24/05/2018, 23:54

Hiện trạng thị trường chứng khoán Việt Nam

Thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến nay đã hoạt động được trên 3 năm .. Sau 3 năm hoạt động , nhìn tổng thể kết quả đạt được là thiết lập đưa vào hoạt động một TTCK có tổ chức cho giai đoạn ban đầu , thể hiện trên các mặt sau ...

Thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến nay đã hoạt động được trên 3 năm .. Sau 3 năm hoạt động , nhìn tổng thể kết quả đạt được là thiết lập đưa vào hoạt động một TTCK có tổ chức cho giai đoạn ban đầu , thể hiện trên các mặt sau

TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức theo mô hình tập trung qui mô nhỏ, thực hiện chức năng xác định giá chứng khoán theo quan hệ cung cầu và tạo cơ hội luân chuyển cho các nhà đầu tư chứng khoán

Khi thị trường bắt đầu hoạt động ,chỉ có 2 cổ phiếu được niêm yết ,giao dịch tại TTGDCK với tổng giá trị vốn niêm yết là 270 tỷ , đến nay tổng giá trị chứng khoán niêm yết là gần 6.600 tỷ đồngbao gồm trên 1000 tỷ đồng cổ phiếu của 21 công ty cổ phần và trên 5.550 tỷ đồng trái phiếu chính phủ (TPCP) và trái phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển (NHĐT&PT) . Thời gian đầu TTGDCK chỉ thực hiện 3 phiên / 1tuần , từ tháng 3/2002 nâng lên 5 phiên một tuần . Tính đến 30/6/2003 TTGDCK đã tổ chức 570 phiên giao dịch chứng khán liên tục , an toàn ,cđạt giá trị giao dịch chứng khoán gần 3700 tỷ đồng trong đó giao dịch cổ phiếu khoảng 88% và giao dịch trái phiếu gần 12%

TTGDCK đã thực hiện tốt chức năng của một trung tâm lưu ký chứng khoán trong điều kiện cơ sở kỹ thuật cũng như nhân lực còn rất hạn chế . Hệ thống lưu kí hoạt động tương đối có hiệu quả , vì thế đã rút ngắn thời gian thanh toán từ 4 ngày xuống còn 3 ngày. NgoàI việc lưu ký 100% trái phiếu niêm yết ,số lượng cổ phiếu niêm yết đượclưu ký đều trên 50% giúp cho hoạt động thanh toán giao dịch chứng khán nhanh gọn , giảm nhiều rủi ro. TTGDCK đã chủ động thực hiện việc cung cấp thông tin kịp thời thông qua các công ty chứng khoán tới người đầu tư , đến nay đã thực hiện cung cấp thông tin trực tuyến thay cho việc cung cấp thông tin tại sàn thông qua đại diện giao dịch của các công ty chứng khoán

Từ ngày 20/5/2003 TTGDCK đã áp dụng một số giải pháp kỹ thuật như hạ thấp lô giao dịch cổ phiếu , tăng từ 1 lên 2 lần khớp lệnh trong phiên giao dịch , bổ sung lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh (ATO ), giảm tỷ lệ ký quĩ tối thiểu xuống 70% . Việc áp dụng những giải pháp trên bước đầu có tác dụng thu hút thêm các nhà đầu tư , đa dạng hình thứclệnh giao dịch , tăng thêm lựa chọn cho nhà đầu tư , tập dượt cho việc khớp lệnh liên tục

Nhìn chung , trong 3năm hoạt động ,TTCK đã thực hiện tốt công tác quản lý , niêm yết thành viên ,giao dịch và công bố thông tin trên thị trường ngày càng chủ động hơn trong tổ chức ,vận hành và quản lý giao dịch chứng khoán . Tuy nhiên vẫn còn những bấy cập trong giám sát giao dịch chứng khóan , giám sát thực hiện chế độ công bố thông tin của công ty niêm yết

Đến nay , Uỷ ban chứng khoán đã cấp giấy phép đăng ký niêm yết cổ phiếu cho 21 công ty cổ phầnvới tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là 1.086 tỷ đồng ; cấp phép niêm yết cho Ngân hàng đầu tư và phát triển (NHĐT&PT )với tổng giá trị trái phiếu niêm yết là 157 tỷ đồng ; TTGDCK TP.HCM đã phối hợp với bộ tài chính , tổ chức đấu thầu hơn 50 đợt TPCP, trái phiếu của Quĩ hỗ trợ đầu tư và phát triển được hơn 5400 tỷ đồng đưa ra niêm yết trên TTGDCK . UBCKNN cũng đã cấp giấy phép phát hành cho 5 công ty với tổng giá trị trên 155,4 tỷ đồng . Hiện nay , UBCKNN đang xem xét hồ sơ xin đăng ký niêm yết cổ phiếu của 2 công ty ( Cty Cơ khí xăng dầu và Cty cp bông Bạch Tuyết )

Qua hơn 3 năm hoạt động cho thấy , công tác tạo hàng hoá cho TTCK là rất quan trọng , thời kỳ đầu việc triển khai công tác này có nhiều khó khăn , nhưng đến nay số lượng hàng hoá niêm yết trên 6000 tỷ đồng là một gắng rất lớn của UBCKNN

Các công ty niêm yết bước đầu đã thực hiện tốt các qui định về công bố thông tin trên TTCK và chú trọng nâng cao chất lượng quản trị công ty . Tuy nhiên ,do TTCK là một lĩnh vực mới , phức tạp nên các Cty niêm yết cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định . Các Cty niêm yết còn thụ động trong việc công bố thông tin liên quan đến hoạt động của công ty . Trong thời gian qua , một số công ty niêm yết đã có những vi phạm về nghĩa vụ công bố thông tin gây mất lòng tin công chúng đầu tư như : chậm nộp và công bố báo cáo tài chính . Nhìn chung , các công ty niêm yết đều hoạt động tốt , tuy nhên có Cty niêm yết thực hiện đầu tư dàn trải , thiếu hiệu quả , ảnh hưởng không tốt tới tình hình tài chính cũng như sự phát triển của công ty ( trường hợp của Bibica )

Hiện nay , việc phát triển hàng hoá cho TTCK đang gặp nhiều khó khăn . Số lượng hàng hoá có tăng nhưng rất chậm. , các Cty niêm yết chủ yếu vẫn là những công ty qui mô

nhỏ , chưa có phát hành trái phiếu công ty , trái phiếu công trìng niêm yết trên TTGDCK ; việc đấu thầu TPCP qua TTGDCK triển khai còn ít , chưa đáp ứng được yêu cầu

Hoạt động của công ty chứng khoán

Đến 30/6/2003 ,UBCKNN đã cấp phép hoạt động cho 12 công ty chứng khoán với tổng số vốn điều lệ là 465 tỷ đồng , hoạt động các nghiệp vụ : môI giới , bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư

Qua hơn 3 năm tham gia thị trường , về cơ bản , các Cty CK đều tuân thủ các qui định của pháp luật về chứng khoán và TTCK . Bước đầu các Cty Ck đã tập trung hoàn thiện bộ máy tổ chức , nâng cao năng lực phục vụ khách hàng , một số công ty đã tăng vốn điều lệ , sử dụng phương thức nhận lệnh giao dịch gián tiếp qua Fax , mạng thông tin trực tuyến … ,mở thêm các chi nhánh , phòng giao dịch , đại lý nhận lệnh tại các tỉnh , thành phố Hà Nội ,TP.HCM , HảI Phòng , Bình Dương ,Đồng Nai , Long An , Đà nẵng . Các công ty chứng khoán đã xây dựng được một đội ngũ nhân viên nghiệp vụ kinh doanh được đào tạo tốt

Nhìn chung , các công ty chứng khoán đã thực hiện vai trò trung gian trong việc môi giới , mua bán chứng khoán , tích cực tham gia tư vấn niêm yết và thực hiện cung cấp thông tin đến các nhà đầu tư , góp phần cvào thành công của thị trường . Tuy nhiên , hạn chế trong hoạt động của các công ty chứng khoán là một số công ty chưa tuân thủ nghiêm túc các yêu cầu về hoạt đôngj , chưa thể hiện và trò tích cực , chủ động phát triển thị trường; chất lượng tư vấn đầu tư chứng khoán và tư vấn niêm yết chưa cac , chưa đẩy mạnh nghiệp vụ tự doanh , nhà đầu tư còn chưa thật sự tin tưởng vào tính công bằng và khách quan trong hoạt động môi giới , tư vấn đầu tư , đội ngũ nhân viên chưa đáp ứng được nhu cầu công việc

Hoạt động của các tổ chức trung gian hỗ trợ khác

UBCKNN đã lựa chọn NHĐT&PT Việt Nam làm ngân hàng chỉ định thanh toán , thực hiên thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán . Tính đến 30/6/2003 , ngân hàng thanh toán đã thực hiên thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán một cách kịp thời, hính xác với tổng số tiền khoảng 1000 tỷ đồng . Hiện nay , ngân hàng thanh toán đang triển khai hoạt động theo hướng vừa là ngânhàng lưu kí , vừa là ngân hàng phục vụ hoạt động TTCK

Để phục vụ cho triển khai chứng khoán nhanh chóng , an toàn và thực hiện dịch vụ liên quan đến quyền của người nắm giữ chứng khoán , đến nay đã có 5 ngân hàng lưu kí ( 2 ngân hàng trong nước , ba ngân hàng nước ngoàI ) và 11 công ty chứng khoán được cấpgiấy phép thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán . Hiện nay , TTCK đã có hệ thống lưu ký chứng khoán tập trung , hoạt động ổn định và đã cho phép người nước ngoài mở tài khoản tại các Cty CK , ngân hàng trong nước tạo điều kiện để người đầu tư trong nước và ngoài nước tham gia thị trường . Tuy nhiên cơ sở vật chất còn yếu kém , ngiệp vụ lưu ký , đăng ký và thanh toán bù trừ chưa được tự động hoá , phải xử lý thủ công làm tăng thời gian và chi phí, độ an toàn thấp

Đến nay ,UBCKNN đã chấp thuận cho 07 tổ chức kiểm toán độc lập kiểm toán các báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành , niêm yết chứng khoán và tổ chức kinh doanh chứng khoán gồm 06 tổ chức kiểm toán trong nước và 1 tổ chức kiểm toán nước ngoài . Các tổ chức kiểm toán được chấp thuận đã đáp ứng được yêu cầu kiểm toán cho các đối tượng tham gia TTCK .Tuy nhiên trong quá trình triển khai nghiệp vụ này , nhiều tổ chức kiểm toán cũng có những thiếu sót nhất định , chất lượng báo cáo kiểm toán chưa cao ,UBCKNN đã phối hợp chătj chẽ với Bộ tài chính trong việc quản lý các tổ chức kiểm toán đựơc chấp thuận cũng như có biện pháp xử lý kịp thời

Mặc dù thị trường chứng khoán Việt nam mới hình thành và hoạt động được 3 năm nhưng đã thu hút được sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước . Số lượng các nhà đầu tư tham gia trên thị trường liên tục tăng ; cuối năm 2000 có gần 3000 tài khoản giao dịch ; cuối năm 2001 có gần 9000 tài khoản và đến 30/6/2003 có hơn 14.500 tài khoản

giao dịch trong đó hơn 90 nhà đầu tư cố tổ chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài . Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam . Một trong những điểm nổi bật ở đối tượng các nhà ĐTNN là tính chuyên ngiệp và bản lĩnh đầu tư . Sự góp mặt của các nhà ĐTNN đã phần nào làm hạn chế sự suy giảm của thị trường , thâm chí có những thời điểm đã hâm nóng nhiệt độ thị ttrờng .

Tuy nhiên , số lượng nhà đầu tư tham gia TTCK chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân , ít vốn , tham gia thị trường mang tính chất thăm dò , khi thị trường có dấu hiệu bất ổn thì rút khỏi thị trường . Số lượng tài khoản thường xuyên giao dịch khoảng 1000 tài khoản . Nhà đầu tư có tổ chức quá ít . Nhà đầu tư nước ngoài phần lớn đang cư trú tại Việt Nam , do qui mô thị trường còn bé , các chính sách đối với nhà ĐTNN còn chưa rõ ràng , cơ chế mở tàI khoản lưu ký , giao dịch cho nhà ĐTNN còn phức tạp nên chưa thu hút được đông đảo nhà ĐTNN đặc biệt là người không cư trú tại Việt Nam

Đánh giá thị trường chứng khoán sau hơn 3 năm hoạt động

Qua 3 năm hoạt động , thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được những kết quả như sau

  • Một là , đã mở ra một TTCK theo mô hình tập trung với qui mô nhỏ . Hoạt động của thị trường chứng khoán mặc dù chưa phát triển như mong muốn song bước đầu đã được triển khai suôn sẻ , không gây ra những biến cố lớn hoặc tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế – xã hội của đất nước
  • Hai là , đã huy động được một khối lượng vốn nhất định cho ngấnachs Nhà nước thông qua cơ chế đấu thầu và bảo lãnh phát hành trên 5400 tỷ đồng TPCP , trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển để niêm yết trên thị trường . Đã có 05 Cty phát hành thêm cổ phiếu để mở rộng sản xuất kinh doanh , tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ đồng
  • Ba là , đã xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian tham gia trên TTCK , bao gồm các Cty CK , các tổ chức lưu ký , ngân hàng chỉ định thanh toán . Các trung gian tàI chín đã làm tốt vai trò môi giới , mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung , tích cực tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết và cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư , thực hiện tốt việc thanh toán bù trừ các giao dịch chứng khoán trên thị trường
  • Bốn là , công chúng dần làm quen với với thị trường chứng khoán . TTCK Việt Nam được xây dựng là một thị trường CK mang tính đại chúng , vì thế , mỗi cổ phiếu theo qui định tại nghị định 48/1998/NĐ -CP chỉ có mệnh giá là 10.000 đồng đẻ người dù ít tiền cũng có thể tham gia . Nhờ vậy , trong một thời gian ngắn , số lượng các nhà đầu tư tăng lên rất nhanh
  • Năm là , hoạt động quản lý , vận hành thị trường của UBCKNN và TTGDCK TPHCM đã có nhiều cải tiến và từng bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh ngihiêm từ hoạt động thực tiễn
  • Sáu là , hoạt động cuẩ TTCK góp phần thúc đẩy tiến trình CPH doanh nghiệp Nhà nước và áp dụng những công nghệ tốt nhất trong quản trị doanh nghiệp trong đó việc thực hiện công khai thông tin về hoạt động sản xuất , kinh doanh và quản trị doanh nghiệp có ý ngiã đặc biệt quan trọng tạo ra tiền đề phấn đấu cho sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp nói chung và Cty niêm yết nói riêng

Những hạn chế

  • Thứ nhất , TTCK Việt Nam phải chăng còn quá trầm lặng . Ta xem xét kể từ phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên, ngày 28/7/2000 , liên tiếp giá cổ phiếu tăng . Đến phiên giao dịch ngày 26/6/2001 chỉ số chứng khoán VN. Index đạt con số kỷ lục là 571, 04 điểm, trị giá trong phiên đạt 23.570.700.000 đồng . Tại thời điẻm đó , giá các cổ phiếu giao dịch đã đạt tới mức cực đỉnh . Chỉ trong vòng một năm đầu chỉ số giao dịch đã tăng liên tục . Nhưng đó cũng là lời cảnh báo về sự tụt dốc tất yếu sẽ xảy ra . Và điều đó đã xảy ra ,chỉ số VN.Index liên tục sụt giảm trong những tháng tiếp theo cùng với sự nguội lạnh dần của thị

trường . Đến tháng 3 năm 2003 , giá các cổ phiếu đồng loạt sụt giảm , VN, Index giảm đến mức kỷ lục145,41 điểm vào ngày 31/3 . Cung cầu của thị trường cổ phiếu có những biểu

hiện khó nắm bắt . Các nhà đầu tư trong tình trạng thiếu thông tin thị trường trong khi những thông tin tác động đa chiều luôn được chuyênr tải . Một số công ty niêm yết dường như đang bị xói mòn hình ảnh tốt đẹp trong mắt các nhà đầu tư . Sau đó , TTCK “ phục hồi" nhưng từ đó đến nay chỉ số chứng khoán chỉ trongphạm vi 150- 160 điểm ,tổng giá trị giao dịch khớp lệnh từng phiên giao dịch chỉ đạt 2- 10 tỷ đồng . Thêm vào đó , mặc dù còn ở giai đoạn phát triển ban đầu những hiện tượng đầu cơ , thao túng thị trường … đã có dấu hiệu manh nha trên thị trường chứng khoán Việt Nam , và gây khó khăn không ít cho hoạt động quản lý và điều hành thị trường

Đồng thời do tổng mệnh giá các chứng khoán niêm yết còn quá nhỏ vì vậy ,sự thay đổi giá cả của chúng chưa phản ánh được động tháI của nền kinh tế quốc dân. Cho nên chỉ số chứng khoán VN.Index không những không phát huy được tác dụng dự báo trước xu hướng mà còn phản ánh không đúng thực trạng nền kinh tế . Trong những năm gần đây , nền kinh tế Việt Nam luôn tăng trưởng cao , ổn định >7% trong khi đó ,chỉ số chứng khoán thì liên tục biến thiên giảm .Như vậy , TTCK chưa thể đóng vai trò “ hàn thử biểu “ của nền kinh tế

  • Thứ hai , nền kinh tế Việt Nam còn khó khăn , thu nhập dân chúng thấp , nguồn vống lại bị phân tán ,đầu tư vào các tàI sản thay thế như tiền gửi , ngân hàng , đầu tư bất động sản , ngoại tệ … chưa có chính sách phù hợp để khai thác nguồn lực tàI chính trong dân . TTCK chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dàI hạn cho đầu tư páht triển . Hiện nay tỉ lệ vốn đầu tư vào chứng khoán còn quá nhỏ bé , tổng giá trị thị trường mới chiếm 1,6% GDP
  • Thứ ba , hệ thống doanh nghiệp Việt Nam còn mang nặng tư tưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung , còn trông chờ vào nguồn vay ưu đãi không muốn huy động vốn trên thị trường . Các doanh nghiệp e nhại kiểm toán và công bố thông tin khi niêm yết trên thị trường chứng khoán . Các doanh nghiệp niêm yết không phải là các doanh nghiệp lớn , có khả năng phát triển hấp dẫn người đầu tư . Ngoài ra ở một số Cty niêm yết tỷ lệ vốn thuộc sở hữu nhà nước còn khá cao ,do vậy khối lượng cổ phiếu thực sự đưa vào giao dịch rất thấp. Các tổ chức niêm yết chưa they hết dược tầm quan trọng của việc công khai thông tin nên chưa chủ động , tự giác cung cấp thông tin cho công chúng đầu tư , chính điều này phần nào ảnh hưởng đến lòng tin và quyết định tham gia thị trường của người đầu tư
  • Thứ tư , Đảng và chính phủ chủ trương phát triển hệ thống tài chính trong đó có thị trường vốn , TTCK ; tuy nhiên trong điều hành thì hệ thống thị trường bị chia cắt : Thị trrường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước quản lý , thị bảo hiểm do Bộ tài chính điều hành , TTCK do UBCKNN giám sát . Các bộ ngành đều xây dựng chiến lược phát triển của ngành mình, song chưa có sự tổng hợp thống nhất chiến lược phát triển thị trường tài chính nói chung. Vì vậy định hướng và các giảI pháp thiếu đồng bộ ; chưa coi việc phát triển thị trường vốn, TTCK là khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
  • Thứ năm , quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK còn nhiều bất cập, khó khăn. UBCKNN đã tăng cường công tác quản lý giám sát , xử lý kịp thời các vi phạm , tuy nhiên cơ chế quản lý điều hành chưa đáp ứng đòi hỏi thị trường , thể hiện ở các mặt như hệ thống pháp lý chưa đồng bộ , thâm chí mâu thuẫn ( ví dụ giữa các văn bản về tham gia mua cổ phiếu của các nhà ĐTNN) ; chính sách khuyến khích các đối tượng tham gia thị trường ( thuế , phí .. )chưa thống nhất và chưa thực sự được phát huy tác dụng ( ví dụ đối với nhà đầu tư cá nhân được miễn thuế , nhưng các nhà đầu tư có tổ chức thì chưa được miễn thuế); hưa kịp thời xử lý các tình huống đặc biệt là lúc thị trường lên xuống thất thường

Hoạt động của TTGDCK còn hạn chế về mô hình tổ chức và trình độ kỹ thuật ; việc cung cấp thông tin thị trường chưa được thuận lợi cho người quan tâm .

Nguyên nhân tồn tại

Những tồn tại và hạn chế nêu trên , bắt nguồn từ các nguyên nhân cơ bản sau

  • Một là , TTCK là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính nhưng được xây dựng và phát triển một cách riêng rẽ , thiếu chiến lược tổng thể phát triển thị trường tài chính cũng như sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các bộ , các ngành liên quan trong việc hoạch định và thực thi chính sách
  • Hai là ,chứng khoán niêm yết còn hạn chế về số lượng , chất lượng chưa cao . Nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cân kịp thời với thị trường vốn mà còn ỷ lại vào sự ưu đãI , bao cấp của nhà nước hoặc thói quen vay ngân hàng , mặt khác doanh nghiệp còn ngại công bố thông tin , công khai tàI chính khi tham gia niêm yết
  • Ba là , thị trường còn thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức ( Ngân hàng , bảo hiểm , quỹ đầu tư ,các tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp ) nên ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường do tác động tâm lý của các nhà đầu tư nhỏ , thiếu chuyên nghiệp
  • Bốn là ,việc quản lý và điều hành thị trường của UBCKNN , TTGDCK còn bất cập , hạn chế do sự thiếu chủ động và thiếu kinh nghiêm của đội ngũ quản lý thị trường
  • Năm là , vai trò của nhà nước hỗ trợ thị trường là rất quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức như các chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế đối với các tổ chức tham gia thị trường
  • Sáu là , những biến động trong thời gian qua về thị trường bất động sản , giá vàng , lãI suất ngân hàng tăng … cũng tác động, ảnh hưởng xấu đến thị trường chứng khoán
0