Khoa học, công nghệ và đổi mới ở Trung Quốc ?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Hệ thống KHCNĐM đã chuyển đổi từ hệ thống nghiên cứu và phát triển dựa vào khoa học theo mô hình Xô-viết sang hệ thống đổi mới sáng tạo dựa trên thị trường lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Trong khi chính sách “mở cửa” của Trung Quốc đã ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Hệ thống KHCNĐM đã chuyển đổi từ hệ thống nghiên cứu và phát triển dựa vào khoa học theo mô hình Xô-viết sang hệ thống đổi mới sáng tạo dựa trên thị trường lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Trong khi chính sách “mở cửa” của Trung Quốc đã giúp họ có thể tiếp cận nguồn vốn và công nghệ nước ngoài, tạo ra các lĩnh vực hoạt động có hàm lượng tri thức cao và vươn lên cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, thì chính sách này cũng làm tăng thêm sự phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. Hệ thống đổi mới quốc gia mang nặng đặc điểm về những khác biệt giữa các vùng. Bắc Kinh có một cơ sở khoa học mạnh mẽ, với nhiều viện nghiên cứu công, bao gồm Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS), và các trường đại học hàng đầu; các trung tâm NC&PT quốc gia với các mối liên kết toàn cầu. Thượng Hải có một cơ sở công nghiệp quy mô lớn, với cường độ NC&PT cao.
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2009) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010 |
|
|
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 1,32 | +3,5 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 1,77 | +17,9 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 0,43 | +15,7 |
Quảng Đông có một hệ thống đổi mới sáng tạo dựa vào các công ty (chế tạo) nước ngoài và chiếm đến hơn một nửa số bằng sáng chê PCT của Trung Quốc (gần hai phần ba trong lĩnh vực CNTT-TT). Ngược lại, các vùng phía Tầy Trung Quốc lại thiếu khả năng tiếp thu cần thiết để nắm bắt dòng tri thức từ các vùng ven biển và nước ngoài. Sự cộng tác giữa các khu vục, thể hiện qua dữ liệu sáng chế, vẫn còn yếu. Kết quả NC&PT của Trung Quốc tính theo số bằng sáng chế vẫn còn thấp, mặc dù các công ty Trung Quốc rất tích cực trong cả hai vai trò người thực hiện NC&PT hay nhà thầu. Khu vực doanh nghiệp chiếm 72% GERD (1,30% GDP). Tài trợ của doanh nghiệp chiếm 11% nghiên cứu hàn lâm (0,06% GDP). Trong thập kỷ qua, ưu thế công nghệ hiện hữu của Trung Quốc đã tăng lên về CNTT-TT nhưng vẫn rất kém trong các lĩnh vực công nghệ sinh học và công nghệ xanh. Hoạt động kinh doanh sáng tạo bị hạn chế do những ràng buộc về pháp lý và hành chính. Ưu thế cùa các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực công ích, có xu hướng làm giảm áp lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Cơ sở hạ tầng CNTT của Trung Quốc phát triển nhanh, nhưng về bình quân đầu người, sử dụng CNTT và sự sẵn sàng chính phủ điện tử vẫn thấp so với mức trung bình của OECD. Mặc dù Trung Quốc có số nhà nghiên cứu lớn nhất thế giới vào năm 2007, nhưng số nhân lực có trình độ đại học vẫn thấp. Tuy nhiên, điều này đang thay đổi nhanh chóng, với tỷ lệ đạt trình độ đại học ở những người độ tuổi 25-34 đã tăng cao hơn gấp đôi so với nhóm độ tuổi 55-64.
Những thay đổi gần đây trong chi tiêu KHCNĐM: GERD của Trung Quốc đã tăng hơn gấp đôi chỉ trong vòng 5 năm (2005-2010) lên 179 tỷ USD. Từ năm 2009, Trung Quốc có mức chi tiêu NC&PT lớn thứ 2 thế giới sau Mỹ. GERD đạt 1,77% GDP trong năm 2010. Tỷ trọng BERD trong GERD đã tăng lên mức cao nhất của các nước thuộc OECD, và NC&PT do doanh nghiệp tài trợ đạt 93%.
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Kế hoạch trung và dài hạn về phát triển KH&CN 2006-2020 (MLP) đã đề ra kế hoạch chi tiết nhằm thúc đẩy Trung Quốc tiến lên một nền kinh tế dựa vào đổi mới sáng tạo vào năm 2020. Phấn đấu chi tiêu NC&PT đạt 2,5% GDP. Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 hiện nay về phát triển KH&CN (2011-2015) đóng một vai trò trung tâm trong việc thực hiện MLP và chú trọng đán các công nghệ then chốt phục vụ cho các ngành công nghiệp chiến lược và mởi nổi (chế tạo, nông nghiệp, CNTT), làm giảm áp lực về năng lượng, tài nguyên và môi trường, và thích nghi với các nhu cầu của dân số già hóa (dược phẩm, thiết bị y tế).
Chính sách quản trị KHCNĐM: Quản trị KHCNĐM của Trung Quốc đặc trưng bởi một chính quyền trung ương mạnh trong việc thiết lập các định hướng chiến lược, mục tiêu và khung chính sách. Chính quyền địa phương có thể vận dụng chiến lược KHCNĐM quốc gia phù hợp với các điều kiện khu vực đề thực hiện.
Nền tảng khoa học: Nghiên cứu công được định hướng mạnh vào NC&PT ứng dụng và triển khai thử nghiệm (chiếm 82.9% chi tiêu công cho NC&PT). Mặc dù Trung Quốc đã thực hiện cải tổ chuyển đổi nhiều viện nghiên cứu công thành doanh nghiệp vào đầu những năm 2000, nhưng các viện nghiên cứu công vẫn chiếm ưu thế trong nghiên cứu công (68,2%). Năm 2010, Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc đã khởi xưởng dự án Đổi mới sáng tạo 2020, Chương trình Đổi mới tri thức mở rộng, được thiết kế để nâng cao năng lực NC&PT của Viện Hàn làm khoa học và đóng góp cho đổi mới sáng tạo bằng cách thành lập một loạt các trung tâm nghiên cứu trong các lĩnh vực vũ trụ, công nghệ thông tin, năng lượng, y học, cũng như các công viên khoa học tại Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Đông.
NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Chính phủ đà thông qua những công cụ chính sách khác nhau để thúc đẩy đổi mới sáng tạo tập trung vào doanh nshiệp, nhấn mạnh đến năng lực đổi mới sáng tạo trong nước. Trong khi hỗ trợ trực tiếp của chính phủ cho NC&PT doanh nghiệp còn hạn chế (4.3% BERD trong năm 2009), các biện pháp khuyến khích bằng thuế mới đã thúc đẩy sự phát triển công nghệ của Trung Quốc. Từ năm 2010, các công ty đã được tiếp cận khấu trừ thuế NC&PT mới, và đầu tư vào thiết bị NC&PT có thể được hưởng lợi từ gia tăng khấu hao.
Tinh thần doanh nghiệp: Thuế doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng đã được hạ thấp đáng kể đối với các công ty công nghệ cao, các DNVVN và công ty CNTT nhằm hỗ trợ phát triển và chuyển giao công nghệ trong các ngành công nghiệp phần mềm. Quy định mới cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua đồng nội tệ để đầu tư chung vốn cổ phần tư nhân đã được áp dụng đầu năm 2011, và chính quyền trung ương dành 25 tỷ USD để tăng cường bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ mở rộng nhu cầu trong nước.
Chính sách cụm và khu vực: Trung Quốc có một truyền thống về các đặc khu kinh tế và khu công nghệ cao. Các xúc tiến chính sách gần đây nhằm mục đích đẩy mạnh các mối liên kết giữa các khu này. Năm 2008, theo kế hoạch kích thích, chính phủ đã dành 393 triệu USD để tăng cường cơ sở hạ tầng giao thông, đặc biệt là để thúc đẩy nhanh việc xây dựng một mạng lưới đường sắt cao tốc giữa Bắc Kinh, Thượng Hải và vùng châu thổ sông Châu Giang. Khuôn khổ Kế hoạch phát triển và cải cách cho vùng châu thổ sông Châu Giang (2008-2020) đã được thông qua để biến vùng này thành trung tâm đổi mới sáng tạo trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Dòng tri thức và thương mại hóa: Sự chú ý được dồn vào việc đẩy mạnh khuôn khổ pháp lý đối với bảo hộ sở hữu trí tuệ và tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển giao và thương mại hóa trí thức. Một chiến lược sở hữu trí tuệ quốc gia mới, thông qua năm 2008, nhằm mục đích đạt được mức độ tương đối cao về sản sinh, sử dụng, bảo vệ và quản lý sở hữu trí tuệ vào năm 2020. Một quỹ đặc biệt đã được thành lập năm 2009 để hỗ trợ đăng ký sáng chế quốc tế, các quy định tạm thời quốc gia về quản lý sở hữu trí tuệ đổi với các dự án lớn đã được thông qua năm 2010, và một Kế hoạch hành động bảo hộ sở hữu trí tuệ đã được khởi xướng năm 2011.
Nguồn nhân lực: Kế hoạch trung và dài hạn quốc gia về Phát triển nhân tài Khoa học và Công nghệ (2010-2020) đã được áp dụng nhằm thúc đẩy tính tự do di chuyển kỹ năng cao, thực hiện các cơ sở nền tảng đổi mới cho tài năng KH&CN, và thiết lập các trung tâm nghiên cứu quốc gia cho nhân lực NC&PT trình độ cao. Các khoản phụ cấp sinh hoạt và tài trợ cho nghiên cứu sau tiến sĩ tại các doanh nghiệp cũng được cung cấp. Các công ty đầu tư vào các chương trình giáo dục và đào tạo được hưởng ưu đãi thuế.
Đổi mới xanh: Năm 2009, Dự án Mười thành phố và Hàng ngàn tia sáng nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ chiếu sáng bản dẫn tại 37 thành phố. Cũng trong năm này, một chương trình giới thiệu 1000 xe tiết kiệm năng lượng hoặc sử dụng năng lượng mới tại 25 thành phố đã được khởi xướng để đưa thị trường ôtô đến với xe năng lượng mới và phấn đấu đưa 500 000 xe loại này ra thị trường vào năm 2015. Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 cũng dành sự quan tâm đáng kể đến năng lượng và thay đổi khí hậu (ví dụ từng bước thành lập thị trường thương mại cacbon) và đã khơi mào một làn sóng chính sách công nghiệp mới hỗ trợ các ngành công nghiệp năng lượng sạch và công nghệ liên quan.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật