Hồ Chí Minh 胡志明, Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc

Hồ Chí Minh 胡志明 (1890–1969) tên thật là Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động ở nước ngoài lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh. Người sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, trong một gia đình trí thức nghèo, gốc nông dân. Thân phụ là cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng và từng làm việc cho triều Nguyễn, nhưng bị cách chức vì có tinh thần yêu nước thương dân, ông thường có thái độ chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp. Thân mẫu cụ bà Hoàng Thị Loan là con gái một nhà Nho làm nghề dạy học nên cũng được học ít nhiều, bà tính tình hiền hậu, đảm đang, quen việc đồng áng, dệt vải, hết lòng săn sóc chồng, dạy dỗ các con. Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh và anh là Nguyễn Sinh Khiêm đều vào tù ra tội nhiều lần vì có tham gia chống thực dân Pháp. Quê hương của Người (làng Kim Liên quê nội liền kề với làng Hoàng Trù quê ngoại, đều thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Người rất khâm phục cuộc khởi nghĩa Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885-1896), phong trào Đông Du của Phan Bội Châu (1904-1908), Cuộc vận động cải cách do Phan Chu Trinh khởi xướng (1905-1908), Cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu (1885-1913). Nhưng vượt qua những hạn chế của các nhà yêu nước đi trước, năm 1911 Người quyết định vượt biển sang phương Tây, quê hương của những cuộc cách mạng dân chủ, nơi có nền khoa học và kỹ thuật phát triển để thực hiện mục đích là dành độc lập, tự do. Trước khi xuất dương tìm đường cứu nước Người đã có thời gian học tại các trường học tại Vinh, Huế nên có điều kiện chủ động và nhanh chóng hoà nhập vào xã hội phương Tây. Người nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin khi hoạt động trên đất Pháp. Chính vào lúc phong trào cách mạng Pháp đang dâng cao dưới ảnh hưởng tốt đẹp của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và thông qua những đại biểu của những người cùng khổ nhất của nước Pháp, Người đã bắt gặp chân lý cứu nước là chủ nghĩa Mác Lênin. Từ đến với chủ nghĩa Mác Lênin, trở thành người cộng sản đầu tiên ở Việt Nam và là một trong số những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp (1920). Từ năm 1921 đến 1930, với những hoạt động phong phú và sáng tạo ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc... vừa ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận cách mạng vừa tham gia các hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế cộng sản, viết sách, báo, mở lớp huấn luyện đào tạo, truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam một cách hệ thống... Từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3 tháng Hai 1930) trong những năm tiếp theo, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong hoạt động cách mạng, có thời gian bị bắt và tù đày trong nhà lao đế quốc Anh ở Hồng Kông (1931-1932), Người vẫn theo dõi sát sao phong trào cách mạng trong nước, kịp thời đóng góp với Trung ương Đảng ở trong nước nhiều ý kiến cụ thể để chỉ đạo tốt đường lối của Đảng. Ngày 8 tháng Hai 1941, Người trở về Tổ quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng Năm 1941. Tháng Tám 1942 với tên gọi mới là Hồ Chí Minh, Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam bên đó và lực lượng của Đồng minh. Vừa qua biên giới, Người đã bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt giam hơn một năm, qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Thời gian Người đã viết tập thơ Ngục trung nhật ký, một tác phẩm lịch sử và văn học được đánh giá cao. Người đã vận dụng thành công học thuyết Mác Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam đưa tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Sau ngày Tuyên ngôn độc lập (ngày 2 tháng Chín 1945) tình hình đất nước vô cùng khó khăn, vì giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh đứng đầu, nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ với chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội (1954). Sau giải phóng miền Bắc, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân hai miền Nam, Bắc tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Hồ Chí Minh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến cứu nước, Người chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân, dựa vào sức mạnh chính nghĩa và truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh thắng bọn xâm lược. Hồ Chí Minh 胡志明 (1890–1969) tên thật là Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động ở nước ngoài lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh. Người sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, trong một gia đình trí thức nghèo, gốc nông dân. Thân phụ là cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng và từng làm việc cho triều Nguyễn, nhưng bị cách chức vì có tinh thần yêu nước thương dân, ông thường có thái độ chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp. Thân mẫu cụ bà Hoàng Thị Loan là con gái một nhà Nho làm nghề dạy học nên cũng được học ít nhiều, bà tính tình hiền hậu, đảm đang, quen việc đồng áng, dệt vải, hết lòng săn sóc chồng, dạy dỗ các con. Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh và anh là Nguyễn Sinh Khiêm đều vào tù ra tội nhiều lần vì có tham gia chống thực dân Pháp. Quê hương của Người (làng Kim Liên q… Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) - 獄中日記 Thơ chữ Hán Thơ tiếng Việt Lời truyền miệng nhân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia - kinh nghiệm điền dã Đăng bởi Vanachi vào 10/11/2005 01:23 Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 11/11/2005 10:45 Có 2 người thích : The Chipmunks, anhlng Đây là một thể nghiệm tri thức bất ngờ của tôi trong khi đi công tác điền dã ở đồng bằng Bắc bộ trong mấy năm qua. Bất ngờ, vì tôi không dự kiến trước và cũng không định nhằm vào đó khi đi điền dã (thường trước / trong mỗi công cuộc điền dã, tôi thường hoạch định - ít nhất là trong đầu óc - một dự tính tìm tòi nào đó, về khảo cổ, lịch sử hay là folklore....). Bất ngờ, vì trong phạm vi sách vở mà tôi đọc được ở Việt Nam, tôi chưa thấy ai viết về vấn đề này trong tiểu sử của các vị trí thức nho gia của Việt Nam mà tôi sẽ kể ra dưới đây. Tôi không khẳng định rằng những điều tôi viết ra dưới đây là những sự thực lịch sử (vérités historiques) - theo cái nghĩa là vì chúng đã không được ghi lại trong một tài liệu nào đó ở đương thời hay ở một thời kỳ tương đối muộn hơn, trong chính sử, dã sử hay là địa phương chí.... Đây là những lời truyền miệng nhân gian, cho nên cùng lắm, chúng chỉ có thể coi là những giai thoại (anecdote) mà, nếu không khó tính lắm, ta cũng có thể gọi là những giai thoại lịch sử. Với tư cách là một nhà nghiên cứu Dân gian học (Folkloriste), chứ không phải là một nhà sử học trong trường hợp này, tôi có quyền coi chúng là những đối tượng sưu tập và nghiên cứu của mình hay đó cái "sở tri" (object de connaissance) của tôi, với tư cách một chủ thể "năng tri" (subject connaissant). Nó có thể có ích trong việc nghiên cứu Folklore Việt Nam hay trong việc tìm hiểu Tâm Thức Dân Gian (Popular Mentality) Việt Nam hiện vẫn còn sống động. Nói theo kiểu Pháp, những điều tôi cố gắng ghi lại một cách trung thực qua công tác điền dã dưới đây là THẬT mà không chắc là THỰC (vrai mais pas nécessaire réel). Ngồi rỗi ở Cornell thì viết chơi, vậy thôi..... [...] *** Từ trực giác nguyên sơ (original intuition), qua những kinh nghiệm tự thân trong công tác điền dã, qua cả những tri thức kiến văn nữa, lâu dần hình như ở trong tôi sẽ có cái có thể gọi là trực giác kinh nghiệm (experienced intuition), từ đó có thể khai mở những cái bị che đậy. Những tiếng Âu Tây giành cho sự khám phá khoa học: Discovery - Découverte - thì, theo tôi hiểu, đều bao hàm động tác dis-cover, dé-couvrir, ngụ ý mở cái nắp đậy cái sự thực, cái cần biết ở bên trong, mà bình thường vì một tư dục, tư ý nào đó mà nó bị che lấp. Tôi đã mở (đầu) bài kinh nghiệm điền dã Folklore này của mình bằng câu chuyện một vị tiến sĩ vô danh, nghĩa là không còn tên tuổi, để dẫn dắt đến câu chuyện của những người có tên tuổi. Đến đây tôi sẽ "khép" (lại) bài kể lể khá dài dòng của mình bằng câu chuyện một người tuy có tên tuổi nhưng không lấy gì làm nổi tiếng lắm, hay đúng hơn, đã trở nên có tên tuổi nhờ gắn bó máu thịt với một người tên tuổi (nhưng từ đầu đến cuối câu chuyện của tôi đều nói về các nhà Nho - các vị thái học sinh, tiến sĩ, bảng nhãn hay là phó bảng cả). Đó là câu chuyện về cụ thân sinh ra chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy. Phó bảng là một học vị tiến sĩ, chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (1830-1831). Trong một lá đơn bằng tiếng Pháp gửi bô. Thuộc địa Pháp, Nguyễn Tất Thành (sau là Hồ Chí Minh) đã khéo dịch tên học vị của phụ thân mình là Sous-Docteur, như ngày nay ta gọi là Phó Tiến Sĩ. Quê hương cụ, là làng Kim Liên (tên nôm là làng Sen), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nhưng đậu phó bảng rồi, cụ đã làm thừa biện bô. Lễ ở Huế rồi tri huyện ở Bình Khê (Bình Định). Rồi bỏ quan (hay bị cách chức quan), cụ phiêu dạt vô Sàigòn, ngồi bắt mạch kê đơn ở tiệm thuốc bắc Hoa kiều, để có chút tiền cơm rượu.... Lại phiêu lãng nữa, tới miền Tây Nam bộ, và cuối cùng mất ở Cao Lãnh (Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Mộ cụ phó bảng được xây lại cuối năm 1954 sau sự kiện Genève tạm thời chia đôi đất nước Việt Nam. Người ta làm thế là vì cụ Hồ. Cũng như mộ bà Hoàng Thị Loan, vợ cụ, và là thân mẫu Hồ Chí Minh mới được dời xây lại vài năm nay ở Nam Đàn, Nghệ An. Người ta làm thế cũng là vì cụ Hồ. Hai ngôi mộ này, cũng như bản thân Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh giữa lòng Ba Đình, Hà Nội đều hiện hữu ngoài ý thức chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Hồ vốn được xem là người giản dị, khiêm nhường! Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết. Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là "lan truyền" (de transfest folklorique) thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta sợ động chạm đến cụ Hồ. Một cái sợ vô nghĩa (insignifiant) nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn trong cuốn tiểu truyện bằng tiếng Anh "Life and Death in Shanghai, đã được phiên dịch ra tiếng Việt, ở xã hội "xã hội chủ nghĩa", cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia". Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này. Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của họ Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo. Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phu? Việt Nam dân chủ cộng hoà thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hoà nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoản đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào". Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bả: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cư? Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cư? Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cư? Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính... Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà goá vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già goá vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng". Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẻ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cư? Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế. Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863). Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ". Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này. May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng. Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại. Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt. Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt. Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày nay) trở thành con trai út. Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng. Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng. Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo. Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan (1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi tri huyện Bình Khê... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa... Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng. Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ. Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình? Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này... Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.... Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh. Sau cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969. Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thanh trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần (partly) được hình thành một cách hữu thức, bở một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hoá (mystified). Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ... Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này. Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm. Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh ly. Nghệ An - cu Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội". Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn? Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê. Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý". Tháng 1-1991, Trần Quốc Vượng. (Trích cuốn Trong cõi của tác giả) Lộ tòng kim dạ bạch, Nguyệt thị cố hương minh. ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ 2 3.00 Chia sẻ trên Facebook Thơ chúc tết của Bác - Sức mạnh tiềm tàng trong tâm hồn rộng mở Đăng bởi Hải Triều tiên sinh vào 04/02/2007 09:57 Có 1 người thích : The Chipmunks Tác giả: Hải Triều THƠ CHÚC TẾT CỦA BÁC. SỨC MẠNH TIỀM TÀNG TRONG TÂM HỒN RỘNG MỞ. Bác ơi! Tết đến. Giao thừa đó Vẫn đón nghe thơ Bác mọi lần Ríu rít đàn em vui pháo nổ Tưởng nghìn tay Bác vỗ sang xuân ... (Tố Hữu) Dẫu rằng ước mong đó giờ đây chỉ còn trong tâm khảm, nhưng cứ mỗi độ xuân về, tấm lòng mỗi người con nước Việt lại bùi ngùi khôn xiết. Những vần thơ chan chứa ân tình, tình của núi non sông nước, tình của một tấm lòng cao cả chở che. Đã thành thông lệ, có lẽ ngàn đời về sau, lời chúc tết của vị Chủ tịch nước gửi tới toàn thể đồng bào trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài sẽ mãi mãi trường tồn. Xuân sang, chúng con khôn nguôi nỗi nhớ Người, vóc dáng hình hài cùng những vần thơ sắt son chất thép. Sự kết tinh của chủ nghĩa anh hùng cao cả trong một tấm lòng bình dị đã lan toả khắp không gian và thời gian, cuộn mình chảy với dòng máu Lạc Hồng. 22 bài thơ chúc Tết của Người là 22 lời kêu gọi sức mạnh đoàn kết và lý tưởng cách mạng cao cả. Ẩn sâu trong những khúc ca hào sảng ấy là một tấm lòng vì nước vì dân. Lần cuối cùng đón xuân cùng nhân dân cả nước ở cõi dương gian này, trái tim Người vẫn không ngừng trào sôi ngọn lửa đấu tranh: Nǎm qua thắng lợi vẻ vang, Nǎm nay tiền tuyến chắc càng thắng to. Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào. Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào, Bắc-Nam sum họp, xuân nào vui hơn! (THƠ CHÚC TẾT XUÂN KỶ DẬU – 1969) Thật tự nhiên, những vần thơ ấy đã đi vào lòng người và âm thầm chảy mãi. Khắc giao hoà của đất trời đã hoà chung cùng ước vọng thiêng liêng của cả dân tộc. Ánh trong chất thép rắn chắc ấy là sự dung dị của tứ thơ, của lý tưởng cộng sản vững bền không gì lay chuyển nổi. Trong quá khứ, mảnh đất này đã là nơi thấm đầy máu và nước mắt của cõi người, với biết bao nỗi thống khổ giữa sự sống và cái chết, giữa gặp gỡ và chia ly. Dòng sông Gianh hiền hoà đã có lúc như một lằn roi quất ngang chia cắt Đàng Trong, Đàng Ngoài thời Trịnh Nguyễn, cũng chính nó chứng kiến biết bao sự hy sinh của một lớp người bên này bờ Bắc, phía bên kia của bờ Nam. Lòng quật cường của ông cha biết bao đời nay đều hướng tới để xoá bỏ sự cắt chia ác nghiệt đó. 22 lời ca chúc Tết của Bác Hồ là 22 niềm khắc khoải về một ngày thống nhất Bắc – Nam. Bắc Nam như cội với cành, Anh em ruột thịt, đấu tranh một lòng. Rồi đây thống nhất thành công, Bắc Nam ta lại vui chung một nhà. Mấy lời thân ái nôm na, Vừa là kêu gọi, vừa là mừng xuân. ( THƠ CHÚC TẾT XUÂN GIÁP THÌN – 1964) Những vần thơ ấm tình dân tộc, hồn cốt và khí phách ấy đong đầy trong từng câu, từng chữ. Nhịp thơ 6/8 mà Bác Hồ sử dụng thật đắc địa. Trong dáng vẻ hiền hoà của dải đất hình chữ S, trong cõi lòng êm ả của mỗi người mượt mà cùng thời thơ ấu của những lời ru. Ngọn lửa đấu tranh vẫn bừng bừng soi tỏ, hắt sáng lên từng góc cạnh của những tay cày, tay súng xả thân vì đất nước thân yêu. Xuân về xin có một bài ca, Gửi chúc đồng bào cả nước ta: Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi, Tin mừng thắng trận nở như hoa! THƠ CHÚC TẾT XUÂN ĐINH MÙI - 1967 Mãn Giác Thiền Sư (thời Lý) từng có hai câu thơ mà người đời mệnh danh là tuyệt bút: Những tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một nhành mai. Sức sống tiềm tàng của cõi nhân gian được gói gọn trong chỉ có một từ - “XUÂN”. Dẫu rằng mùa xuân đã qua, nhưng hơi ấm cùng vòng xoay vô tận của nó đã đủ sức níu kéo sự sống, níu kéo màu xanh của cỏ cây và điểm tô thế giới bằng những điểm màu của biết bao cánh hoa khoe sắc. Khoảng cách về thời đại không xoá bỏ niềm rung cảm của mỗi thi nhân. Ngót 1000 năm sau, Bác Hồ “tạo tác” vẻ đẹp của mùa xuân bằng một hình ảnh tịnh tiến: Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua, Thắng trận tin vui khắp nước nhà, Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ. Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta! (THƠ CHÚC TẾT XUÂN MẬU THÂN – 1968) Chất thép trong thơ của Hồ Chủ Tịch đã tạo dáng cho mùa xuân của thời đại một nét quyến rũ rất riêng. Vẻ đẹp ấy không lẻ loi, cô tịch như phần lớn tác phẩm của những tao nhân mặc khách thời kỳ trước; vẻ đẹp ấy khoẻ khoắn, ấm nồng sức trẻ, niềm chung vui chiến thắng của những người chiến sĩ cùng chảy trong mình dòng máu của lý tưởng cộng sản, cùng gánh vai để giải phóng Tổ quốc thân yêu. Nhìn từ giác độ lý luận, thơ là sự giải toả cảm xúc của các thi nhân. Thơ cũng có những dòng chảy và phân chia nhánh một cách rõ ràng. Ngày trước, Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ miêu tả khung cảnh chất phác nơi thôn dã, trong đó dồn nén đến mức cô đặc tâm trạng và tư tưởng của một nhà nho yêu nước. Về sau, Tố Hữu được biết đến trong dòng thơ hiện đại bằng một thuật ngữ: “Nhà thơ trữ tình chính trị”. Và Bác Hồ, với tập thơ “Ngục trung nhật ký” cùng những bài thơ chữ Hán của Người đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trong sự trân trọng của bạn bè khắp năm châu. Có lẽ, chỉ với những người con nước Việt mới hiểu và cảm được một cách trọn vẹn cả ý, cả tình trong những vần thơ chúc tết của Bác. Tư tưởng và hoài bão của Người là hiện thân của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Thời khắc thiêng liêng của sự giao hoà trong thế giới tự nhiên một lần nữa được nhân lên trong cõi lòng mỗi người đang mang trong mình niềm tin tất thắng. Kháng chiến lại thêm một nǎm mới, Thi đua ái quốc thêm tiến tới. Động viên lực lượng và tinh thần, Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi. Người người thi đua. Ngành ngành thi đua. Ngày ngày thi đua. Ta nhất định thắng. Địch nhất định thua. (THƠ CHÚC TẾT XUÂN KỶ SỬU – 1949) Giá trị trường tồn trong những vần thơ của Bác không phải là hiện thân của một vị lãnh tụ. Giá trị ấy ẩn trong một con người bình dị như biết bao những con người đang cầm súng, cầm cày trên khắp đất nước Việt Nam. Ấy là tiếng lòng của những người sống trong lao khổ và đồng lòng đứng lên để thoát khỏi nơi lao khổ. Xuân sang, chúng con nhớ tới Người, thành kính dâng lên Người vẫn bằng những tấm lòng bình dị: ...Bác để tình thương cho chúng con Một đời thanh bạch, chẳng vàng son Mong manh áo vải hồn muôn trượng Hơn tượng đồng phơi những lối mòn. (Bác ơi - Tố Hữu) ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ 1 1.00 Chia sẻ trên Facebook

Hồ Chí Minh 胡志明 (1890–1969) tên thật là Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động ở nước ngoài lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh. Người sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, trong một gia đình trí thức nghèo, gốc nông dân. Thân phụ là cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng và từng làm việc cho triều Nguyễn, nhưng bị cách chức vì có tinh thần yêu nước thương dân, ông thường có thái độ chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp. Thân mẫu cụ bà Hoàng Thị Loan là con gái một nhà Nho làm nghề dạy học nên cũng được học ít nhiều, bà tính tình hiền hậu, đảm đang, quen việc đồng áng, dệt vải, hết lòng săn sóc chồng, dạy dỗ các con. Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh và anh là Nguyễn Sinh Khiêm đều vào tù ra tội nhiều lần vì có tham gia chống thực dân Pháp.

Quê hương của Người (làng Kim Liên quê nội liền kề với làng Hoàng Trù quê ngoại, đều thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Người rất khâm phục cuộc khởi nghĩa Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885-1896), phong trào Đông Du của Phan Bội Châu (1904-1908), Cuộc vận động cải cách do Phan Chu Trinh khởi xướng (1905-1908), Cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu (1885-1913). Nhưng vượt qua những hạn chế của các nhà yêu nước đi trước, năm 1911 Người quyết định vượt biển sang phương Tây, quê hương của những cuộc cách mạng dân chủ, nơi có nền khoa học và kỹ thuật phát triển để thực hiện mục đích là dành độc lập, tự do. Trước khi xuất dương tìm đường cứu nước Người đã có thời gian học tại các trường học tại Vinh, Huế nên có điều kiện chủ động và nhanh chóng hoà nhập vào xã hội phương Tây.

Người nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin khi hoạt động trên đất Pháp. Chính vào lúc phong trào cách mạng Pháp đang dâng cao dưới ảnh hưởng tốt đẹp của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và thông qua những đại biểu của những người cùng khổ nhất của nước Pháp, Người đã bắt gặp chân lý cứu nước là chủ nghĩa Mác Lênin. Từ đến với chủ nghĩa Mác Lênin, trở thành người cộng sản đầu tiên ở Việt Nam và là một trong số những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp (1920).

Từ năm 1921 đến 1930, với những hoạt động phong phú và sáng tạo ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc... vừa ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận cách mạng vừa tham gia các hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế cộng sản, viết sách, báo, mở lớp huấn luyện đào tạo, truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam một cách hệ thống...

Từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3 tháng Hai 1930) trong những năm tiếp theo, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong hoạt động cách mạng, có thời gian bị bắt và tù đày trong nhà lao đế quốc Anh ở Hồng Kông (1931-1932), Người vẫn theo dõi sát sao phong trào cách mạng trong nước, kịp thời đóng góp với Trung ương Đảng ở trong nước nhiều ý kiến cụ thể để chỉ đạo tốt đường lối của Đảng.

Ngày 8 tháng Hai 1941, Người trở về Tổ quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng Năm 1941.

Tháng Tám 1942 với tên gọi mới là Hồ Chí Minh, Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam bên đó và lực lượng của Đồng minh. Vừa qua biên giới, Người đã bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt giam hơn một năm, qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Thời gian Người đã viết tập thơ Ngục trung nhật ký, một tác phẩm lịch sử và văn học được đánh giá cao.

Người đã vận dụng thành công học thuyết Mác Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam đưa tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Sau ngày Tuyên ngôn độc lập (ngày 2 tháng Chín 1945) tình hình đất nước vô cùng khó khăn, vì giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh đứng đầu, nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ với chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội (1954). Sau giải phóng miền Bắc, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân hai miền Nam, Bắc tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.

Hồ Chí Minh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến cứu nước, Người chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân, dựa vào sức mạnh chính nghĩa và truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh thắng bọn xâm lược.
Hồ Chí Minh 胡志明 (1890–1969) tên thật là Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động ở nước ngoài lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh. Người sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, trong một gia đình trí thức nghèo, gốc nông dân. Thân phụ là cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng và từng làm việc cho triều Nguyễn, nhưng bị cách chức vì có tinh thần yêu nước thương dân, ông thường có thái độ chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp. Thân mẫu cụ bà Hoàng Thị Loan là con gái một nhà Nho làm nghề dạy học nên cũng được học ít nhiều, bà tính tình hiền hậu, đảm đang, quen việc đồng áng, dệt vải, hết lòng săn sóc chồng, dạy dỗ các con. Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh và anh là Nguyễn Sinh Khiêm đều vào tù ra tội nhiều lần vì có tham gia chống thực dân Pháp.

Quê hương của Người (làng Kim Liên q…

Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) - 獄中日記

Thơ chữ Hán

Thơ tiếng Việt

 

Ảnh đại diện

Lời truyền miệng nhân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia - kinh nghiệm điền dã

Đây là một thể nghiệm tri thức bất ngờ của tôi trong khi đi công tác điền dã ở đồng bằng Bắc bộ trong mấy năm qua.

Bất ngờ, vì tôi không dự kiến trước và cũng không định nhằm vào đó khi đi điền dã (thường trước / trong mỗi công cuộc điền dã, tôi thường hoạch định - ít nhất là trong đầu óc - một dự tính tìm tòi nào đó, về khảo cổ, lịch sử hay là folklore....).

Bất ngờ, vì trong phạm vi sách vở mà tôi đọc được ở Việt Nam, tôi chưa thấy ai viết về vấn đề này trong tiểu sử của các vị trí thức nho gia của Việt Nam mà tôi sẽ kể ra dưới đây.

Tôi không khẳng định rằng những điều tôi viết ra dưới đây là những sự thực lịch sử (vérités historiques) - theo cái nghĩa là vì chúng đã không được ghi lại trong một tài liệu nào đó ở đương thời hay ở một thời kỳ tương đối muộn hơn, trong chính sử, dã sử hay là địa phương chí....

Đây là những lời truyền miệng nhân gian, cho nên cùng lắm, chúng chỉ có thể coi là những giai thoại (anecdote) mà, nếu không khó tính lắm, ta cũng có thể gọi là những giai thoại lịch sử.

Với tư cách là một nhà nghiên cứu Dân gian học (Folkloriste), chứ không phải là một nhà sử học trong trường hợp này, tôi có quyền coi chúng là những đối tượng sưu tập và nghiên cứu của mình hay đó cái "sở tri" (object de connaissance) của tôi, với tư cách một chủ thể "năng tri" (subject connaissant).

Nó có thể có ích trong việc nghiên cứu Folklore Việt Nam hay trong việc tìm hiểu Tâm Thức Dân Gian (Popular Mentality) Việt Nam hiện vẫn còn sống động.

Nói theo kiểu Pháp, những điều tôi cố gắng ghi lại một cách trung thực qua công tác điền dã dưới đây là THẬT mà không chắc là THỰC (vrai mais pas nécessaire réel). Ngồi rỗi ở Cornell thì viết chơi, vậy thôi.....

[...]
***

Từ trực giác nguyên sơ (original intuition), qua những kinh nghiệm tự thân trong công tác điền dã, qua cả những tri thức kiến văn nữa, lâu dần hình như ở trong tôi sẽ có cái có thể gọi là trực giác kinh nghiệm (experienced intuition), từ đó có thể khai mở những cái bị che đậy.

Những tiếng Âu Tây giành cho sự khám phá khoa học: Discovery - Découverte - thì, theo tôi hiểu, đều bao hàm động tác dis-cover, dé-couvrir, ngụ ý mở cái nắp đậy cái sự thực, cái cần biết ở bên trong, mà bình thường vì một tư dục, tư ý nào đó mà nó bị che lấp.

Tôi đã mở (đầu) bài kinh nghiệm điền dã Folklore này của mình bằng câu chuyện một vị tiến sĩ vô danh, nghĩa là không còn tên tuổi, để dẫn dắt đến câu chuyện của những người có tên tuổi.

Đến đây tôi sẽ "khép" (lại) bài kể lể khá dài dòng của mình bằng câu chuyện một người tuy có tên tuổi nhưng không lấy gì làm nổi tiếng lắm, hay đúng hơn, đã trở nên có tên tuổi nhờ gắn bó máu thịt với một người tên tuổi (nhưng từ đầu đến cuối câu chuyện của tôi đều nói về các nhà Nho - các vị thái học sinh, tiến sĩ, bảng nhãn hay là phó bảng cả).

Đó là câu chuyện về cụ thân sinh ra chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy.

Phó bảng là một học vị tiến sĩ, chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (1830-1831).

Trong một lá đơn bằng tiếng Pháp gửi bô. Thuộc địa Pháp, Nguyễn Tất Thành (sau là Hồ Chí Minh) đã khéo dịch tên học vị của phụ thân mình là Sous-Docteur, như ngày nay ta gọi là Phó Tiến Sĩ.

Quê hương cụ, là làng Kim Liên (tên nôm là làng Sen), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nhưng đậu phó bảng rồi, cụ đã làm thừa biện bô. Lễ ở Huế rồi tri huyện ở Bình Khê (Bình Định). Rồi bỏ quan (hay bị cách chức quan), cụ phiêu dạt vô Sàigòn, ngồi bắt mạch kê đơn ở tiệm thuốc bắc Hoa kiều, để có chút tiền cơm rượu.... Lại phiêu lãng nữa, tới miền Tây Nam bộ, và cuối cùng mất ở Cao Lãnh (Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Mộ cụ phó bảng được xây lại cuối năm 1954 sau sự kiện Genève tạm thời chia đôi đất nước Việt Nam.

Người ta làm thế là vì cụ Hồ. Cũng như mộ bà Hoàng Thị Loan, vợ cụ, và là thân mẫu Hồ Chí Minh mới được dời xây lại vài năm nay ở Nam Đàn, Nghệ An. Người ta làm thế cũng là vì cụ Hồ. Hai ngôi mộ này, cũng như bản thân Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh giữa lòng Ba Đình, Hà Nội đều hiện hữu ngoài ý thức chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Hồ vốn được xem là người giản dị, khiêm nhường!

Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.

Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là "lan truyền" (de transfest folklorique) thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta sợ động chạm đến cụ Hồ. Một cái sợ vô nghĩa (insignifiant) nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn trong cuốn tiểu truyện bằng tiếng Anh "Life and Death in Shanghai, đã được phiên dịch ra tiếng Việt, ở xã hội "xã hội chủ nghĩa", cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia".

Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.

Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của họ Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo.

Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phu? Việt Nam dân chủ cộng hoà thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hoà nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoản đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".

Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bả: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cư? Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cư? Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cư? Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...

Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà goá vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già goá vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".

Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẻ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cư? Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.

Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).

Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".

Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.

May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng.

Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.

Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.

Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.

Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày nay) trở thành con trai út.

Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng.

Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.

Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.

Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan (1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi tri huyện Bình Khê... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa...

Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.

Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.

Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình?

Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này...

Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa....

Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.

Sau cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.

Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thanh trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần (partly) được hình thành một cách hữu thức, bở một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hoá (mystified).

Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ...

Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.

Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.

Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh ly. Nghệ An - cu Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội".

Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?

Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê.

Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý".

Tháng 1-1991, Trần Quốc Vượng.
(Trích cuốn Trong cõi của tác giả)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
23.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thơ chúc tết của Bác - Sức mạnh tiềm tàng trong tâm hồn rộng mở

Tác giả: Hải Triều


THƠ CHÚC TẾT CỦA BÁC. SỨC MẠNH TIỀM TÀNG
TRONG TÂM HỒN RỘNG MỞ.

Bác ơi!
          Tết đến.
                   Giao thừa đó
Vẫn đón nghe thơ Bác mọi lần
Ríu rít đàn em vui pháo nổ
Tưởng nghìn tay Bác vỗ  sang xuân ...
(Tố Hữu)

Dẫu rằng ước mong đó giờ đây chỉ còn trong tâm khảm, nhưng cứ mỗi độ xuân về, tấm lòng mỗi người con nước Việt lại bùi ngùi khôn xiết. Những vần thơ chan chứa ân tình, tình của núi non sông nước, tình của một tấm lòng cao cả chở che.
Đã thành thông lệ, có lẽ ngàn đời về sau, lời chúc tết của vị Chủ tịch nước gửi tới toàn thể đồng bào trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài sẽ mãi mãi trường tồn. Xuân sang, chúng con khôn nguôi nỗi nhớ Người, vóc dáng hình hài cùng những vần thơ sắt son chất thép. Sự kết tinh của chủ nghĩa anh hùng cao cả trong một tấm lòng bình dị đã lan toả khắp không gian và thời gian, cuộn mình chảy với dòng máu Lạc Hồng.
22 bài thơ chúc Tết của Người là 22 lời kêu gọi sức mạnh đoàn kết và lý tưởng cách mạng cao cả. Ẩn sâu trong những khúc ca hào sảng ấy là một tấm lòng vì nước vì dân. Lần cuối cùng đón xuân cùng nhân dân cả nước ở cõi dương gian này, trái tim Người vẫn không ngừng trào sôi ngọn lửa đấu tranh:

Nǎm qua thắng lợi vẻ vang,
Nǎm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào.
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào,
Bắc-Nam sum họp, xuân nào vui hơn!
(THƠ CHÚC TẾT XUÂN KỶ DẬU – 1969)

Thật tự nhiên, những vần thơ ấy đã đi vào lòng người và âm thầm chảy mãi. Khắc giao hoà của đất trời đã hoà chung cùng ước vọng thiêng liêng của cả dân tộc. Ánh trong chất thép rắn chắc ấy là sự dung dị của tứ thơ, của lý tưởng cộng sản vững bền không gì lay chuyển nổi.
Trong quá khứ, mảnh đất này đã là nơi thấm đầy máu và nước mắt của cõi người, với biết bao nỗi thống khổ giữa sự sống và cái chết, giữa gặp gỡ và chia ly. Dòng sông Gianh hiền hoà đã có lúc như một lằn roi quất ngang chia cắt Đàng Trong, Đàng Ngoài thời Trịnh Nguyễn, cũng chính nó chứng kiến biết bao sự hy sinh của một lớp người bên này bờ Bắc, phía bên kia của bờ Nam. Lòng quật cường của ông cha biết bao đời nay đều hướng tới để xoá bỏ sự cắt chia ác nghiệt đó. 22 lời ca chúc Tết của Bác Hồ là 22 niềm khắc khoải về một ngày thống nhất Bắc – Nam.

Bắc Nam như cội với cành,
Anh em ruột thịt, đấu tranh một lòng.
Rồi đây thống nhất thành công,
Bắc Nam ta lại vui chung một nhà.
Mấy lời thân ái nôm na,
Vừa là kêu gọi, vừa là mừng xuân.
( THƠ CHÚC TẾT XUÂN GIÁP THÌN – 1964)


Những vần thơ ấm tình dân tộc, hồn cốt và khí phách ấy đong đầy trong từng câu, từng chữ. Nhịp thơ 6/8 mà Bác Hồ sử dụng thật đắc địa. Trong dáng vẻ hiền hoà của dải đất hình chữ S, trong cõi lòng êm ả của mỗi người mượt mà cùng thời thơ ấu của những lời ru. Ngọn lửa đấu tranh vẫn bừng bừng soi tỏ, hắt sáng lên từng góc cạnh của những tay cày, tay súng xả thân vì đất nước thân yêu.

Xuân về xin có một bài ca,
Gửi chúc đồng bào cả nước ta:
Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi,
Tin mừng thắng trận nở như hoa!
THƠ CHÚC TẾT XUÂN ĐINH MÙI - 1967

Mãn Giác Thiền Sư (thời Lý) từng có hai câu thơ mà người đời mệnh danh là tuyệt bút:

Những tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai.

Sức sống tiềm tàng của cõi nhân gian được gói gọn trong chỉ có một từ - “XUÂN”. Dẫu rằng mùa xuân đã qua, nhưng hơi ấm cùng vòng xoay vô tận của nó đã đủ sức níu kéo sự sống, níu kéo màu xanh của cỏ cây và điểm tô thế giới bằng những điểm màu của biết bao cánh hoa khoe sắc.
Khoảng cách về thời đại không xoá bỏ niềm rung cảm của mỗi thi nhân. Ngót 1000 năm sau, Bác Hồ “tạo tác” vẻ đẹp của mùa xuân bằng một hình ảnh tịnh tiến:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà,
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.
Tiến lên!
  Toàn thắng ắt về ta!
(THƠ CHÚC TẾT XUÂN MẬU THÂN – 1968)

Chất thép trong thơ của Hồ Chủ Tịch đã tạo dáng cho mùa xuân của thời đại một nét quyến rũ rất riêng. Vẻ đẹp ấy không lẻ loi, cô tịch như phần lớn tác phẩm của những tao nhân mặc khách thời kỳ trước; vẻ đẹp ấy khoẻ khoắn, ấm nồng sức trẻ, niềm chung vui chiến thắng của những người chiến sĩ cùng chảy trong mình dòng máu của lý tưởng cộng sản, cùng gánh vai để giải phóng Tổ quốc thân yêu.
Nhìn từ giác độ lý luận, thơ là sự giải toả cảm xúc của các thi nhân. Thơ cũng có những dòng chảy và phân chia nhánh một cách rõ ràng. Ngày trước, Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ miêu tả khung cảnh chất phác nơi thôn dã, trong đó dồn nén đến mức cô đặc tâm trạng và tư tưởng của một nhà nho yêu nước. Về sau, Tố Hữu được biết đến trong dòng thơ hiện đại bằng một thuật ngữ: “Nhà thơ trữ tình chính trị”. Và Bác Hồ, với tập thơ “Ngục trung nhật ký” cùng những bài thơ chữ Hán của Người đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trong sự trân trọng của bạn bè khắp năm châu.
Có lẽ, chỉ với những người con nước Việt mới hiểu và cảm được một cách trọn vẹn cả ý, cả tình trong những vần thơ chúc tết của Bác. Tư tưởng và hoài bão của Người là hiện thân của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Thời khắc thiêng liêng của sự giao hoà trong thế giới tự nhiên một lần nữa được nhân lên trong cõi lòng mỗi người đang mang trong mình niềm tin tất thắng.

Kháng chiến lại thêm một nǎm mới,
Thi đua ái quốc thêm tiến tới.
Động viên lực lượng và tinh thần,
Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi.

  Người người thi đua.
  Ngành ngành thi đua.
  Ngày ngày thi đua.
  Ta nhất định thắng.
  Địch nhất định thua.
(THƠ CHÚC TẾT XUÂN KỶ SỬU – 1949)

Giá trị trường tồn trong những vần thơ của Bác không phải là hiện thân của một vị lãnh tụ. Giá trị ấy ẩn trong một con người bình dị như biết bao những con người đang cầm súng, cầm cày trên khắp đất nước Việt Nam. Ấy là tiếng lòng của những người sống trong lao khổ và đồng lòng đứng lên để thoát khỏi nơi lao khổ.
Xuân sang, chúng con nhớ tới Người, thành kính dâng lên Người vẫn bằng những tấm lòng bình dị:

...Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
(Bác ơi - Tố Hữu)

11.00
Chia sẻ trên Facebook

Bài liên quan

Hoàng Sĩ Khải 黃士愷

Hoàng Sĩ Khải 黃士愷 hiệu Lãn Trai, quê Lai Xá, Lương Tài, Bắc Ninh, đỗ tiến sĩ khoa thi Giáp Thìn thời vua Mạc Phúc Hải (1544), làm quan đến chức Hộ bộ thượng thư kiêm Quốc Tử Giám tế tửu. Ông là thông gia với Đình nguyên hoàng giáp Vũ Kính, bạn đồng khoa, người làng Lương Xá cùng huyện. Chàng rể Vũ ...

Lê Hiển Tông 黎顯宗

Lê Hiển Tông 黎顯宗 (1717-1786) huý Lê Duy Diêu 黎維祧, là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung Hưng. Ông ở ngôi từ năm 1740, sau khi Trịnh Doanh ép vua Lê Ý Tông nhường ngôi cho ông, đến năm 1786. Ông là con trưởng của vua Lê Thuần Tông, là vị vua ở ngôi lâu nhất và là vua thọ nhất của nhà Hậu Lê. Đời ...

Hoàng Thị Minh Khanh

Hoàng Thị Minh Khanh sinh năm 1941 tại Từ Liêm, Hà Nội. Tác phẩm: - Một mùa hoa (1946) - Tháng giêng hai (1969) - Bâng khuâng (1991) - Đến bao giờ (1992) - Mùa ổi chín (1996) - Như chú chim non (1994) - Chú mèo con (1995) - Bé chăm bà ốm (1996) - Con cún thích đùa (1996)

Hư Vô Hùng Võ

Hùng Võ sinh ngày 15-5-1956 tại Việt Nam, hiện cư trú tại Sydney, Australia. Nghề nghiệp chính thức là kiến trúc sư, ngoài ra có tham gia làm thơ với bút danh Hư Vô, là cộng tác thường xuyên của tờ Dân Việt . Thơ đã đăng trên các báo: Làng văn (Canada), Việt Mỹ (Mỹ), Dân Việt (Australia). Đã xuất ...

Đoàn Phú Tứ

Đoàn Phú Tứ sinh ngày 10 tháng 9 năm 1910 tại Hà Nội, quê quán Tử Nê, huyện Tiên Du (nay là huyện Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Ông đậu Tú tài Pháp năm 1932 sau đó, khi đang học dở trường Luật năm thứ hai thì bỏ học đi làm báo. Ông viết cho các báo Phong hoá, Ngày nay, Hà Nội báo, Tinh hoa. Năm 1942, ...

Hoàng Liên Sơn

Hoàng Liên Sơn sinh năm 1972, nguyên quán Hưng Hà, Thái Bình, tốt nghiệp Đại học Bách Khoa Hà Nội năm 1994, hiện sống và làm việc tại Hà Nội. Tác phẩm: - Chuông gió ngoài hiên (NXB Hội Nhà văn, 2014) - Những số hạng yêu thương (NXB Hội Nhà văn, 2017) Giải thưởng: - Giải ba cuộc thi “Tầm nhìn ...

Đỗ Tử Vi 杜子微

Đỗ Tử Vi 杜子微 hiệu Tồn Trai, chưa rõ sinh và năm nào, quê quán ở đâu. Ông từng làm quan vào đời Trần, tới chức Trung thư lệnh. Tác phẩm hiện còn 2 bài thơ chép trong "Toàn Việt thi lục".

Hoàng Lộc

Hoàng Lộc (1920-1949) sinh tại Châu Khê, Ninh Giang, Hải Dương, vào bộ đội, làm phóng viên mặt trận, mất khih 29 tuổi vì bệnh lao. Tác phẩm: - Từ hoàng hôn đến bình minh - Lời thông điệp - Viếng bạn (1947) - Tuổi xuân, những trang thơ, những cuộc đời (1990) - Chặn gọng kìm đường số 4 (1948)

Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937 tại thành phố Huế, quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Tuổi nhỏ ông sống ở Huế và học hết bậc trung học tại đây. Năm 1960 ông tốt nghiệp khoá I ban Việt Hán, Đại học Sư phạm Sài Gòn, năm 1964 nhận bằng Cử nhân ...

Hồ Dzếnh Hà Triệu Anh

Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh (ghi theo giọng Quảng Đông là Hồ Dzếnh), sinh năm 1916 tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hoá. Cha ông là Hà Kiến Huân, người gốc Quảng Đông, mẹ Đặng Thị Văn là người Việt. Ông học trung học, dạy tư, làm thơ, viết báo từ năm 1931 tại Hà Nội. ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...