng tôi. Nó làm tôi xây xẩm đến nỗi muốn lao ra ngoài thật nhanh”. Tuy nhiên sau đấy ông hồi tưởng lại có một chút hài lòng hơn:
“Khi tôi tới Trocadéro, khung cảnh thật kinh tởm. Chợ giời. Mùi hôi. Tôi hoàn toàn đơn độc. Tôi muốn đi khỏi ngay. Nhưng tôi đã không đi. Tôi đã ở lại. Tôi ở lại. Tôi hiểu điều gì đó rất quan trọng: điều gì đó đang xảy ra với tôi, phải không nhỉ? Những cái mặt nạ không giống như những loại điêu khắc khác. Không hề giống. Chúng là những thứ đầy ma thuật”.
Do tình trạng xuống cấp, năm 1935, cung Trocadéro đã bị phá bỏ, và được xây lại để chuẩn bị cho triển lãm sắp diễn ra, với tên gọi mới là Palais de Chaillot như ngày nay vẫn còn. Cung Chaillot là một sáng tạo của các kiến trúc sư Léon Azema, Jacques Carlu và Louis-Hippolyte Boileau, vốn đã giành chiến thắng trong cuộc thi chọn phương án cung điện mới.
Mang phong cách kết hợp Tân cổ điển (Neoclassical) và Hiện đại (Art Moderne), cung điện có hai dãy nhà hình cánh cung đứng độc lập với tòa nhà chính. Hai cánh cung ngày nay là trụ sở của bảo tàng Con người – kế thừa bảo tàng Nhân học Trocadéro – cùng với các bảo tàng Kiến trúc và Di tích Paris, bảo tàng Hàng hải; còn tòa nhà trung tâm biến thành Nhà hát quốc gia Chaillot. Ngày 10. 12. 1948, Palais de Chaillot còn là nơi diễn ra phiên họp của Đại hội đồng Liên hiệp quốc khi công bố Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền.
Tháp Eiffel được mọc lên và tạo thành trung tâm của triển lãm 1889, như một ẩn dụ cho những sáng tạo khoa học và kỹ thuật của thế kỷ trước. Theo lời Gustave Eiffel, ngọn tháp mà hãng của ông xây nên nhằm sẽ biểu tượng hóa:
“không chỉ nghệ thuật của các kỹ sư hiện đại, mà còn là thế kỷ của Công nghiệp và Khoa học mà chúng ta đang sống, và còn cho cách thức đã được chuẩn bị bởi trào lưu khoa học của thế kỷ 18 và của Cách mạng 1789, vì lẽ đó đài kỷ niệm này sẽ được xây dựng như một biểu hiện của tinh thần Pháp”.
Trong cùng một hướng như thế, sự kiện năm 1937 là một cuộc trình diễn thành tựu khoa học kỹ thuật đương đại hoành tráng nhất của thế giới. Các gian trưng bày được dành cho điện ảnh, phát thanh, ánh sáng, đường sắt, hàng không, tủ lạnh và in ấn. Các bích chương quảng cáo cho triển lãm nhấn mạnh đây là một sự tụ hội của “nghệ thuật và kỹ thuật”.
Các gian trưng bày được trang hoàng và thiết kế bởi các nghệ sĩ và kiến trúc sư như Robert và Sonia Delauny, Robert Mallet-Stevens và Le Corbusier; Fernand Léger thì đóng góp tác phẩmLe transport des forces (Sự chuyển giao quyền lực) cho Cung Khám phá của triển lãm; còn Raoul Dufy hoàn thành và trưng bày bức tranh tường hoành tráng La Fée Electricité (Cổ tích của ánh điện) – một tác phẩm thần thoại hóa đầy màu sắc của lịch sử ngành điện.
Thực ra, người ta cũng đã lên kế hoạch để xây dựng một ngọn tháp, dùng làm trung tâm của triển lãm 1937, giống như tháp Eiffel đã là trung tâm của triển lãm vào năm 1889. Được đặt tên là Phare du Monde (Hải đăng của thế giới), đài quan sát kiêm tháp này cao 700m – hơn gấp đôi tháp Eiffel – và định xây bằng bê tông. Sẽ có một nhà hàng ở trên đỉnh và một đường xoắn ốc dẫn đường lên bên trong, với một bãi đỗ xe ở độ cao 500m. Ngọn tháp sẽ được dùng như một nơi trình diễn ôtô và cho ngành công nghiệp xe hơi của Pháp vốn dẫn đầu châu Âu suốt thập niên 1920s.
Dự án xây ngọn tháp ước chừng khoảng 2,5 triệu đôla Mỹ thời ấy (tính trượt giá thì bây giờ khoảng 42 triệu) đã bị hủy bỏ. Thêm vào đó, triển lãm đã phải trì hoãn. Kế hoạch ban đầu khai mạc ngày 2.3 nhưng đã phải lùi lại đến 1.5. Nhưng vào ngày này, chỉ có hai gian trong số 44 nước tham gia là đã hoàn thiện: Liên Xô và Đức Quốc xã, là hai kiến trúc ốp đá khối đối diện nhau qua công viên Trocadéro mới xây, với tháp Eiffel bên kia sông Seine làm hậu cảnh.
Cuối cùng thì triển lãm cũng đã sẵn sàng mở cửa ngày 25.5.
Vào năm 1937, châu Âu bị bao phủ bởi các khủng hoảng chính trị. Cuộc chiến tranh Ý-Abyssinia (ngày nay thuộc Ethiopia) lần thứ hai diễn ra từ tháng 10.1935 đến 5.1936. Cuộc chiến cho thấy những giới hạn của Hội Quốc Liên (một tổ chức được thành lập sau Thế chiến I với chức năng tương tự Liên Hợp Quốc ngày nay – ND), nhưng bất chấp những lệnh trừng phạt quá nhẹ mà tổ chức này áp đặt lên Ý khi nước này đưa quân vào Ethiopia, Mussolini vẫn dùng những lệnh phạt đó như một cái cớ để tách Ý ra khỏi khối đồng minh với Anh và Pháp, và tiến gần lại với nước Đức của Hitler.
Vào tháng 3.1936, quân đội Đức vi phạm các điều khoản của Hòa ước Versailles và tiến vào Rhineland. Vào tháng 10, Đức và Ý đã đồng ý thành lập một trục giống hệt cơ chế liên minh giữa Đức và Áo năm 1938, sau đó vào cuối năm 1940 có thêm Nhật và tiếp theo là các nước Đông Âu gồm Hungary, Romania, Slovakia, Bulgaria, Nam Tư và Croatia. Nội chiến Tây Ban Nha nổ ra hồi tháng 7.1935, Đức và Ý ủng hộ lực lượng Quốc gia chủ nghĩa chống lại phe Cộng hòa, vốn được Liên Xô ủng hộ. Ở xa hơn, Nhật đã tiến hành cuộc chiến tranh ở Trung Quốc. Thế chiến II sẽ xảy ra chỉ vài năm sau đó.
Trong bối cảnh đáng lo ngại như thế, khoảng giữa năm 1937 có vẻ là một thời kỳ tương đối yên tĩnh. Tuy vậy gần như toàn bộ Triển lãm Quốc tế gợi nên những ý niệm chính trị. Gian hàng Tây Ban Nha, do chính phủ Cộng hòa tổ chức, được kiến trúc sư Josep Lluís Sert thiết kế, đáng chú ý vì đã tập hợp được những tên tuổi nổi bật nhất của nghệ thuật nước này. Sert đã mời những người bạn là Pablo Picasso, Joan Miró và Alexander Calder tham gia bày các tác phẩm nghệ thuật tại gian triển lãm,.
Bức Guernica của Picasso là được vẽ riêng cho triển lãm này. Ông từng cam kết vẽ một bức tranh tường cho triển lãm từ đầu năm, nhưng phải đến đầu tháng 5, khi đọc tin về vụ ném bom của không quân Đức và Ý xuống thị trấn Guernica ở xứ Basque, Picasso mới bắt đầu công việc mà ông đã hứa. Bắt tay vào việc ngay lập tức, ông đã hoàn thành Guernica đầu tháng 6. 1937, và bức tranh được trưng bày như một phần của gian Tây Ban Nha vào tháng 7. Mặc dù sau đó được các nghệ sĩ và nhà nghiên cứu đánh giá cao, thoạt đầu bức tranh này được đón nhận khá chậm chạp.
Bên cạnh tác phẩm của Picasso là bức Lưỡi liềm (hay Người nông dân Catalan nổi dậy) của Joan Miró, một bức tranh tường được ông vẽ ngay tại chỗ, trực tiếp trên những tấm vách.
Tuy nhiên, sau khi triển lãm được dỡ đi sau khi kết thúc vào đầu năm 1938, bức tranh tường của Miró đã bị thất lạc hoặc bị phá hủy trên đường đưa về Valencia. Mặc dù vậy, ông cũng không nhắc đến nó nhiều vì tranh đã bị cái bóng của Guernica che khuất.
Còn trên sàn của gian triển lãm là tác phẩm Đài phun thủy ngân của Alexander Calder, một đài phun bằng sắt và nhôm phun thủy ngân thay vì nước. Tác phẩm này hiện nay được trưng bày ở Fundació Joan Miró ở Barcelona, được quây vách kính để đảm bảo an toàn cho người xem.
Nếu bức Guernica của Picasso truyền tải một cách gây tranh cãi văn cảnh trực tiếp của nó, triển lãm 1937 có lẽ được nhớ đến nhất ngày nay là nhờ các gian triển lãm của Liên Xô và Đức Quốc xã.
Gian của Liên Xô là sản phẩm của kiến trúc sư Boris Iofan. Iofan là một kiến trúc sư Xô-viết gốc Do Thái quê Odessa, ông đã từng học kiến trúc ở Rome. Năm 1932, ông đã thắng trong cuộc thi thiết kế Cung Xô-viết: một cuộc thi quốc tế thiết kế một tòa cung hội nghị khổng lồ, dự định xây ở Matxcơva, và dự kiến trở thành trung tâm hành chính của Liên bang Xô-viết. Địa điểm chọn xây Cung Xô-viết lúc đó là Nhà thờ Chính tòa Chúa Kitô đấng Cứu độ, nằm ở bờ bắc sông Matxcơva, được khởi sự sau khi Napoleon rút khỏi Matxcơva năm 1812, nhưng mãi đến năm 1883 mới hoàn thành. Năm 1931, để chuẩn bị cho xây Cung X-viết, nhà thờ đã bị phá bỏ.
Các kiến trúc sư nổi tiếng gồm Walter Gropius, Le Corbusier và Erich Mendelsohn đã tham gia cuộc thi, nhưng thiết kế Tân cổ điển của Iofan đã được chọn bởi một “hội đồng chuyên gia”, dưới sự chỉ đạo của Stalin. Sau khi Stalin yêu cầu, với sự tham gia của các đồng nghiệp theo khuynh hướng Tân cổ điển là Vladimir Shchuko và Vladimir Gelfreikh, thiết kế ban đầu của Iofan thậm chí còn được làm khổng lồ hơn.
Stalin muốn một tòa nhà cao hơn tháp Eiffel và cao hơn cả tháp Empire State, vốn được khánh thành năm 1931, là tòa nhà cao nhất thế giới khi đó với 381m. Hơn nữa, Stalin còn hình dung rằng Cung Xô-viết cũng phải được xem như một tượng đài của Lênin. Từ đề xuất ban đầu 260m, bản thiết kế cuối cùng cho Cung Xô-viết nâng lên chiều cao 415m, với một bức tượng Lênin trên nóc cao 80m.
Le Corbusier và Frank Lloyd Wright nằm trong số nhưng người chỉ trích dự án ở mọi khâu. Năm 1932, Le Corbusier cho rằng “thật khó để chấp nhận sự thật rằng họ sẽ thực sự dựng lên thứ kỳ quái đó mà gần đây bị báo chí dìm cho tơi tả”; trong khi Wright đã gửi thư cho Đại hội lần thứ nhất kiến trúc sư Xôviết tháng 6.1937 và nhắc Đại hội rằng “Công trình này – tôi hy vọng chỉ là đề xuất – sẽ là tốt nếu chúng ta dùng nó cho một phiên bản hiện đại của tích Thánh George diệt rồng”.
Việc xây dựng bắt đầu năm đó, và đến năm 1939 thì phần móng đã hoàn thành. Nhưng đến năm 1941, khi Thế chiến II diễn ra, các khung thép của công trình đã bị cắt và dùng vào các mục đích chiến tranh. Iofan tiếp tục chỉnh sửa thiết kế, nhưng tòa nhà không bao giờ được tiến hành xây trở lại, cho đến năm 1958 thì công trình được chuyển thành một bể bơi ngoài trời – khi đó là lớn nhất thế giới.
Năm 1995, công việc xây dựng lại Nhà thờ Chính tòa Chúa Kitô đấng Cứu độ được bắt đầu tại đây. Nhà thờ mới được khánh thành tháng 8.2000.
Cùng thời điểm dự án Cung Xôv-iết, Iofan cũng được giao nhiệm vụ thiết kế gian triển lãm của Liên Xô tại triển lãm Paris 1937. Cấu trúc của ông – bao phủ bằng đá cẩm thạch và kéo dài ra sau thành một chuỗi các hình chữ nhật gợi nhớ đến các tác phẩm trường phái Siêu việt của Kazimir Malevich – với đỉnh là tác phẩm điêu khắc Công nhân và nông trang viên của Vera Mukhina.
Sinh ra ở Riga trước khi chuyển tới Matxcơva, sau khi học ở Paris và Ý, Mukhina đã phát triển một phong cách nghệ thuật kết hợp giữa trường phái Lập thể và Vị lai. Công nhân và nông trang viên đã đem lại cho bà một danh tiếng quốc tế như một nhà hiện thực Chủ nghĩa xã hội xuất chúng. Tác phẩm điêu khắc thể hiện hình tượng một người nam và nữ sải bước mạnh mẽ về phía trước, cầm búa và liềm đan vào nhau. Người công nhân nam mặc đồ bảo hộ toàn thân, trong khi người phụ nữ mặc đồ mỏng phần ngực, nhưng phần váy dài nổi sóng cuồn cuộn. Chiếc khăn vắt từ hông người đàn ông đem lại cả sự cân bằng thẩm mỹ lẫn cấu trúc cho bức tượng, thêm trọng lượng vào phía sau của hai hình tượng.
Điêu khắc mang tính biểu tượng của Mukhina đã được dùng làm logo của hãng phim Mosfilm năm 1947. Đây là hãng đã sản xuất những tác phẩm quan trọng của Sergei Eisenstein cũng như Andrei Tarkovsky, hay Viy, một chuyển thể từ truyện ngắn Gogol trở thành bộ phim kinh dị đầu tiên của Liên Xô vào năm 1967, Chiến tranh và hòa bình của Sergei Bondarchuck, Dersu Uzala của Akira Kurosawa, và Matxcơva không tin vào những giọt nước mắt, bộ phim đã giành giải Oscar phim nước ngoài hay nhất năm 1980, và đã được Ronald Reagan xem 8 lần nhằm tìm cách hiểu được tinh thần Nga.
Frank Lloyd Wright gặp Boris Iofan trong chuyến thăm Liên Xô năm 1937. Sau khi trở về Mỹ, vào tháng 8, ông đã viết một bài báo dài ca ngợi vai trò đảm nhiệm của kiến trúc trong đời sống Xô-viết – ngay cả khi ông không hề thích thú gì dự án xây Cung Xô-viết. Bài báo này được xuất bản trên tạp chí Nước Nga Xô-viết ngày nay và trên Bản tin Kiến trúc, đều trong tháng 10.1937, và Wright đã thêm bài viết đầy đủ vào trong cuốn sách Frank Lloyd Wright: tự truyện, xuất bản lần đầu năm 1943. Trong bài viết, Wright đã nhắc lại lời phim ảnh Nga về những tòa nhà là “những nơi hợp thời nhất cho nhân dân, cần được thấy bất cứ đâu trên thế giới”, và khen ngợi “công cuộc kiến tạo xã hội vĩ đại này đang kêu gọi nền Kiến trúc giúp đỡ và chỉ lối”. Hơn nữa, ông cho rằng phương Tây phải nhìn về Liên Xô và:
“choáng ngợp vì sức sống và sự mạnh mẽ, sự lớn dậy của chủ nghĩa anh hùng và độ giàu có trong sự biểu đạt, và ngưỡng mộ đặc biệt tính cá nhân đầy màu sắc, chưa bao giờ biết đến bí mật của niềm hạnh phúc như thế […] Nước Nga có thể mang lại cho đám đông cãi cọ của những loại người già nua đầu óc sặc mùi tiền và chiến tranh của thế giới phương Tây phần tâm hồn đã thất bại trong việc tự tìm kiếm – và, tôi hi vọng, kịp thời xuất hiện để ngăn chặn sự tự diệt vong mà các quốc gia đang cùng nhau lao tới”.
Trong bài viết năm 1937, Frank Lloyd Wright bảo lưu những lời tốt đẹp cho gian triển lãm của Iofan và điêu khắc của Mukhina mà ông đã được nhìn thấy ở Paris. Mô tả gian triển lãm, ông viết:
“Tòa nhà trong triển lãm Paris là một cái đài thấp, chạy dài và phù hợp cho một điêu khắc hiện thực chủ nghĩa đầy kịch tính đặt lên, trong khi Cung Xô-viết lại là trường hợp của một cái đài hoàn toàn không phù hợp, kịch tính hóa quá mức đến tồi tệ bên dưới một điêu khắc phong cách hiện thực cứng đờ”.
Ông kết luận rằng gian triển lãm của Liên Xô là “tòa nhà trưng bày thành công nhất và ngoạn mục nhất ở Triển lãm Paris”.
Ứng với khung cảnh đầy những tuyên ngôn chống Slav của Hitler và sự can dự vào hai phe đối đầu nhau trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, người Xô-viết và Đức cảm nhận được sức nặng của cuộc cạnh tranh ngay cả trước khi gian triển lãm của họ sẽ đối mặt với nhau qua công viên Trocadéro. Hitler thoạt đầu cân nhắc việc Đức rút khỏi triển lãm, nhưng vì mối ưu ái dành cho với Albert Speer, kiến trúc sư trưởng của Đế chế thứ Ba, nên Speer đã thuyết phục được ông ta tham gia.
Trong khoảng 1933-1934, Speer đã thiết kế các đồ án và nhiều công trình làm nơi diễn ra các buổi tuần hành của đảng Quốc xã, chẳng hạn ở Nuremberg; và ông đã sinh ra “thánh đường ánh sáng”, dùng 130 ngọn đèn rọi dùng chống không kích chiếu lên trời đêm để tạo nên biểu tượng thị giác cho lễ Tuần hành Nuremberg. Đám đông tuần hành đã được ghi lại đầy ấn tượng trong bộ phim Chiến thắng của Ý chí của Leni Riefenstahl, một bản ký sự về cuộc Tuần hành Nuremberg 1934.
Để chuẩn bị cho Thế vận hội mùa hè 1936 tại Berlin, Speer điều chỉnh lại thiết kế sân vận động Olympiastadion của Werner March, thêm vào một mặt đứng ốp đá.
Trong những năm này, Speer phát triển ý tưởng của “giá trị tàn tích”: những tòa nhà nên được thiết kế với một dự kiến về sự hư hại và thậm chí sụp đổ của chúng, vì vậy những phế tích để lại cuối cùng sẽ giữ lại được giá trị thẩm mỹ và biểu tượng. Nếu như Speer đem lại cho khái niệm một cái tên, thì khái niệm này đã có một tiền đề từ lâu, qua những bản vẽ của John Soane (1753-1837, một kiến trúc sư người Anh) và sự tôn vinh theo trường phái Romanticism (Lãng mạn hóa hình ảnh các phế tích đền đài, chủ yếu phong cách Hy-La cổ đại). Trong hồi ký của Speer, Trong lòng Đế chế thứ Ba, ông giải thích nền tảng lý thuyết của mình:
“Hitler thích nói tới mục đích của công trình là để truyền tải thời đại của ông và tinh thần của nó cho hậu thế. Sau cùng, những điều nhắc nhớ đến những con người của kỷ nguyên vĩ đại trong lịch sử chính là kiến trúc mang tính biểu tượng của họ, ông đã triết lý hóa như vậy […] Lẽ tự nhiên, không thể chỉ dùng mỗi ngành kiến trúc mà đánh thức được một nhận thức quốc gia mới. Nhưng sau một thời gian dài trì trệ, một cảm hứng về sự vĩ đại của quốc gia đã được sinh ra, với các tượng đài của tổ tiên là những sự biểu dương ấn tượng nhất. Chẳng hạn ngày nay, Mussolini có thể lấy những công trình của Đế chế La Mã làm biểu tượng của tinh thần anh hùng La Mã. Nhờ thế ông có thể thiêu đốt dân tộc mình với ý niệm về một đế chế hiện đại. Các công trình kiến trúc của chúng ta cũng nên nói tới sự nhận thức về những thế kỷ Đức tương lại ngay từ bây giờ”.
Speer đã thiết kế gian của Đức tại Triển lãm 1937. Trong một chuyến thăm Paris vài tháng trước khi triển lãm khai mạc – tại đây vị trí của các gian Liên Xô và Đức đã được các nhà tổ chức Pháp xác nhận, do tổng công trình sư Jacques Gréber chỉ đạo – Speer “tình cờ lọt vào một căn phòng chứa những bản phác thảo bí mật của gian Liên Xô”. Nhờ cơ hội quý báu này, ông đã thiết kế một gian triển lãm với ý đồ đáp trả lại một cách cứng rắn vẻ tấn công của bức tượng Công nhân và nông trang viên. Trong khi phần đế giật cấp của Iofan và bức tượng của Mukhina chủ yếu chạy theo phương ngang, Speer tạo nên một khối đầy tính áp chế theo phương đứng, phần nóc kết thúc bằng một con đại bàng đậu trên biểu tượng chữ thập ngoặc.
“Một cặp tượng cao mười mét [thực tế là 24,5m], trên một cái đài cao, đang sải bước đầy chiến thắng về phía gian của Đức. Do vậy tôi đã thiết kế một khối hộp, dựng dọc trên những cột cường tráng nhằm để ngăn sự tấn công đó, trong khi ở đỉnh tháp là một con đại bàng với chữ thập ngoặc giữ trong móng vuốt đang nhìn xuống điêu khắc của người Nga. Tôi đã nhận được huy chương vàng cho tòa nhà; và đồng nghiệp Xô-viết cũng vậy”.
*
Mặc dù trong lý thuyết của Speer về “giá trị tàn tích” có sự ưu tiên cho vật liệu đá, với ý đồ dành cho những dự án trường cửu, trên thực tế, gian triển lãm tạm thời của Đức tại triển lãm là một cấu trúc bằng thép.
Một mặt tiền ốp đá granite Bavaria bao phủ một cấu trúc hợp từ ba ngàn tấn thép. Các trụ cột ốp đá granite và khảm mosaic. Bên trong nội thất, sàn nhà được phủ bằng cao su đỏ.
Người Xô-viết cử một đội chuyên gia đến để lắp đặt bức tượng thép không gỉ của Mukhina – tác phẩm đã được làm khuôn và đúc ở Matxcơva tại Học viện Thép và Luyện kim, trước khi xẻ ra thành 65 khối và vận chuyển tới Paris. Khi đến nơi, một cần trục được dùng để cẩu các khối điêu khắc vào vị trí và toàn bộ quy trình chỉ diễn ra trong 13 ngày. Tuy nhiên, để xây dựng phần gian triển lãm, Liên Xô phải phụ thuộc vào công nhân Pháp. Điều này ngược với Đức: họ đã cử một đội cả ngàn thợ xây sang dựng công trình do Speer thiết kế.
Nếu toàn bộ ý tưởng của Speer được chuyển hóa từ việc được xem lén các bản thiết kế của Liên Xô, thì ngược lại có một điểm về mặt chi tiết, kiến trúc sư Iofan của Liên Xô đã được gợi hứng từ phía Đức: biết được rằng Speer dự định ốp đá granite bao quanh công trình của Quốc xã, Iofan đã chọn đá cẩm thạch (marble, ở Việt Nam có khi gọi là đá hoa) để ốp gian triển lãm của mình. Speer đã đảm bảo rằng gian của Đức sẽ lấn át gian của Liên Xô về chiều cao – vì thế con đại bàng thực sự đã nhìn chằm chằm xuống Công nhân và nông trang viên. May mà Gréber đã thuyết phục được ông ta giới hạn phạm vi thiết kế ban đầu của mình, nhằm tôn trọng các gian triển lãm của các nước khác và để hài hòa tốt hơn với cung Chaillot, vốn cũng có chung hình thức dùng nhiều cột và tinh thần Tân cổ điển.
Vào ban đêm, gian của Đức được chiếu sáng từ bên dưới và từ phần âm giữa các cột, thông qua một hệ thống chiếu sáng do Zeiss-Ikon thiết kế. Giáo sư kiến trúc Danilo Udovički-Selb đã mô tả hiệu ứng của những dải ảnh sáng được giấu này là sản xuất ra “hình ảnh ma quái của một bức ảnh âm bản”. Udovički-Selb sau đó đã coi gian triển lãm của Speer – cùng với những ví dụ khác về kiến trúc bằng kính ở Đức Quốc xã – nằm trong ngữ cảnh của thần thoại Đức thời Trung cổ.
*
Speer với những dự án lớn khác tại Đức
Đến cuối thập niên 1930s, Speer tập trung vào hoàn thành Dinh Nguyên thủ (tạm dịch từ Reichskanzlei / Chancellery) Đế chế mới ở Berlin. Do Hitler ấn định một thời hạn ngặt nghèo, tòa nhà được hoàn thành vào tháng Giêng 1939. Trị giá 90 triệu đồng Reichsmark, tòa nhà bao gồm một sảnh đường dài 150m, gấp đôi Sảnh Gương của cung điện Versailles. Dinh đã bị hủy hoại trong trận đánh chiếm Berlin và bị Hồng quân phá sập vào lúc kết thúc Thế chiến II.
Trước khi chiến tranh bùng nổ, Hitler đã có các bản đồ án phát triển quy hoạch lại Berlin. Trung tâm của những quy hoạch này là Prachtstrasse (Đại lộ Quang Vinh): một đại lộ rộng và hoành tráng khác thường, chạy dài 5km thẳng tắp từ bắc xuống nam. Đại lộ sẽ quy tụ tất cả trụ sở các bộ và đại sứ quán. Bên cạnh quá nhiều dự án kiến trúc đồ sộ như thế, sự thúc đẩy các công trình lớn ở các thành phố khác trở nên yếu ớt. Và Hitler vẫn tiếp tục muốn ý tưởng hóa Berlin mới của ông ta – mà sau đó Speer gọi là “Germania” – trong những ngày đầu của chiến tranh. Ông có cảm hứng từ ví dụ của Rome, nơi ông đã đi thăm vào tháng 5.1938; và cả Paris, nơi có các kiến trúc mà ông đã đến vào những ngày ngay sau khi nước Pháp sụp đổ cuối tháng 6. 1940.
Mặc dù đã có cơ hội nhìn tận mắt các công trình nhằm phục vụ cho viễn kiến của mình, cũng như đã giao trách nhiệm quy hoạch chi tiết cho Speer, Hitler đã tự vẽ phác ra một số công trình theo những gì ông ta ôm mộng ngay từ hồi 1925. Ở phía điểm cuối phía nam của Đại lộ là một khải hoàn môn, dựa theo Khải hoàn môn ở Paris nhưng cao hơn gấp ba lần. Rồi ở đầu phía bắc đại lộ là một Volskhalle (Đại sảnh Nhân dân) khổng lồ, cao tới 290m và có một mái vòm bằng đồng, lấy theo hình dáng của đền Pantheon ở Rome và nhà thờ St Peter ở Vatican. Hitler dự định Đại sảnh này là trung tâm của một Triển lãm quốc tế mà ông ta hi vọng sẽ diễn ra ở Berlin vào năm 1950. Đại sảnh này có sức chứa 180.000 người. (Cho đến nay, sân vận động sức chứa lớn nhất mới chỉ đến mức 150.000 người ở Bình Nhưỡng, khánh thành 1.5.1989, nửa thế kỷ sau dự án của Hitler).
Speer tiếp tục đồ án của mình cho đến giai đoạn đầu Thế chiến II, nhưng ông nhanh chóng hiểu rằng khi Đức đã tham gia một cuộc chiến tranh thì không còn chỗ cho các công trình xây dựng quy mô lớn. Về phần Stalin, trước đó đã ấn tượng với gian triển lãm của Speer ở Paris, vào cuối năm 1939, khi xem những hình ảnh mô hình về tái thiết của Speer, ông khao khát Speer sẽ có một chuyến thăm Matxcơva để thảo luận về công việc – nhưng Hitler đã từ chối chấp thuận cho Speer đi, sợ rằng Stalin sẽ không cho kiến trúc sư danh giá của mình quay về Đức.
Nguồn bài đăng