25/05/2018, 13:27

Họ Chim thiên đường

Chim thiên đường, một số tài liệu bằng tiếng Việt còn gọi là chim thiên hà, là các loài chim thuộc họ Paradisaeidae, sống ở một số khu vực thuộc Australasia, bao gồm miền đông Indonesia, New Guinea và đông bắc Australia. Các thành viên của họ Thiên đường ...

Chim thiên đường, một số tài liệu bằng tiếng Việt còn gọi là chim thiên hà, là các loài chim thuộc họ Paradisaeidae, sống ở một số khu vực thuộc Australasia, bao gồm miền đông Indonesia, New Guinea và đông bắc Australia. Các thành viên của họ Thiên đường được biết đến nhiều nhất có lẽ là từ những bộ lông sặc sỡ, đẹp của các con trống thuộc phần lớn các loài, được chúng sử dụng để hấp dẫn con mái (con mái có bộ lông bình thường) bằng những điệu nhảy và xòe cánh, múa đuôi. Con trống có đuôi dài và đẹp. Một số còn có chỏm lông trên đầu hay lông cánh dài sặc sỡ. Các loài chim thiên đường là một trong những loại chim biết hót cổ xưa nhất.

dao động về kích thước từ nhỏ như ở chim thiên đường vua chỉ nặng 50 gam (1,8 oz) và dài 15 cm (6 inch) tới mỏ liềm đen dài 110 cm (43 inch) và manucode mào quăn nặng 430 gam (15,2 oz).

Được biết đến nhiều nhất là các thành viên của chi Paradisaea, bao gồm cả loài điển hình, chim thiên đường lớn (Paradisaea apoda). Loài này được miêu tả từ các mẫu vật được các thương nhân mang về châu Âu. Các mẫu vật này được các thương nhân bản địa tạo ra bằng cách tháo bỏ cánh và chân sao cho chúng có thể dùng như là vật trang trí. Các nhà thám hiểm thương mại đã không biết được điều này và dẫn tới niềm tin rằng chúng không bao giờ đậu xuống đất mà luôn được giữ lơ lửng trong không trung nhờ bộ lông. Đây là nguồn gốc cả cả tên gọi "chim thiên đường" lẫn tên khoa học apoda - không chân.

Các loài trong họ Thiên đường nói chung trông giống như quạ về hình thái cơ thể chung, và trên thực tế là nhóm có quan hệ chị-em với họ Quạ. Chúng có mỏ chắc mập hoặc dài và chân khỏe, với khoảng hai phần ba số loài là dị hình giới tính mạnh.

Chúng sống trong các khu rừng nhiệt đới, bao gồm rừng mưa nhiệt đới, rừng đầm lầy và rừng rêu. Ở phần lớn các loài, thức ăn chủ yếu là trái cây, mặc dù các loài súng trường và mỏ liềm cũng thích ăn cả sâu bọ và các động vật chân khớp khác.

Phần lớn các loài có nghi thức kết đôi phức tạp, với các loài Paradisaea sử dụng cách thức kết đôi kiểu cầu ngẫu trường. Các loài khác, chẳng hạn như các chi Cicinnurus và Parotia, có các kiểu nhảy kết đôi mang tính chất nghi thức cao. Các con trống là đa thê ở các loài dị hình giới tính, nhưng là đơn thê ở ít nhất là một số loài đồng hình giới tính. Sự lai tạp là phổ biến ở các loài chim này. Nhiều dạng lai ghép đã được miêu tả như là các loài mới, và nghi ngờ liên quan tới một vài dạng, như chim thiên đường mỏ thùy Rothschild, là có cơ sở.

Các loài trong họ này xây tổ từ các vật liệu mềm, như lá, dương xỉ, tua dây leo, thường là trên các chạc cây. Số lượng trứng đẻ mỗi lần là chưa chắc chắn. Ở các loài to lớn hơn, gần như chỉ là một quả. Các loài nhỏ hơn có thể đẻ 2-3 trứng. Trứng được ấp nở trong 16-22 ngày, và chim non rời tổ trong khoảng từ 16 tới 30 ngày tuổi.

  • Chi Lycocorax
    • Chim thiên đường quạ đen, Lycocorax pyrrhopterus
  • Chi Manucodia
    • Manucode lông mượt, Manucodia atra
    • Manucode đảo Jobi, Manucodia jobiensis
    • Manucode vòng lông cổ nhăn, Manucodia chalybata
    • Manucode mào quăn, Manucodia comrii
    • Manucode trumpet, Manucodia keraudrenii
  • Chi Paradigalla
    • Paradigalla đuôi dài, Paradigalla carunculata
    • Paradigalla đuôi ngắn, Paradigalla brevicauda
  • Chi Astrapia
    • Astrapia núi Arfak, Astrapia nigra
    • Astrapia tráng lệ, Astrapia splendidissima
    • Astrapia đuôi mảnh, Astrapia mayeri
    • Astrapia Stephanie, Astrapia stephaniae
    • Astrapia bán đảo Huon, Astrapia rothschildi
  • Chi Parotia
    • Parotia phương tây, Parotia sefilata
    • Parotia Carola, Parotia carolae
    • Parotia Berlepsch, Parotia berlepschi
    • Parotia Lawes, Parotia lawesii
    • Parotia phương đông, Parotia helenae
    • Parotia Wahnes, Parotia wahnesi
  • Chi Pteridophora
    • Chim thiên đường vua Saxony, Pteridophora alberti
  • Chi Lophorina
    • Chim thiên đường hùng vĩ, Lophorina superba
  • Chi Ptiloris
    • Súng trường tráng lệ, Ptiloris magnificus
    • Súng trường phương đông, Ptiloris intercedens
    • Súng trường thiên đường, Ptiloris paradiseus
    • Súng trường Victoria, Ptiloris victoriae
  • Chi Epimachus
    • Mỏ liềm đen, Epimachus fastuosus
    • Mỏ liềm nâu, Epimachus meyeri
    • Mỏ liềm mỏ đen, Epimachus albertisi
    • Mỏ liềm mỏ nhạt, Epimachus bruijnii
  • Chi Cicinnurus
    • Chim thiên đường tráng lệ, Cicinnurus magnificus
    • Chim thiên đường Wilson, Cicinnurus respublica
    • Chim thiên đường vua, Cicinnurus regius
  • Chi Semioptera
    • Cánh chuẩn Wallace, Semioptera wallacii
  • Chi Seleucidis
    • Chim thiên đường mười hai dây, Seleucidis melanoleuca
  • Chi Paradisaea
    • Chim thiên đường nhỏ, Paradisaea minor
    • Chim thiên đường lớn, Paradisaea apoda
    • Chim thiên đường Raggiana, Paradisaea raggiana
    • Chim thiên đường Goldie, Paradisaea decora
    • Chim thiên đường đỏ, Paradisaea rubra
    • Chim thiên đường hoàng đế, Paradisaea guilielmi
    • Chim thiên đường lam, Paradisaea rudolphi
  • Tranh cãi
    • Melampitta lớn, Melampitta gigantea- đặt vào đây không chắc chắn, có lẽ thuộc họ Orthonychidae.
  • Đã từng hiểu lầm
    • Chim thiên đường Loria, Cnemophilus loriae - chắc chắn là gần với họ Melanocharitidae.
    • Chim thiên đường mào, Cnemophilus macgregorii - chắc chắn là gần với họ Melanocharitidae .
    • Chim thiên đường ngực vàng, Loboparadisea sericea - chắc chắn là gần với họ Melanocharitidae .
    • Chim thiên đường Macgregor, Macgregoria pulchra - chắc chắn là gần với họ Melanocharitidae .
    • Melampitta nhỏ, Melampitta lugubris - đôi lúc nằm trong họ chim thiên đường, nhưng nhiều phần nghiêng về họ Orthonychidae.
0