24/05/2018, 13:05

Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước Bỉ?

Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Khu vực kinh doanh chiếm tỷ lệ 66% trong GERD. Đầu tư vào NC&PT ở mức vừa phải so với những nước khác trong OECD. BERD bằng 1,32% GDP trong năm 2010, tương đương với năm 2003, với các hoạt động NC&PT tập trung vào công nghiệp dược phẩm (28%), ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)

Khu vực kinh doanh chiếm tỷ lệ 66% trong GERD. Đầu tư vào NC&PT ở mức vừa phải so với những nước khác trong OECD. BERD bằng 1,32% GDP trong năm 2010, tương đương với năm 2003, với các hoạt động NC&PT tập trung vào công nghiệp dược phẩm (28%), hóa chất (9%) và dịch vụ máy tính (8%). Các chi nhánh nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong NC&PT của doanh nghiệp (54%) và hệ thống nghiên cứu cũng hội nhập tốt vào mạng lưới quốc tế: với 57% tổng số bài báo khoa học và 43% đăng ký sáng chế được theo PCT đạt được thông qua hợp tác quốc tế. Mối liên kết giữa khu vực công nghiệp và hàn lâm tốt: khu vực kinh doanh tài trợ 14% các hoạt động NC&PT công (0,07% GDP). Bỉ có ưu thế công nghệ RTA mạnh trong công nghệ sinh học và công nghệ nano và tích cực thực hiện các hoạt động đăng ký sáng chế. Các điều kiện khung đối với môi trường kinh doanh mang tính hỗn hợp: trong khi có các cơ hội tài trợ thông qua đầu tư mạo hiểm, thì các gánh nặng thuế và rào cản pháp lý lại cản trở sự điều chỉnh thị trường. Cơ sở hạ tầng CNTT phát triển không đồng đều: cơ sở hạ tầng băng thông rộng cố định được truy cập rộng rãi, tuy nhiên, tỷ lệ truy cập mạng không dây thấp xa mức trung bình của OECD. Nhân lực kỹ năng ở mức khiêm tốn: 1/3 số người trong độ tuổi trưởng thành có trình độ đại học và tỷ lệ tốt nghiệp trong đào tạo trình độ tiến sĩ lĩnh vực khoa học và kỹ thuật cũng khá khiêm tốn.

Chỉ tiêu

Giá trị

Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010)

Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010

58,9

+0,3

Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009

3,92

+3,7

GERD, tính theo % GDP, năm 2009

1,99

+2,9

Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010

0,58

+1,7

Những thay đổi gần đây trong chi tiêu KHCNĐM: Hàng năm GERD tăng 2,9% theo giá trị thực tế từ năm 2005 đến 2011 đạt mức 1,99% GDP (8 tỷ USD). Khu vực công nghiệp vẫn là nguồn tài trợ chính (59%), tuy nhiên tài trợ từ chính phủ (25%) đã tăng về giá trị tương đối do đầu tư từ doanh nghiệp cho NC&PT giảm sút. Tài trợ NC&PT từ nước ngoài (12%) cũng đóng vai trò quan trọng do các công ty đa quốc gia lớn trong những ngành công nghiệp hàm lượng NC&PT cao và giữ được sự ổn định của giai đoạn này.

Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Bỉ là một nhà nước liên bang với ba vùng (Vùng Thủ đô Brussels, Flanders và Wallonia) và ba cộng đồng (cộng đồng người dân nói tiếng Flemish, tiếng Pháp và tiếng Đức). Năng lực giữa các vùng cũng khác nhau rõ rệt, lần lượt chiếm các tỷ lệ tương ứng 8%, 67% và 25% trong tổng NC&PT. Hiệp định Chính phủ Liên bang được thông qua vào năm 2008 đã xác lập các mục tiêu chính sách KHCNĐM chính như sau: giảm chi phí lao động của các nhà nghiên cứu, hỗ trợ thành lập và phát triển các DNVVN, và tăng cường độ NC&PT. Tất cả các cấp có thẩm quyền ở nước Bỉ đều đưa mục tiêu 3% của Chiến lược EU 2020 vào các chiến lược KHCNĐM của mình và tăng đầu tư cho NC&PT. Chương trình Hành động của Flanders (2009) tập trung vào tài năng nghiên cứu và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu trong các lĩnh vực chiến lược. Bản ghi nhận về khái niệm Trung tâm Đồi mới Flanders được phê duyệt vào tháng 5 năm 2011, đã xác định một tầm nhìn dài hạn cho chính sách đổi mới dựa trên sáu "ngã tư đổi mới" cả theo chiều dọc và chiều ngang. Kế hoạch Marshall 2. Xanh của Wallonia (2009) nỗ lực tăng cường nguồn nhân lực và củng cố chính sách cụm cho phát triển bền vững. Kế hoạch Wallonia Sáng tạo cũng đã được đưa ra vào năm 2010 nhằm làm cho cộng đồng vùng Walloon, hướng đến đổi mới nhiều hơn; một chiến lược cho chính sách nghiên cứu tích hợp đã được phê duyệt vào tháng 3 năm 2011. Kế hoạch Đổi mới vùng Brussels giai đoạn 2006-2011 bao gồm các hoạt động tập trung vào các cụm định hướng ngành, quốc tế hóa hệ thống đổi mới, và lợi ích kinh tế tốt hơn từ đổi mới.

Chính sách quản trị KHCNĐM: Trong năm 2010, các cơ quan vùng đã tổ chức các cuộc thảo luận về hợp tác liên vùng về chính sách và các công cụ trong NC&PT, và vùng Wallonia đã mở các Cực cạnh tranh cho những bên cỏ lợi ích thuộc vùng Brussels. Trong năm 2011, các cuộc thảo luận về "chiến lược chuyên môn hóa thông minh" đã được đưa ra nhằm định hình lại những công cụ chính sách đổi mới và quản trị trong tất cả các vùng.

Nền tảng khoa học: Các trường đại học thực hiện 71% khối lượng NC&PT công. Nghiên cứu công ở Bỉ nhìn chung được thực hiện theo chủ đề và chù yếu được tài trợ trên cơ sở dự án cạnh tranh. Mặc dù mức đầu tư NC&PT công còn thấp (0,65% GDP) so với các nước OECD, Bỉ có một số trường đại học có chất lượng đẳng cấp thế giới và tỷ lệ các xuất bản phẩm trong các tạp chí khoa học hàng đầu khá cao.

NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Trong năm 2011, Vùng Thủ đô Brussels đã giới thiệu một loạt các kế hoạch tài trợ trực tiếp nhằm thúc đẩy NC&PT và các chủ thể của đổi mới (ví dụ: tiến sĩ trong các doanh nghiệp, nhân lực chuyên môn nghề cao, các doanh nghiệp trẻ sáng tạo). Trong năm 2009, chính phủ Flemish đã thiết lập quỹ DNVVN để tài trợ các doanh nghiệp này tiếp cận được tới đào tạo, tư vấn, chuyên môn công nghệ. Kể từ năm 2011, quỹ DNVVN thường tập trung vào các lĩnh vực môi trường và năng lượng. Từ năm 2009, Wallonia đồng tài trợ (với quỹ cơ cấu châu Âu) NOVALLIA - một chương trình nhằm mục đích thúc đẩy các dự án sáng tạo thực hiện bởi các DNVVN thông qua các khoản vay với lãi suất cố định. Ở cấp liên bang, sự giảm thuế trong đóng góp xã hội về tiền lương trong lĩnh vực NC&PT phù hợp với các khu vực tư nhân và công và đã tăng mạnh trong 5 năm qua, ước tính đạt 575 triệu USD trong năm 2009.

Tinh thần doanh nghiệp: Đầu tư vào gieo mầm và trong các giai đoạn ban đầu lên tới 0,07% GDP trong năm 2009 khiến Bi trở thành một trong những nhà đầu tư mạo hiểm hàng đầu trong Liên minh châu Âu (cùng với Phần Lan, Ailen, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Hoa K.ỳ). Khu vực Thủ đô Brussels đã đưa ra một quỹ đầu tư mạo hiểm mới nhằm hỗ trợ giai đoạn nghiên cứu "tiền thương mại". Flanders thành lập quỹ ARKimedes thứ hai để đầu tư vào các doanh nghiệp mới thành lập cùng như DNVVN tăng trưởng nhanh. Vùng Brussels đã thành lập quỹ BRUSTART II hỗ trợ cho các công ty sáng tạo nhỏ.

Chính sách cụm và khu vực: Những chính sách đổi mới chủ động trong vùng tập trung vào các ngành mũi nhọn. Ở vùng Flanders có các trung tâm nghiên cứu chiến lược và trung tâm xuất sắc, Wallonia có các cực cạnh tranh, và Vùng Thủ đô Brussels có các Cụm Cơ quan Doanh nghiệp Brussels. Flanders và Vùng Thủ đô Brussels hiện cũng đang tham gia các cuộc thảo luận chính sách quốc tế về chuyên môn hóa thông minh.

Dòng tri thức và thương mại hóa: Nhằm thúc đẩy chuyển giao tri thức, chính phủ vùng Flemish vào năm 2010 đã thành lập Quỹ Gia tăng Đổi mới và Chuyển hóa (TINA) với 233 triệu USD nhằm hỗ trợ các dự án hợp tác trong sản xuất công nghiệp. Hai trung tâm trí thức mới và một số trung tâm xuất sắc đã được thành lập để tăng cường hợp tác và năng lực chung về KH&CN. Trong năm 2011, Flanders đã đưa ra sáng kiến SOFI để hỗ trợ các công ty spin-off từ các trung tâm nghiên cứu chiến lược. Chương trình Đổi tác đổi mới công nghệ ở vùng Wallonia (2009) và các nền tảng chiến lược của Vùng Thủ đô Brussels BCR (2010) cũng nhằm mục đích khuyến khích nghiên cứu hợp tác. Chính phủ liên bang cung cấp các khoản khấu trừ thuế bổ sung cho các công ty hợp tác với các viện nghiên cứu công.

Toàn cầu hóa: Thu hút FDI là mối quan tâm lớn của các nhà chức trách Bỉ. Flanders luôn hướng tới mục tiêu trở thành "một khu vực liên kết quốc tế mạnh trong lĩnh vực nghiên cứu và đổi mới”. Trong năm 2010 Wallonia đã xây dựng các văn phòng tại công viên khoa học và ở nước ngoài để hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Kể từ năm 2011, Vùng Thủ đô Brussels hỗ trợ quan hệ đối tác quốc tế thông qua tài trợ cho chi phí nhân sự, chi phí đi lại, các dịch vụ pháp lý và dịch thuật.

Nguồn nhân lực: Flanders đã tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến khả năng cung cấp nhân lực có kỹ năng bằng việc thực hiện Kế hoạch hành động cho các nhà nghiên cứu 2010-2011 nhằm mục đích nâng cao sức hấp dẫn của các ngành nghề nghiên cứu, và kế hoạch hành động. STEM (2012), kết hợp với kế hoạch truyền thông khoa học, nhằm mục đích gia tăng số lượng sinh viên theo đuổi khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học trong phổ thông trung học và đại học.

Đổi mới xanh: Kế hoạch Marshall2. Xanh của Wallonia nhấn mạnh các vấn đề về môi trường, và trong năm 2011 Wallonia đã triển khai cực cạnh tranh cho các công nghệ xanh. Flanders thực hiện Kế hoạch Chính sách khí hậu Flemish giai đoạn 2013-2020 và Kế hoạch Hành động Hiệu suẩt Năng lượng thứ hai giai đoạn 2011-2016 nhằm áp dụng các tiêu chuẩn mới về năng lượng, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng, nhà ở và công nghiệp, thông qua Cơ quan Năng lượng Flemish, các nền tảng đổi mới Generaties đối với năng lượng tái tạo, Lưới điện thông minh Flanders, và Bảo lãnh xanh cho các doanh nghiệp.

Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013

Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN

Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

0