25/05/2018, 09:17

Khu hệ động vật của Việt Nam

Sự đa dạng của động vật ở Việt Nam phản ánh sự phong phú của thực vật trong nước. Nhiều loại môi trường sống khác nhau tạo ra nhiều cơ hội cho các sinh vật phát triển vì nó cho phép chúng phân tách khỏi những loài khác bằng cách thay đổi nơi ở và ...

Sự đa dạng của động vật ở Việt Nam phản ánh sự phong phú của thực vật trong nước. Nhiều loại môi trường sống khác nhau tạo ra nhiều cơ hội cho các sinh vật phát triển vì nó cho phép chúng phân tách khỏi những loài khác bằng cách thay đổi nơi ở và thức ăn. Và các môi trường phức tạp hơn, chẳng hạn như các khu rừng thường xanh, lá rộng, nhiều tầng của dãy Trường Sơn, còn cung cấp nhiều loại môi trường sống hơn để các loài có thể khai thác được. Tuy nhiên không phải tất cả các loại môi trường đều phong phú như nhau về số lượng các loài thuộc các nhóm động vật khác nhau vì các đặc tính chung như nhậy cảm với nhiệt độ (cây dầu, họ Dipterocarpaceae), phụ thuộc vào môi trường nước để sinh sản (lưỡng cư, lớp Amphibia) và tính chịu khô hạn (một số loài thằn lằn, phân bộ Sauria), có thể hạn chế (hoặc mở rộng) các môi trường sống thích hợp cho các nhóm khác nhau. Một khi đã thâm nhập thành công vào các môi trường sống, các điều kiện môi trường khắc nghiệt, như các ngọn núi đá vôi lộ thiên ở Đông Bắc Việt Nam, các loài sống ở đây thường có ít các sinh vật cạnh tranh hơn so với các môi trường sống ôn hoà hơn.

Mỗi nghiên cứu mới lại làm sáng tỏ thêm về các quần xã động vật có xương sống và không xương sống tại Việt Nam. Sự hạn chế của những điều tra trước đây mà nhìn chung chủ yếu tập trung vào chim và thú, cùng với việc tăng rõ rệt của các nghiên cứu bắt đầu vào những năm 1990 cho thấy kiến thức hiện tại của chúng ta về sự phong phú và phân bố loài ở Việt Nam vẫn còn chưa đầy đủ. Các giá trị về sự phong phú và tính đặc hữu của loài được đưa ra ở đây cần thiết phải thay đổi khi các loài mới được phát hiện cả trong tự nhiên cũng như trong các bộ sưu tập của bảo tàng và nơi giữ mẫu cây và khi phạm vi phân bố của các loài đã biết được xác định chính xác. Những cảnh báo này đặc biệt đúng đối với các nhóm được coi là đặc hữu ở trong nước và con số này có lẽ sẽ thay đổi khi các nghiên cứu được tiến hành ở cả Việt Nam và các khu rừng và đồng cỏ ít được điều tra tại các nước láng giềng Lào và Campuchia. Cuối cùng, các nghiên cứu (chủ yếu là di truyền) nhằm tìm hiểu các mối quan hệ về tiến hoá giữa các loài, giống và họ hoặc ở các bậc phân loại cao hơn sẽ có tác động đến một số trong các mối quan hệ này.

Thú là nhóm động vật có xương sống được biết rõ nhất ở Việt Nam, sau chim. Nhiều loài, đặc biệt là những loài có kính thước cơ thể nhỏ, là loài hoạt động ban đêm, hoặc là sống trên cây hoặc là sống dưới mặt đất và dựa vào ngụy trang và tập tính để tránh động vật ăn thịt. Các đặc điểm này và, cho đến gần đây, sự quan tâm hạn chế trong việc điều tra thú nhỏ, dẫn đến những hiểu biết về các bộ thú khác nhau có khác sự biệt rất rõ rệt.

Mặc dù rất khác nhau về kích thước, hình dạng bên ngoài và tập tính, tất cả các loài thú đều có chung một đặc tính. Đặc điểm đặc trưng nhất là con cái có khả năng nuôi con non bằng sữa, làm giảm những tác động của dao động trong môi trường lên con non đồng thời tăng tốc độ lớn và phát triển của chúng. Một đặc điểm nổi bật khác chúng thường có là bộ răng chuyên hoá trong đó răng (răng cửa, răng nanh, răng trước hàm và răng hàm) đã phát triển và thực hiện các chức năng khác nhau. Việc sử dụng sữa có thể đã thúc đẩy sự tiến hoá của các răng chuyên hoá bằng cách giúp chúng và hàm tránh bị các áp lực về chọn lọc như thu lượm và chế biến thức ăn ngay sau khi sinh ra. Cả hai đặc điểm này đã đóng góp cho việc đa dạng hoá về mặt tiến hoá của nhóm này.

Cho đến nay, hơn 270 loài thú đã được thống kê ở Việt Nam, trong đó có 7 loài thú mới được mô tả, hầu hết chúng là các loài có kích thước lớn thuộc các nhóm hươu và linh trưởng (xem phần phụ lục 3). Mặc dù những loài thú mới khác có lẽ sẽ được tìm thấy ở Việt Nam, hầu hết những loài thêm vào danh mục thú của đất nước đã và sẽ là những loài đã được biết ở những nơi khác nhưng mới được phát hiện từ những quan sát đầu tiên ở trong nước. Điều này đặc biệt đúng đối với các nhóm ít được biết đến như các loài ăn côn trùng (bộ Insectivora), dơi (bộ Chiroptera) và gặm nhấm (bộ Rodentia). Bên cạnh loài dơi tai Trường Sơn (Myotis annamiticus) mới được mô tả gần đây, 18 loài dơi mới được ghi nhận từ năm 1997 đến năm 2004. Những phát hiện này đã nâng tổng số các loài dơi ở Việt Nam lên đến gần 100, hoặc xấp xỉ một phần ba tổng số loài thú.

Sau dơi, các bộ có nhiều loài nhất ở Việt Nam là gặm nhấm (64 loài), ăn thịt (bộ Carnivora; 40 loài), linh trưởng (bộ Primates; 19 loài) và thú móng chẵn, trong đó có lợn, hươu và trâu bò rừng (bộ Artiodactyla; 18 loài). Việc chúng chiếm ưu thế ở Việt Nam phản ánh sự phong phú về loài của các nhóm này trên toàn cầu. Có số lượng loài ít hơn nhưng rất đặc biệt là các bộ chủ yếu phân bố ở vùng nhiệt đới của cựu lục địa, tê tê (bộ Pholidota; 2 loài) và đồi (bộ Scandentia; 2 loài). Các loài đặc hữu không phân bố đồng đều trong thú, với đa số là các nhóm có phân bố giới hạn tập trung ở linh trưởng (17), tiếp theo sau với số lượng ít hơn nhiều là thú móng chẵn (6) (xem phụ lục 2).

Trong số các quần xã thú nổi bật nhất của đất nước là nhóm các động vật ăn cỏ lớn và các động vật ăn thịt đi kèm theo có phân bố ở các rừng dầu bán thường xanh và rụng lá một mùa ở vùng đồng bằng tại miền Trung và Nam Trung Bộ của Việt Nam, trong đó có voi (Elephas maximus); tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus annamiticus); hai loài bò rừng, bò tót (Bos gaurus) và bò rừng (B. javanicus); nai cà tông (Cervus eldii); nai (C. unicolor); và sơn dương (Naemorhedus sumatraensis). Phân bố cùng với các loài thú lớn này là động vật ăn thịt, trong đó có hổ (Panthera tigris), báo hoa mai (P. pardus), báo gấm (Pardofelis nebulosa), chó rừng (Canis aureus), và họ hàng đi săn theo đàn của chúng, chó sói lửa (Cuon alpinus). Các quần thể thú này đã bị giảm số lượng đáng kể do săn bắn. Ba loài có phân bố tự nhiên trong môi trường sống này ở Việt Nam là bò xám (B. sauveli), trâu rừng (Bubalus arnee) và một phân loài của hươu vàng (Axis porcinus annamiticus) có lẽ là đã bị tuyệt chủng.

Bảy loài tê tê của châu Á và châu Phi có nhiều đặc điểm giống với thú ăn kiến ở Nam Mỹ. Cả hai nhóm này có móng khỏe và chỉ ăn kiến và mối bằng cách sử dụng lưỡi rất dài và dính. Hai loài tê tê phân bố ở Việt Nam có phạm vi phân bố không giao nhau tê tê vàng (M. pentadactyla) có phân bố giới hạn ở miền Bắc của đất nước và tê tê Java (M. javanica) giới hạn ở miền Trung và miền Nam. Đặc điểm bên ngoài đáng chú ý nhất của tê tê là các vẩy nằm chồng lên nhau bao phủ toàn thân trừ phía bụng và phía bên trong của chân. Có hình giống như lá atisô, các vẩy mầu nâu này được tạo thành từ chất sừng là protein cấu trúc và là thành phần chính của sừng, móng guốc, móng, lông và lông cừu của các loài thú. Bên cạnh vẩy, tê tê cũng nổi bật bởi cái mõm nhọn, thân thon dài, và đuôi dài, hình búp măng, có thể cầm nắm như có thể giữ chặt cành và nhánh cây. Cả tê tê vàng và tê tê Java đều dài 80-90cm từ mũi đến chóp đuôi và con đực lớn hơn con cái. Khi bị đe dọa, tê tê giương các vẩy về phía kẻ thù. Nếu hành động tự vệ này thất bại, chúng sẽ cuộn tròn lại thành một quả cầu rất chắc và che kín hoàn toàn tất cả những phần dễ bị tổn thương.

Ở phía bên trong, đặc điểm đáng chú ý nhất của tê tê là sự thích nghi cao độ với loại thức ăn chuyên hoá cao là kiến và mối. Sau khi định vị được con mồi bằng cách đánh hơi. Tê tê đào vào phía trong tổ kiến và tổ mối bằng móng rất khỏe của nó và lấy thức ăn ra bằng cái lưỡi khỏe và nhậy. Có chiều dài tới 25cm và gắn với khung chậu bằng các rễ cơ, lưỡi được bao phủ bằng nước bọt dính do tuyến nước bọt lớn nằm ở phía ngực tạo ra. Tê tê không có cơ nhai và không có răng và thay vào đó phụ thuộc vào các hoạt động nghiền của các hòn sỏi rất nhỏ nằm trong thành dày và nhiều cơ của dạ dày để tiêu hoá con mồi, giống như mề gà nghiền hạt.

Tê tê ở Việt Nam là các loài sống trên cạn, trong các hang sâu và hầu hết kiếm ăn trên mặt đất mặc dù chúng có thể trèo cây một cách dễ dàng. Chúng có lẽ đẻ 1 (hiếm khi 2) con và hoàn toàn do mẹ nuôi. Các con con được đẻ ra dưới lòng đất có vẩy mềm. Chúng xuất hiện sau 2 đến 4 tuần và mẹ mang chúng đi theo trên phần gốc của đuôi. Các tập tính và sinh thái khác của tê tê ít được biết đến. Tê tê thường được bán ở chợ để ăn thịt và vẩy được dùng làm thuốc. IUCN đã xếp cả tê tê vàng và tê tê Java vào mục sắp bị đe dọa và chúng được liệt kê vào phụ lục 2 của CITES.

Giống như các loài gặm nhấm, thú ăn công trùng là một trong số những nhóm thú ít được biết đến nhất ở Đông Nam Á. Thực trạng này một phần là do thiếu những nghiên cứu về hệ thống phân loại gây nên những nhầm lẫn về mặt phân loại đối với số lượng loài và cách nhận biết chúng và một phần khác là do nhiều loài trong số này rất khó tiếp cận và khó bắt. Nghiên cứu tổng quan đầy đủ nhất trong thời kỳ đầu về thú ở Đông Dương do Wifred H. Osgood thực hiện vào những năm 1930 khi ông nghiên cứu các mẫu vật thu được từ các chuyến khảo sát của Kelley-Roosevelts và Delacour. Việc điều tra thú nhỏ sử dụng những kỹ thuật bẫy tốt hơn được tiến hành trở lại vào những năm 1990 đã phát hiện ra nhiều loài thú ăn côn trùng ở Việt Nam hơn là từng được biết đến trước đây, trong đó có cả những loài mới và những ghi nhận về phân bố mới.

Bộ Insectivora đã từng được coi là một nhóm bao gồm nhiều chủng loại và là nơi để xếp tất cả những nhóm động vật có một vài những đặc điểm nguyên thủy đặc trưng cho các loài thú có nhau cổ đại được hình thành từ 90 triệu năm trước đây. Những đặc điểm này gồm có não nhỏ và đơn giản, bộ răng tương đối không chuyên hoá và (ở hầu hết các loài) tinh hoàn ở trong bụng và có một khoang chung và một lối ra chung để thực hiện chức năng sinh sản và cho tất cả các chất thải do trao đổi chất gọi là lỗ huyệt. Các loài như đồi đã từng được xếp vào Insectivora vì chúng có chung các đặc điểm này và không thể dễ dàng xếp vào các bộ khác. Các phân tích di truyền hiện nay về phần gốc cây phát sinh loài của thú và các quan hệ tiến hoá của các nhóm thú khác nhau sẽ còn chia nhỏ thêm bộ thú này.

Với xấp xỉ 425 loài, bộ Insectiovra đứng thứ 3 sau bộ gặm nhấm (xấp xỉ 2000 loài) và dơi (xấp xỉ 1000 loài) về mặt số lượng. Mười tám loài thú ăn côn trùng đã được ghi nhận tại Việt Nam. Những loài này thuộc 3 nhóm: chuột voi (2 loài), chuột chù (12 loài) và chuột chũi (4 loài). Chuột voi, chỉ phân bố ở châu Á và là họ hàng gần gũi của dím (họ Erinaceidae), trông bề ngoài hơi giống chuột và lông không có gai nhọn. Đầu và mõm thon dài và môi trên chìa ra ngoài môi dưới. Hai loài ở Việt Nam là chuột voi đồi (Hylomys suillus) và dím đuôi dài (H. sinensis) nặng 15-80g và dài 10-15cm từ đầu đến cuối thân. Chuột chù trông cũng tương tự nhưng nhỏ hơn nhiều, giống chuột nhắt hơn và thường có lông mầu xám hoặc mầu nâu. Loài chuột chù nhắt (Suncus etruscus), một loài có phân bố rộng tại Việt Nam, là loài thú sống trên cạn nhỏ nhất thế giới nặng dưới 2-2.5g và có chiều dài cơ thể 3.5-5cm. Chuột chũi dễ nhận biết do hai chân trước hoàn toàn biến đổi và rất khoẻ với bàn chân to, gần như tròn, xoay hẳn ra phía ngoài và có 5 móng to.

Insectivora gồm có những loài thú ăn mồi nhỏ nhất và các loài này rất đa dạng về tập tính cũng như môi trường sống. Hầu hết tất cả các loài chủ yếu chỉ ăn côn trùng, mặc dù một số loài có lẽ ăn gần như tất cả các dạng hữu cơ. Chúng rất hoạt động, luôn thèm ăn và có tốc độ trao đổi chất cao. Một vài loài chuột chù phải ăn liên tục sau một vài tiếng nếu không chúng sẽ chết. Tất cả các loài chuột chù có lẽ đều ăn phân của chúng để lấy các nguyên tố vi lượng và vitamin. Hầu hết các loài ăn côn trùng đều sống trên cạn và cư trú trong rừng, mặc dù một số ít thích nghi với sống trên cây, sống trong hang, hoặc sống nửa nước nửa cạn. Loài chuột chù cộc (Anourosorex squamipes) thích nghi với cuộc sống nửa đào bới, ở trong hang và loài chuột chù nước miền Bắc (Chimarrogale himalayica) thích sống trong các con suối trên núi là hai loài thú ăn côn trùng chuyên hoá phân bố ở Việt Nam.

Tập tính, sinh thái và phân bố hoặc tình trạng bảo tồn của hầu hết các loài thú ăn côn trùng, đặc biệt là ở châu Á, chưa được biết rõ vì kiểu sống bí ẩn của chúng. Phân bố của các loài chuột chù nhiệt đới có lẽ là khá hạn chế và mật độ quần thể của chúng thấp khiến chúng dễ bị tác động khi rừng bị biến đổi. IUCN xếp chuột chũi răng nhỏ (Euroscaptor parvidens) vào loại cực kỳ nguy cấp. Nó hiện nay chỉ phân bố ở hai nơi trên thế giới.

Mặc dù tên tiếng Anh của nó có nghĩa là chuột chù sống trên cây, các loài nằm trong bộ đồi Scandentia vừa không giống chuột chù vừa không thật sự thích nghi với đời sống trên cây. Thay vì đó, về mặt tập tính chúng giống với sóc nhất và về ngoại hình chúng khác so với sóc ở chỗ tai của chúng nhỏ hơn, dày hơn, lông đuôi ngắn hơn và thưa hơn và không có ria ở mép. Ban đầu chúng được xếp vào bộ Insectivora, từ năm những năm 1920 đến 1960, đồi được xếp vào bộ linh trưởng dựa trên các đặc điểm chung giống với linh trưởng trong đó có mắt hướng về phía trước và não tương đối lớn. Ngày nay được xếp vào một bộ riêng, chúng được một số nhà khoa học coi là nhóm có quan hệ gần gũi nhất với cầy bay (bộ Dermoptera) và một số khác cho là có quan hệ gần gũi với bộ Lagomorpha (thỏ).

Tất cả 19 loài đồi có giới hạn phân bố tại Nam và Đông Nam Á và đảo Borneo là nơi tập trung số lượng loài cao nhất (10 loài). Hai loài sống ở Việt Nam: đồi Bắc (Tupaia belangeri) sống nửa trên cạn và nhen (Dendrogale murina) chủ yếu sống trên cây. Mặc dù là loài kiếm ăn ban ngày và không thực sự là khó tìm, cho đến gần đây nhen chỉ được biết đến từ những địa điểm rời rạc được xác định trước đây ở vùng tận cùng Đông Nam Thái Lan và miền Trung và Nam Việt Nam. Tổng kết lại những ghi nhận từ năm 1998 đến năm 2002 cho thấy phân bố của chúng rộng hơn nhiều mặc dù vẫn mang tính địa phương cao trong đó có Campuchia, phía Nam Lào, và một phần ở miền Bắc Việt Nam. Đồi Bắc có phân bố khắp Đông Dương.

Tập tính và sinh thái của đồi ít được biết đến, mặc dù tất cả các loài đều kiếm ăn ban ngày và chủ yếu sống một mình. Trong ba loài được nghiên cứu (trong đó có đồi Bắc) thì đặc điểm về tập tính đáng chú ý nhất của đồi là mẹ (cá thể duy nhất chăm sóc con) rất ít chăm sóc con. Sau khi sinh con ở một cái tổ riêng biệt, mẹ đến thăm con, từ 1 đến 3 cá thể, hai ngày một lần và cho chúng ăn sữa có hàm lượng protein và chất béo cao. Các con non ra khỏi tổ sau một tháng và tự sống một mình. Đồi sống trong rừng (bao gồm cả rừng đã hơi xuống cấp) ở nhiều độ cao khác nhau.

Hai loài cầy bay nằm trong bộ Dermoptera có tên tiếng Anh là vượn cáo bay mặc dù chúng không phải là vượn cáo cũng không biết bay. Thay vào đó, chúng nằm trong nhiều sinh vật sống trên cây (trong đó có một số loài ếch, thằn lằn và rắn cũng như các loài thú khác) có các đặc điểm về hình thái thích nghi cao độ với việc lượn trên không. Một cái màng mỏng và lớn kéo dài từ mặt bên của cổ dọc theo phía bên ngoài chân cho đến tận cùng của ngón chân trước, sau và đuôi của cầy bay cho phép nó lượn hơn 70m mà không giảm độ cao nhiều.

Cầy bay (Cynocephalus variegatus) phân bố ở các đảo trên thềm lục địa Sunda tại Đông Nam Á và khắp vùng đất liền phía Nam, trong đó có miền Trung và Nam Việt Nam. Chúng nặng 1-1.75kg và chiều dài của đầu và thân là 34-42cm và chiều rộng của màng là 70cm. Con cái hơi to hơn con đực. Loài thứ hai là cầy bay Philipin (C. volans), có giới hạn phân bố tại đảo này, có kích thước nhỏ hơn đôi chút. Cầy bay hoàn toàn sống trên cây và kiếm ăn vào ban đêm. Chúng ăn lá, cành non, chồi và hoa (chúng thích nghi với việc tiêu hoá thực vật có lá) và đôi khi ăn thêm nhựa và quả cây. Hai đôi răng cửa phía trước có tới 20 chỗ lồi ra giống như răng lược (gọi là răng lược) mọc ra từ chân răng. Chức năng của răng lược này vẫn còn là điều bí ẩn, nhưng nó có thể được sử dụng như một cái nạo hoặc cái lọc khi ăn hoặc trợ giúp khi chải lông. Dễ bị chim ăn thịt tấn công khi lượn, cầy bay ở trong các hốc trên cây vào ban ngày hoặc bám chặt vào cây bằng các móng sắc của nó và ngụy trang bằng lông đốm mầu xám hoặc mầu nâu. Con non khi đẻ ra chưa phát triển đầy đủ và liên tục được giữ ở bụng của mẹ kể cả khi bay. Con non cai sữa khi sáu tháng tuổi. Khi nghỉ, con mẹ có thể gấp màng lượn vào một cái túi nhỏ ở gần đuôi và cũng là nơi giữ con non. Do khả năng tăng số lượng chậm, tình trạng bảo tồn của cầy bay là vấn đề vẫn còn đang tranh luận.

Dơi là nhóm thú duy nhất có khả năng sử dụng lực do cơ tạo ra để bay, khác với cầy bay và các nhóm khác sử dụng gió và lực hấp dẫn để lượn trên không. Xương cánh của dơi tương ứng với ngón tay và bàn tay của linh trưởng và biến đổi rất nhiều để giữ màng mỏng bằng da và chỉ còn ngón tay cái tự do và có chức năng hoạt động. Nó có dạng một cái móng nhỏ tại khớp cánh đầu tiên. Có lẽ vì khả năng biết bay làm giảm tỷ lệ tử vong do bị ăn thịt, dơi sống rất dài so với kích thước của chúng. Có nhiều thống kê ghi nhận dơi tự nhiên sống tới ít nhất 20 năm và một số sống đến hơn 30 năm. Dơi đã hình thành tỷ lệ sinh sản thấp (hầu hết các loài đẻ một con một năm), sự phát triển chậm của con non, và việc chăm sóc con kéo dài. Sự kết hợp của các đặc điểm này giống với các đặc điểm của linh trưởng và các loài thú lớn khác hơn là các loài thú nhỏ có kích cỡ gần giống chúng.

Dơi được chia thành 2 phân bộ khá khác nhau: megachiroptera (khoảng 170 loài) và microchiroptera (khoảng 800 loài). Dơi thuộc nhóm Megachiroptera, còn được gọi là cáo bay vì mặt của chúng giống với chó, có phân bố giới hạn ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của cựu lục địa. Nhìn chung, chúng lớn hơn dơi thuộc nhóm microchiroptera và có một số loài có sải cánh lên tới 1.5m và nặng hơn 1kg. Tất cả các loài thuộc nhóm này có mắt to và khả năng nhìn tốt và kết hợp với khả năng đánh hơi để định vị quả cây, mật hoa và hoa.

Dơi thuộc nhóm microchiroptera vừa đa dạng hơn về mặt sinh thái vừa có phân bố rộng hơn, có mặt ở tất cả các lục địa trừ Nam Cực. Nhỏ hơn nhiều so với nhóm dơi megachiroptera, chúng có trong lượng trong khoảng từ 200g đến nhẹ hơn 2g như trường hợp của loài dơi mũi lợn (Craseonycteris thonglongyai) đặc hữu ở Thái Lan. Nó có thể là loài động vật nhỏ nhất trên thế giới. Hầu hết các loài thuộc nhóm này ăn côn trùng bắt được trong khi bay trong khi đó một số loài khác chuyên ăn mật hoa, phấn hoa, cá và các động vật có xương sống nhỏ khác và máu. Một đặc điểm đặc trưng cho dơi thuộc nhóm này, và là đặc điểm gắn liền với số lượng loài phong phú của chúng, là chúng đều có khả năng định vị bằng âm thanh nghĩa là sử dụng âm thanh để phát hiện các vật thể. Chúng phát ra các xung siêu âm nhanh và có thể giải mã được các âm thanh và nhiễu vọng lại để phát hiện và phân loại các vật thể (gồm cả con mồi) và để tìm đường đi. Cái mũi hoa mỹ và rất nhiều chi tiết của chúng có lẽ là để giúp điều khiển và tập trung các âm thanh này và tai to có thể để thích nghi với việc phát hiện các âm thanh vọng lại. Chỉ có một giống của nhóm dơi này, dơi ngựa (Rousettus), có thể định vị bằng âm thanh, nhưng chúng sử dụng một hệ thống tặc lưỡi được tiến hoá độc lập và đơn giản hơn nhiều chỉ để sử dụng cho việc tìm đường di trong hang.

Trong số 91 loài dơi của Việt Nam, 11 loài thuộc nhóm megachiroptera và số còn lại thuộc 5 họ của nhóm microchiroptera. Thậm chí trong tình trạng chưa được khảo sát đầy đủ, đã có những bằng chứng về sự phong phú của quần xã dơi trong nước. Cuộc khảo sát tại Vườn Quốc gia Cúc Phương nằm ở phía Bắc Việt Nam vào năm 1997 xác định được 3.5% số lượng loài trên toàn thế giới. Con số này có thể lên đến 5% nếu được khảo sát kỹ hơn. Dơi có vai trò sinh thái quan trọng trong quần xã dưới hình thức thụ phấn và phát tán hạt cây. Việc mất rừng và mất các hang (đặc biệt ở vùng núi đá vôi) nơi chúng dùng làm chỗ ngủ là mối đe dọa chủ yếu đến sự tồn tại của chúng. IUCN xếp 4 loài dơi vào loại bị đe dọa toàn cầu. Một trong số đó là dơi thùy tai to (Paracoelops megalotis; thuộc loại cực kỳ nguy cấp) chỉ được ghi nhận một lần vào năm 1947. Một loài dơi đặc hữu khác của Việt Nam là loài dơi tai Trường Sơn rất nhỏ nặng 4g được tìm thấy tại tỉnh Quảng Bình ở phía Bắc của dãy Trường Sơn vào năm 2001.

Việt Nam có 3 trong số 5 họ linh trưởng của châu Á: vượn (họ Hylobatidae), khỉ và voọc (họ Cercopithecidae) và cu li (Lorisidae). Hai nhóm còn lại là vượn nhảy nhỏ (họ Tarsiidae) và đười ươi (phân họ Ponginae thuộc họ Hominidae) một thời đã phân bố ở trong đất liền nhưng đã di chuyển xuống phía Nam và đến nay chỉ phân bố giới hạn ở các khu rừng thường xanh ẩm ướt tại các đảo của thềm lục địa Sunda. Một nghiên cứu tổng quan năm 2004 về linh trưởng của châu Á đã công nhận 19 loài và 8 phân loài ở Việt Nam, nhưng tình trạng phân loại vẫn còn nhiều thay đổi, đặc biệt là khỉ.

Bên cạnh sự phong phú về số lượng loài và số lượng lớn các loài đặc hữu, rất nhiều loài linh trưởng ở Việt Nam bị đe dọa ở mức toàn cầu. Một nghiên cứu tổng quan về tình trạng bảo tồn của linh trưởng trên toàn thế giới vào năm 2002 đã xếp 4 loài linh trưởng đặc hữu của Việt Nam vào 25 loài bị đe dọa tuyệt chủng nhiều nhất trên toàn cầu: Voọc mông trắng (Trachypithecusdelacouri), voọc đầu trắng (T. poliocephalus poliocephalus), chà vá chân xám (Pygathrixnemaeus cinerea) và voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus). Loài thứ 5, là nhóm loài vượn đen tuyền (Hylobates [Nomascus] nasutus) ít được biết đến, chỉ phân bố ở vùng Đông Bắc của Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. IUCN xếp 4 loài linh trưởng của Việt Nam và loại cực kỳ nguy cấp, hai loài vào loại nguy cấp và 6 loài vào loại sắp nguy cấp. Tất cả các loài linh trưởng được xếp vào phụ lục 1 hoặc 2 của CITES.

Cu li phân bố ở vùng nhiệt đới của cựu lục địa thuộc phân bộ Strepsirrhini, cùng nhánh tiến hoá với vượn cáo của Madagasca (bộ phụ Chiromyiformes và Lemuriformes) và vượn cáo châu Phi (họ Galagonidae). Cùng với vượn nhảy nhỏ, chúng đã từng được gọi chung là vượn thuộc phân bộ Prosimii dựa vào các đặc điểm nguyên thủy chung. Chỉ có một giống cu li (Nycticebus) phân bố tại Việt Nam và cho đến năm 1961 tất cả cu li đều được phân loại trong cùng một loài (N. coucang). Đến nay 2 loài đã được công nhận là cu li lớn (N. bengalensis) và cu li nhỏ (N. pygmaeus). Có thể có loài thứ ba nhưng taxon này chưa được mô tả. Cu li lớn có phân bố rộng từ Đông Bắc Ấn Độ đến phía Nam bán đảo của Thái Lan. Cu li nhỏ có phân bố nhỏ hơn rất nhiều và chỉ xuất hiện ở Đông Dương và tận cùng phía Nam của Trung Quốc.

Cu li có lông ngắn, dày, giống len, đầu tròn, mắt to, tai nhỏ và nếu có tai thì rất ngắn. Cu li lớn nặng 1,2 kg và lông của nó có mầu da bò-da cam và ở phía ngoài cùng có mầu xám. Cu li nhỏ nhỏ hơn đáng kể và nặng 500g. Lông của nó có mầu đỏ hơn là mầu da cam nhạt. Cả hai loài này đều có vòng sẫm quanh mắt và cu li nhỏ có một sọc mầu nâu hơi sẫm, to chạy dọc trên lưng và tách ra ở trán và chạy xuống mắt. Cả hai loài cu li đều kiếm ăn vào ban đêm và sống trên cây. Chúng bò chậm dọc theo cành và thân cây để tìm để tìm côn trùng (kể cả những loài không ngon và độc) và ăn thêm quả cây. Cu li nhỏ cũng ăn nhựa cây bằng cách dùng răng giống như răng lược khoét vào thân cây. Cũng có nhiều khả năng các loài cu li khác cũng ăn nhựa cây. Mặc dù chúng thường sống một mình, cu li có thể sống thành các nhóm xã hội ổn định mà thành viên của nhóm sống phân tán. Vào ban ngày, cu li ngủ trên các chạc cây và các cành cây đan vào nhau. Con cái thường đẻ một con và con non cai sữa vào 6 hoặc 9 tháng tuổi. Mối đe dọa chủ yếu của cu li là săn bắt chủ yếu để làm dược phẩm truyền thống nhưng cũng để làm vật nuôi trong nhà. IUCN xếp cu li nhỏ vào loại sắp bị nguy cấp.

Khỉ ở cựu lục địa thuộc phân họ Cercopithecinae có tập tính giống như khỉ nói chung, thường là ồn ào, sống thành đàn, tò mò và hỗn láo. Trong số 11 giống của nhóm này, chỉ có khỉ thuộc giống Macaca là tới được châu Á. Năm loài và 1 phân loài có phân bố tại Việt Nam: Khỉ mặt đỏ (M. arctoides), khỉ mốc (M. assamensis), khỉ đuôi dài (M. fascicularis fascicularis) và một phân loài có phân bố chỉ giới hạn ở quần đảo Côn Đảo (M. f. condorensis), khỉ đuôi lợn (M. leonina) và khỉ vàng (M. mulatta). Chúng là nhóm linh trưởng dễ quan sát nhất ở Việt Nam và có lẽ là phổ biến nhất trong tự nhiên. Tuy nhiên, chỉ có một số lượng nhỏ những nghiên cứu về khỉ được thực hiện tại Việt Nam.

Khỉ của Việt Nam có thân hình đậm, kính thước trung bình, chân tay khoẻ, mặt không có lông, mũi thon dài và hàm khỏe. Mầu lông thay đổi từ mầu xám vàng đến mầu ôliu và hạt dẻ cho tới mầu nâu sẫm. Sự khác biệt lớn nhất giữa các loài là độ dài đuôi và kích thước cơ thể. Đuôi có chiều dài từ rất ngắn như ở khỉ mặt đỏ (1-10cm) tới rất dài như của khỉ đuôi dài (66cm), bằng chiều dài thân. Các loài khỉ của Việt Nam có kích thước cơ thể khác nhau con cái nặng từ 3.6-8.4kg và con đực nặng từ 5.4-12.2kg. Hầu hết các loài khỉ sống thành các đàn khá lớn và tổ chức theo hệ thống mẫu hệ theo những con cái có họ hàng gần gũi. Các con đực tách khỏi đàn sinh ra chúng khi chúng qua thời thanh niên và trong thời gian còn lại của cuộc đời chúng sống với nhiều đàn khác nhau và cả sống một mình. Bên trong cấu trúc này, sự cạnh tranh giao phối giữa các con đực cao và thúc đẩy sự phát triển kích thước cơ thể lớn và răng nhọn.

Khỉ thường ăn quả cây nhưng rất cơ hội và khả năng thích nghi cao. Khẩu phần ăn đa dạng của chúng bao gồm hầu như tất cả mọi thứ có thể ăn được. Sự linh hoạt này cho phép chúng tồn tại trong các môi trường bị biến đổi và chúng sẵn sàng sử dụng thức ăn của người và rác làm thức ăn của chúng. Khỉ vàng, là loài linh trưởng có phân bố rộng nhất, bị coi như một loài cỏ dại vì chúng sống gần nơi người ở (nếu không bị săn bắn) và chịu được các môi trường sống rất xáo trộn và thường cướp mùa màng làm thức ăn. Bốn loài khỉ của Việt Nam hình thành 2 cặp loài có phân bố về mặt địa lý giao nhau giữa 14o và 17o vĩ Bắc. Khỉ mốc và khỉ vàng nằm ở phía Bắc của vùng này và khỉ đuôi lợn và khỉ đuôi dài nằm ở phía Nam. Sự cùng tồn tại của chúng có thể được thúc đẩy do sự tách biệt về sinh thái: thành viên đầu tiên của từng cặp loài có phân bố giới hạn ở các khu rừng thường xanh lá rộng, trong khi đó thành viên thứ hai sống trong nhiều loại rừng khác trong đó có rừng ngập mặn và rừng trong đầm lầy than bùn. Loài thứ 5, khỉ mặt đỏ, có phân bố tại các khu vực rừng trong khắp cả nước. Khỉ bị săn bắn vì làm hại mùa màng, để sử dụng làm thuốc truyền thống và sự dụng làm vật nuôi cảnh khi chúng còn non. IUCN xếp, khỉ mặt đỏ, khỉ mốc, khỉ đuôi dài vào loại sắp nguy cấp.

Voọc là nhóm khỉ phân bố ở cựu lục địa, thuộc phân họ Colobinae, và chúng có số lượng loài cao nhất, khoảng 80%, ở châu Á. Tám loài và 4 phân loài thuộc 3 giống khác nhau, chiếm 44% tổng số taxon của linh trưởng tại Việt Nam, có phân bố từ biên giới Việt Nam-Trung Quốc đến châu thổ sông Mê Kông. Hiện trạng phân loại của hầu hết các loài vẫn còn chưa rõ ràng và giới hạn phân bố chúng (cả hiện tại lẫn trước đây) vẫn chưa được biết rõ. Voọc có lẽ là nhóm linh trưởng bị đe doạ nhiều nhất ở Việt Nam. IUCN xếp 1 loài vào loại sắp nguy cấp, 2 loài vào dạng nguy cấp và 3 loài vào dạng cực kỳ nguy cấp.

Voọc chủ yếu sống bằng lá cây và ăn thêm quả cây và hạt. Khả năng thích nghi của chúng với việc ăn nhiều thức có hàm lượng dinh dưỡng thấp được thể hiện qua sinh lý, sinh thái và tập tính của chúng. Để chứa và tiêu hoá một lượng lớn lá tiêu thụ, nhóm linh trưởng này có dạ dày lớn và được chia làm nhiều ngăn. Cùng với các tuyến nước bọt chuyên hoá, việc chia ngăn dạ dày cho phép chúng phân hủy các hợp chất độc của lá và lấy các chất dinh dưỡng nhờ các vi sinh vật sống trong ruột. Những vi sinh vật này có khả năng lên men chất xenluloza, thành phần cơ bản của thành tế bào thực vật, không tiêu hoá được. Về chức năng này, voọc giống với hươu, gia súc và linh dương (phân bộ Ruminantia) vì chúng cũng sử dụng quá trình lên men ở ruột trước để tiêu hoá một lượng lớn thực vật có ít chất dinh dưỡng. Khác với nhóm này, voọc cũng có đoạn ruột kết to, dạng túi hay là ruột sau cũng được dùng làm nơi lên men.

Voọc có đuôi dài, sống trên cây và thân hình thon. Một số có hình dạng như mang túi vì chúng mang dạ dày lớn, một đặc điểm đáng chú ý ở chà vá (giống Pygathrix). Các loài thường được phân biệt bằng mầu lông và sự khác nhau của các vòng xoắn, ngực, và các túm lông phía trên đầu của chúng. Lông của con mới sinh thường có mầu trái ngược với con trưởng thành, đôi khi khá nổi bật, như trường hợp của voọc mông trắng, con trưởng thành gần như là mầu đen nhưng con non có mầu da cam sáng. Các đàn voọc được tổ chức dựa trên nhóm trung tâm gồm có một con đực, một hoặc hai con cái và các con non ngoài ra nhiều con đực và con cái khác có kích thước rất khác nhau cùng tập trung lại. Đàn voọc mũi hếch có hàng trăm con đã từng được quan sát. Đàn có số lượng lớn được hình thành nhờ các nguồn thức ăn phong phú và sinh lý chuyên hoá. Ba loài chà vá, 8 loài voọc chính thức, và 1 loài voọc mũi hếch của Việt Nam khác nhau rất nhiều về hình dạng bên ngoài, kích thước cơ thể, kích cỡ của đàn, phân bố và môi trường sống. Hầu hết các loài này đều bị đe dọa do việc săn bắt lấy thịt, làm thuốc, và dùng làm vật nuôi cảnh và hiện nay chúng chỉ còn lại các quần thể bị chia cách và bị giảm số lượng một cách nhanh chóng.

Vượn là thành viên của siêu họ Hominioidea có mức độ đa dạng cao nhất, phân bố rộng nhất, trừ người hiện đại (Homo sapiens), và số lượng nhiều nhất. Siêu họ này còn có đười ươi, tinh tinh (giống Pan), đười ươi (giống Gorilla) và người (giống Homo). Chúng chủ yếu phân bố ở các cánh rừng thường xanh nhiệt đới ẩm ướt tại cựu lục địa, kéo dài từ cực đông của Ấn Độ tới các đảo Sumatra, Java và Borneo. Quan hệ về mặt tiến hoá giữa các loài vượn vẫn còn là một trong những vấn đề hóc búa nhất về phân loại của các động vật trên cạn lớn tại Đông Nam Á. Tất cả các loài vượn ở Việt Nam đều là vượn đen thuộc phân giống Nomascus nằm trong giống Hylobates.

Vượn có thân hình thon và thanh, tay dài và khỏe và không có đuôi. Mặc dù chúng gần như hoàn toàn sống trên cây, vượn là nhóm thích nghi nhất với việc đi thẳng trong số khỉ không đuôi khi chúng đi dọc theo các cành cây to hoặc đôi khi đi trên mặt đất ở trong rừng. Mắt của chúng lớn, màu sẫm, luôn tò mò được bao bọc xung quanh bởi lớp da mặt mầu đen không có lông và phía trên đỉnh đầu của chúng có một túm lông dựng đứng mà ở con đực có dạng như mào đó là lý do tại sao tên tiếng Anh của chúng là vượn mào. Mặc dù con đực và con cái chỉ khác nhau đôi chút về kích thước cơ thể, các nhóm đều có cân nặng trung bình 5.7kg, tất cả các loài vượn đều có sự khác nhau về mầu lông giữa con đực, con cái, con mới đẻ và con non. Con đực thường có mầu đen với túi má có mầu thay đổi từ trắng như ở loài vượn đen má trắng (H. [N.] leucogenys; hình 21) đến mầu vàng đỏ như ở loài như ở loài vượn đen má hung (H. [N.] gabriella) cho đến đen như ở vượn đen tuyền (H. [N.] concolor). Con cái có mầu sáng, từ vàng nhạt cho đến nâu vàng, và có chóp phía trên đầu mầu đen. Con mới đẻ có mầu sáng giống như mẹ nhưng không có mầu sẫm phía trên đầu. Lông của chúng chuyển sang đen tuyền trong năm đầu hoặc năm thứ hai. Lông của con cái sẽ thay mầu sau đó khi chúng đến tuổi trưởng thành và chuyển mầu hoàn toàn ngay trước khi chúng rời đàn đã sinh ra chúng.

Vượn khác với các nhóm linh trưởng khác ở sự kết hợp của 3 đặc điểm: phương pháp vận động, cấu trúc xã hội một vợ một chồng và các quãng hú phức tạp. Vượn di chuyển trong rừng bằng tay, đu và xoay về phía trước từ tay nọ sang tay kia trong khi treo lơ lửng trên các cành và phiến lá cây và chúng thường giữ nguyên trạng thái lơ lửng này khi dừng lại. Cấu trúc giải phẫu chuyên hoá, trong đó có ngón tay dài hình móc, các khớp vai linh động và tư thế đi thẳng cho phép chúng thực hiện các tập tính này. Đu bằng tay và treo lơ lửng có lẽ là sự thích nghi với đời sống trên cây và với thức ăn có thành phần cơ bản là quả cây chín và bổ sung bằng trồi cây non và lá. Vượn sống một vợ một chồng. Đàn vượn thường có một cặp trưởng thành kèm theo 1 cho đến 3 con có khoảng cách về tuổi là 3 năm và chúng ở cùng đàn cho tới khi khoảng 8 tuổi. Cặp trưởng thành có lãnh thổ riêng và chúng canh giữ một diện tích ở khoảng 40-500 hecta trong đó có những cây có khả năng cung cấp thức ăn trong cả năm.

Tất cả các loài vượn đều hú, tạo ra tiếng kêu to và phức tạp và khác nhau giữa các loài cũng như giữa hai giới tính. Các cặp vượn thường hú ở dạng hợp xướng, tạo ra các tiếng hú đôi từ trước bình minh cho tới giữa buổi sáng. Tần số của các lượt hú này thay đổi từ 2 lần trong 1 ngày cho đến 5 ngày một lần, phụ thuộc vào mùa, thời tiết và mật độ của vượn. Con cái có tiếng hú hay, cất cao lên, hơi kỳ lạ, tuy nhiên là tiếng huýt rất mạnh mẽ và con đực cùng hợp xướng bằng tiếng kêu có nhiều đoạn ngắt quãng hơn và thường thêm đoạn cuối sau khi con cái kết thúc. Có thể nghe thấy từ khoảng cách vài kilômet, những tiếng kêu này báo hiệu sự có mặt của cặp vượn và để giảm bớt việc xâm phạm lãnh thổ và giảm sự đối đầu với các nhóm vượn khác. Con đực sống một mình có thể hú một mình trong khi tiếng kêu mà vượn non thêm vào trong nhóm khi chúng trưởng thành giống với tiếng kêu của con cái.

Bốn loài và hai phân loài vượn của Việt Nam có phân bố hầu như là không giao nhau và kéo dài từ miền Bắc của đất nước cho đến phía Nam của dãy Trường Sơn. Chúng thích sống trong rừng thường xanh nguyên sinh hoặc rừng thường xanh thứ sinh đã trưởng thành có tán lá gần như kín. Loài sống ở tận cùng phía Nam, loài vượn đen má hung, cũng phân bố trong các khu rừng nửa thường xanh. Mối đe dọa lớn nhất đối với vượn là săn bắn làm thức ăn và làm thuốc hoặc làm vật kỷ niệm chiến công hoặc làm vật nuôi cảnh. Chúng tương đối dễ bị tác động bởi sự xuống cấp của môi trường sống vì chúng sống dựa vào các loại rừng ít bị ảnh hưởng. IUCN xếp hầu hết các loài vượn vào loại bị đe dọa toàn cầu, trong đó có cả loài vượn đen tuyền phân bố phía Đông (H. [N.] sp. cf. nasutus nasutus) được xếp vào loại cực kỳ nguy cấp. Loài vượn này đặc hữu ở miền Bắc Việt Nam và chỉ có một quần thể được biết đến.

Động vật ăn thịt đã gây sự chú ý của con người trong hàng ngàn năm vì tốc độ, năng lượng, khả năng rình rập, tính hiệu quả, sự thông minh và tập tính phức tạp và linh động của chúng. Dịch từ gốc liếng Latinh, từ carnivore có nghĩa là ăn sống (vorous-) thịt (carni-). Mặc dù hầu hết động vật ăn thịt có ăn một lượng rau và một số ít như gấu trúc đỏ (Ailurus fulgens) phân bố ở dãy Himalaya hoàn toàn không ăn thịt chỉ ăn măng tre, tất cả các thành viên của bộ Carnivora có một tổ tiên chung có đặc điểm ăn thịt. Nhóm tiến hoá này có đặc điểm chung là răng biến đổi để thích nghi với việc cắt đứt và cắt mỏng, xương cổ tay hợp nhất lại và xương đòn tiêu giảm nhiều có lẽ là để giúp cho việc chạy và tăng khả năng linh động. Thời gian mang thai ngắn duy trì sự nhanh nhẹn và con đẻ ra vừa nhỏ vừa không mở mắt. Con non sống cùng với mẹ, cha mẹ, hoặc nhóm xã hội trong một thời gian dài để học săn và cách tồn tại.

Thịt, mặc dù có nhiều chất dinh dưỡng hơn và dễ tiêu hoá hơn thực vật, lại không nhiều bằng thực vật và khó kiếm được hơn. Động vật ăn thịt luôn có số lượng ít hơn con mồi của chúng và số lượng cũng như mật độ của chúng bị hạn chế chủ yếu do số lượng quần thể của con mồi. Sự mất cân bằng giữa động vật ăn thịt và con mồi này khiến động vật ăn thịt phải cạnh tranh với các thành viên cùng loài cũng như với các loài động vật ăn thịt khác sống trong cùng một môi trường sống. Đây có lẽ là lý do tại sao hầu hết các động vật ăn thịt đều có lãnh thổ riêng và khi các loài ăn thịt sống chung với nhau chúng thường khác nhau về kích thước cơ thể, loại thức ăn ưa thích và kiểu hoạt động. Các động vật ăn thịt có khả năng đánh hơi tốt và được sử dụng để tìm con mồi và để liên lạc với các cá thể khác thông qua nước tiểu, phân và (ở hầu hết các loài) các tuyến mùi.

Tất cả 12 họ động vật ăn thịt hiện tại đều được hình thành trong kỷ Eoxen và Oligoxen (54-26 triệu năm trước đây). Khoảng 50 triệu năm trước đây đã diễn ra một sự tách biệt lớn phân chia bộ này thành nhánh giống mèo và ngày nay có mèo, cầy, linh cẩu và cầy lỏn và nhánh giống chó đa dạng hơn gồm có chó, gấu, chồn và gấu trúc Mỹ. Nhánh thứ hai cũng bao gồm các loài thích nghi với đời sống trên biển như con moóc và hải cẩu (phân bộ Pinnipedia). Chúng tách ra khỏi các động vật ăn thịt trên cạn (phân bộ Fissipedia) khoảng 25 triệu năm trước đây.

Ba mươi chín loài thuộc 6 họ động vật ăn thịt đã được liệt kê ở Việt Nam. Sau linh trưởng, động vật ăn thịt là một trong số các bộ bị đe dọa nhiều nhất ở Việt Nam và IUCN xếp 6 loài vào loại bị đe dọa toàn cầu. Do bản năng săn mồi và khả năng đặc biệt của một số nhóm nằm trong bộ này, động vật ăn thịt thường có xung đột với con người. Vì tiềm năng vốn có của chúng, động vật ăn thịt cũng dễ bị tác động của việc săn bắt để phục vụ mục đích tiêu dùng và làm thuốc truyền thống.

Họ Canidae là nhánh cổ đại nhất của động vật ăn thịt hiện đại và là nhóm có phân bố rộng nhất, với các thành viên của chúng có mặt ở hầu hết tất cả các lục địa. Là động vật ăn thịt có kích thước trung bình, chân dài, thân hình cao gầy và nhanh nhẹn và đuôi có nhiều lông, chó là động vật rất thích nghi với đời sống ăn thịt và săn mồi trên đồng cỏ và các cảnh quan trống khác. Mặc dù chúng có các răng nanh lớn và các răng cắt hữu hiệu, kiểu răng của chó tương đối đồng đều và không chuyên hoá. Đây là một thứ vũ khí chung tốt nhưng không thể cắn chết. Thay vì đó, chó tấn công vào cổ hoặc mũi của con mồi làm chúng không cử động được và kéo con mồi xuống trước khi giết chúng.

Ngoài hình thái tương đối ít thay đổi, đặc điểm đặc trưng của chó là tập tính tận dụng cơ hội, linh hoạt và có khả năng thích nghi cao. Sự linh hoạt này được thể hiện thường xuyên trong cách tổ chức xã hội thường là phức tạp. Nền tảng của các xã hội này là xu hướng phổ biến tiến tới một vợ một chồng. Khi lợi ích của việc sống với các cá thể khác lớn hơn các thiệt hại có thể xảy ra (như tăng cạnh tranh về thức ăn và tìm đôi hoặc dễ bị nhiễm vật ký sinh), chúng có thể hình thành các đàn lớn hơn có nhân tố là các đôi sinh sản. Điều này dẫn đến tập tính cộng tác trong đi săn và chăm sóc con non, kèm theo các hệ thống địa vị theo thứ bậc có ảnh hưởng lớn, giao tiếp xã hội phức tạp thông quả vẻ mặt, ngôn ngữ cơ thể, âm thanh và mùi việc tách đàn chậm lại của các con non và sự ngừng sinh sản của các con trưởng thành cùng đàn. Một trong số 4 loài chó ở Việt Nam, chó sói lửa, sống thành đàn và cùng đi săn. Cả chó rừng và cáo lửa (Vulpes vulpes) đều sống một vợ một chồng nhưng trong khi các cặp chó rừng có thể cùng nhau săn con mồi lớn, cặp cáo lửa thường đi săn một mình. Loài cuối cùng, lửng chó (Nyctereutes procyonoides) là một trong số các loài chó cổ đại nhất. Chúng tách ra khỏi họ hàng của chúng khoảng 8 đến 12 triệu năm trước đây. Hơi giống lửng (giống Procyon) về hình dạng bên ngoài, kiểu răng và thức ăn, chúng là loài chó duy nhất ngủ đông. Tại Việt Nam, cả lửng chó và cáo lửa đều có phân bố giới hạn ở miền Bắc và là tận cùng phía Nam của vùng phân bố hẹp của chúng. IUCN xếp chó sói lửa vào loại nguy cấp.

Gấu là loài ăn thịt lớn nhất ngày nay. Chúng dễ dàng phân biệt bởi thân hình đồ sộ, chân ngắn và mập, móng khỏe, đuôi nhỏ, đầu to, mắt nhỏ và tai tròn. Trong quá trình tiến hoá, nhóm động vật gồm 8 loài này đã đổi tốc độ lấy sức khoẻ và tầm vóc cơ thể lớn và, với một ngoại lệ là gấu Bắc cực (Ursus maritimus), đổi khẩu phần thức ăn chủ yếu là thịt sang thức ăn có thành phần thay đổi và ăn tạp. Kích thước cơ thể lớn giúp gấu tránh bị ăn thịt và cho phép chúng ăn nhiều hơn, tấn công con mồi lớn và tích lũy mỡ dự trữ để tồn tại qua thời kỳ thiếu thức ăn và thời tiết lạnh. Các thành viên trong bộ không có răng cắt đặc trưng, nhưng sọ của chúng có các cơ hàm khỏe và răng hàm to để nghiền thức ăn.

Hai loài gấu khác nhau về kích thước, sở thích về môi trường sống và về dạng thức ăn phân bố khắp Việt Nam. Gấu ngựa (U. thibetanus) có kích thước lớn hơn chủ yếu ăn thực vật trong khi đó gấu chó (U. malayanus) nhỏ hơn ăn cả thực vật và côn trùng. Cả hai loài này được xếp vào phụ lục I của CITES.

Mustelidae là họ lớn nhất trong số các họ của động vật ăn thịt, với 65 loài được công nhận vào năm 2003. Các thành viên của họ này sống trong nhiều loại môi trường khác nhau và một số có cấu trúc cơ thể khác xa với cấu trúc chung là thân dài và chân ngắn. Hầu hết các loài chồn đều ăn thịt nhiều có răng nanh to và răng cắt sắc và khẩu phần ăn của chúng bao gồm thú nhỏ sống trong hang, chim, thằn lằn, ếch, cá, trứng và động vật không xương sống. Chúng là các động vật săn mồi tàn nhẫn và gan lì và nhiều loài săn cả những con mồi lớn hơn chúng. Chồn thường sống một mình và tất cả (trừ rái cá biển, Enhydra lutris) đều có các tuyến hậu môn tiết ra các chất có mùi hôi, hăng và như xạ được sử dụng cùng với nước tiểu và phân để báo hiệu sự có mặt, tình trạng và ý định.

Mười ba loài thuộc 3 nhóm chính đã được thống kê tại Việt Nam: chồn và chồn mactet (phân họ Mustelinae), con lửng (phân họ Melinae) và rái cá (phân họ Lutrinae). Bốn loài chồn và 1 loài chồn mactet có phân bố giới hạn ở miền Bắc của đất nước và trong đó có triết Xibiêri (Mustela sibirica), có quan hệ họ hàng gần gũi với chồn núi Inđô (M. lutreolina) sống trên vùng cao nguyên của Sumatra và Java. Hai nhóm tiến hoá này có lẽ đã bị tách biệt do khí hậu và sự dao động của mực nước biển trong thời kỳ Pleitoxen (1.8-0.01 triệu năm trước đây) hoặc trước nữa. IUCN xếp loài thứ hai, triết chỉ lưng (M. trigidorsa) vào loại sắp nguy cấp. Loài chồn ít được biết đến này phân bố ở một khu vực nhỏ kéo dài từ Bhutan đến tỉnh Vân Nam Trung Quốc và về phía Nam đến Thái Lan, Lào và Việt Nam.

Bốn loài lửng, nhóm bắt nguồn từ các khu rừng châu Á, có phân bố ở Việt Nam trong đó có chồn bạc má Miến Điện (Melogale personata) và chồn bạc má Bắc (M. moschata). Với thân hình dài, gầy và có các vết trên mặt dễ nhận biết, các loài chồn này trên thực tế có quan hệ họ hàng gần gũi với chồn và rái hơn là với các loài lửng sống trong hang khác.

Các loài rái cá của Việt Nam là những loài chồn bị đe dọa nhiều nhất. Các bằng chứng từ Thái Lan gợi ý là rái cá lông mượt (Lutrogale perspicillata), rái cá thường (Lutra lutra) và rái cá vuốt bé (Aonyx cinerea) có thể chung sống bằng cách ăn các loại thức ăn dưới nước khác nhau, theo thứ tự chúng chuyên hoá ăn cá to, cá nhỏ và cua nước ngọt. Rái cá mũi lông (Lutra sumatrana) được phát hiện lại tại Việt Nam năm 2000 không có phân bố trùng với phân bố của rái cá thường. Rái cá định vị con mồi dưới nước bằng các ria cứng trên mũi, mõm và trên khuỷu chân và, trong trường hợp của rái cá vuốt bé, bằng cách chạm vào con mồi. Vì chúng là động vật săn mồi chiếm ưu thế trong các vùng đất ngập nước, chúng nhậy cảm với ô nhiễm và có thể tích lũy các hợp chất độc trong mô của chúng. Chúng cũng bị đánh bẫy để lấy da và làm thuốc. IUCN đã xếp rái cá lông mượt vào loại sắp nguy cấp và rái cá vuốt bé và rái cá thường vào loại gần bị đe dọa. Hiện chưa có đủ thông tin để đánh giá tình trạng bảo tồn của rái cá mũi lông.

Họ Viverridae có 17 loài gồm có cầy, cầy lisang và cầy genet phân bố khắp châu Á, châu Phi và bán đảo Iberian của châu Âu. Mười loài trong số này có phân bố tại Việt Nam. Thường được gọi là mèo cầy để chỉ cơ thể thon, nhanh nhẹn và tập tính kín đáo, nhút nhát, nhóm động vật ăn thịt có kích thước từ nhỏ đến trung bình này có mõm thon dài giống mõm cáo hơn là mõm mèo. Cầy có lẽ là nhóm động vật ăn thịt ít thay đổi nhất về mặt tiến hoá, thể hiện qua việc giữ lại rất nhiều đặc điểm của nhóm động vật được cho là tổ tiên của chúng như kích thước nhỏ, nửa sống trên cây và kiếm ăn ban đêm. Không giống như hầu hết những nhóm khác, cơ thể chúng không có các đặc điểm thích nghi với việc đuổi theo con mồi và thay vào đó chúng sử dụng chiến thuật rình mồi và răng của chúng gần như không chuyên hoá. Cầy thường sống một mình và kiếm ăn vào ban đêm. Chúng có mầu lông thay đổi từ da bò đến mầu nâu sẫm và có các sọc và chấm mầu sẫm hơn. Móng co rút được hoặc nửa co rút để trèo và có tuyến đáy chậu tiết ra mùi rất hôi (nằm giữa hậu môn và bộ phận sinh dục) để đánh dấu bằng mùi.

Trong số các loài cầy ở Việt Nam, chỉ có cầy vằn (Chrotogale owstoni) được IUCN xếp vào loại bị đe dọa toàn cầu và xếp vào loại sắp nguy cấp. Cầy rái cá (Cynogale lowei) là một loài đặc biệt sống nửa nước nửa cạn chỉ được biết đến từ một bộ da thu thập được tại tỉnh Bắc Cạn miền Bắc Việt Nam vào năm 1926 hiện nay vẫn chưa được đánh giá nhưng có lẽ phải được xếp vào loại bị đe dọa nếu vẫn còn tồn tại. Cầy Tây Nguyên (Viverra tainguensis), được mô tả vào năm 1997 từ vùng phía Nam dãy Trường Sơn, có thể không phải là loài mới và thay vào đó là một đại diện (có thể là phân loài) của cầy giông (V. zibetha).

Mèo là thành viên đúng nghĩa nhất của động vật ăn thịt vì chúng gần như không ăn thực vật. Đặc điểm ăn nhiều thịt này đã hình thành và hạn chế hình thái, tập tính và cấu trúc xã hội của nhóm động vật này. Tất cả các loài mèo đều là các con vật săn mồi đi lén theo và rình rất hiệu quả. Hàm ngắn, khoẻ kết hợp với răng nanh to cho phép mèo cắn chết con mồi khi cắn vào cổ, cắt đứt cột sống hoặc cắn chặt vào cổ con mồi lớn hơn làm chúng không thở được. Chân trước khoẻ và móng co rút được cho phép mèo ôm chặt con mồi trước khi giết chúng bằng cách giữ hoặc kéo chúng xuống. Mèo cũng có mắt to và hướng về phía trước nằm ở phía trên của sọ là ống nhòm lý tưởng và giúp nhìn xa cho phép chúng phát hiện chuyển động và xác định khoảng cách trước khi tấn công. Lông của mèo thường màu hung và ở nhiều loài sống trong rừng mầu lông này có thêm các vằn sọc và chấm để giúp chúng ngụy trang trong môi trường có đốm sáng. Mèo hiện đại hơi khác với tổ tiên của chúng ở cấu trúc chung của cơ thể. Các loài khác nhau chủ yếu ở kích thước và mầu lông.

Tám trong số 10 loài mèo châu Á có phân bố ở Việt Nam. Trong lịch sử, hầu hết chúng đều có phạm vi phân bố rộng khắp trên cả nước trừ mèo gấm (Pardofelis marmorata) có lẽ là chỉ giới hạn ở phía Bắc. Hai loài nhỏ nhất, mèo gấm và mèo rừng (Prionailurus bengalensis), cân nặng từ 2.5 đến 3.5kg và xấp xỉ kích thước của mèo nuôi (Felis sylvestris catus). Mèo gấm sống trong rừng và ăn nhiều loại động vật có xương sống và côn trùng nhỏ. Mèo rừng ít được biết đến, sống nhiều trên cây hơn và ăn chim bổ xung thêm bằng thú nhỏ và có thể là ếch và thằn lằn. Loài mèo lớn nhất ở Việt Nam là hổ có phân bố ở phía Bắc (P. t. corbetti). Con đực nặng 150-195kg và dài 2.55-2.85m từ đầu đến gốc đuôi. Hươu (họ Cervidae) và lợn rừng (họ Suidae) là thành phần thức ăn chủ yếu của hổ, mặc dù chúng có thể ăn con mồi nhỏ như ếch và to như bò rừng (giống Bos) nặng 1000kg. Việt Nam cũng là nơi cư trú của một phân loài phân bố ở Đông Dương thuộc loài báo hoa mai (P. p. delacouri) và của loài báo gấm đẹp nhưng khó tiếp cận. Lông của báo gấm dễ nhận thấy nhờ các vết sẫm trông như mây một phần được viền bằng mầu đen tương phản với mầu lông nền thay đổi từ mầu xám hơi sẫm đến mầu nâu vàng. Nó là loài mèo trèo rất giỏi, phần lớn thời gian ở trên cây và ăn linh trưởng, chim và hươu.

Không phân biệt kích thước, tất cảc các loài mèo của Việt Nam đều bị đe dọa do săn bắt để lấy lông và dùng làm thuốc truyền thống. Hổ cũng bị đe dọa bởi sự giảm sút của con mồi. Chúng có thể cần ít nhất 5-6kg thịt một ngày. Trong các khu vực nơi săn bắn đã làm giảm các quần thể con mồi có kích thước trung bình, hổ chỉ còn lại ở mật độ rất thấp nếu chúng còn tồn tại. IUCN xếp 4 loài mèo của Việt Nam vào loại sắp nguy cấp đó là báo gấm, mèo gấm, báo lửa (Catopuma temminckii) và mèo cá (Prionailurus viverrinus). Hổ được xếp vào loại nguy cấp. Quần thể của cả năm loài này đều đang giảm sút.

0