Hàn Mặc Tử Nguyễn Trọng Trí, Hàn Mạc Tử

Hàn Mặc Tử (1912–1940) tên thật Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là Pierre, sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, Tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình) trong một gia đình công giáo nghèo, cha mất sớm. Thuở nhỏ sống và học tiểu học ở Quy Nhơn, học trung học ở Huế, sau làm ở Sở Đạc Điền, bị thôi việc vì đau ốm. 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận , phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau lại trở ra Quy Nhơn. 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Quy Nhơn và qua đời ở đó. Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị. 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập trường thơ Loạn, tuyên ngôn là bài tựa cho tập Điêu tàn của Chế Lan Viên. Với các bút danh Phong Trần, Lệ Thanh và cuối cùng là Hàn Mặc Tử, đăng bài trên các báo Phụ nữ tân văn , Tiếng dân , Công luận , Tân thời , Đông Dương tạp chí , Người mới , Trong khuê phòng , Sài Gòn , v.v... Sinh thời Hàn Mặc Tử mới xuất bản được Gái quê (1936). Tác phẩm: - Lệ Thanh thi tập - Gái quê - Đau thương (còn gọi là Thơ điên, gồm các phần: Hương thơm, Mật đắng, Máu cuồng, Hồn điên) - Xuân như ý - Thượng thanh khí - Cẩm châu duyên (gồm 2 vở kịch thơ: Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội (viết dở) và một số bài thơ lẻ) - Chơi giữa mùa trăng (thơ, văn xuôi) Thế giới thơ Hàn Mặc Tử khá phức tạp, trong khoảng hơn 10 năm Hàn Mặc Tử đi từ thơ luật Đường cổ điển qua lãng mạn đến ít nhiều tượng trưng, siêu thực. Tập Gái quê và một số bài trong Đau thương cảm xúc trong trẻo, lời thơ nhẹ nhàng, tứ thơ bình đị, tình ý nồng nàn rạo rực, nhưng càng về sau này thơ càng kinh dị, huyền bí và đượm màu sắc tôn giáo. Những đau đớn về thể xác về linh hồn để lại những dấu tích rõ rệt trong tác phẩm. Nguồn: Từ điển văn hoá Việt Nam , NXB Văn hoá, 1993 Hàn Mặc Tử (1912–1940) tên thật Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là Pierre, sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, Tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình) trong một gia đình công giáo nghèo, cha mất sớm. Thuở nhỏ sống và học tiểu học ở Quy Nhơn, học trung học ở Huế, sau làm ở Sở Đạc Điền, bị thôi việc vì đau ốm. 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận , phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau lại trở ra Quy Nhơn. 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Quy Nhơn và qua đời ở đó. Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị. 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập trường thơ Loạn, tuyên ngôn là bài tựa cho tập Điêu tàn của Chế Lan Viên. Với các bút danh Phong Trần, Lệ Thanh và… Cẩm châu duyên Đau thương (Thơ điên, 1937) Đôi hồn Gái quê (1936) Lệ Thanh thi tập Thượng thanh khí Xuân như ý Chơi giữa mùa trăng (1941) Trang 1234 trong tổng số 4 trang (38 bình luận) [ 1 ] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối André Breton và Hàn Mặc Tử Đăng bởi Vanachi vào 11/02/2006 19:37 Hoàng Nhân Năm nay giới văn học Pháp đang chuẩn bị nhiều hoạt động kỷ niệm 100 năm ngày sinh và 30 năm ngày mất của nhà thơ nổi tiếng André Breton (1896 – 1966), nhà thơ tiền phong và là người đứng đầu trường phái siêu thực về lý luận và thực hành sáng tác như thế nào? Thử tìm hiểu đôi điều liên hệ giữa André Breton và nhà thơ Hàn Mặc Tử của chúng ta. Chủ nghĩa siêu thực là một trào lưu năng động nhất về văn nghệ của thời kỳ sau Thế chiến lần thứ I. Hình thành ở Pháp khoảng từ năm 1920, chủ nghĩa siêu thực tự khẳng định với bản Tuyên ngôn siêu thực lần thứ nhất (1924) và tạp chí Cách mạng siêu thực. Từ năm 1926 đến năm 1928, trường phái này hoạt động sôi nổi với nhiều tác phẩm của các tác giả như: Nadja của Breton, người nông dân Paris của Aragon, Tự do hay tình yêu của Desnos, Trí tuệ chống lại lý trí của Crével, Đô thị đau thương của Eluard,. Đây là thời kỳ chủ nghĩa siêu thực trong thơ và hội hoạ đầy sinh khí và có sức hấp dẫn mạnh mẽ một bộ phận khá đông công chúng ở Tây Âu. Từ năm 1929, trường phái siêu thực bắt đầu chia rẽ và phân tán với Tuyên ngôn thứ hai (1930) của Breton. Từ năm 1927, Aragon và Eluard đã ra nhập đảng Cộng sản Pháp và đến năm 1932 thì cắt đứt với phái siêu thực. Năm 1938 là năm mở đầu các cuộc triễn lãm hội hoạ siêu thực ở Paris trong nhiều năm. Trường phái siêu thực ra đời có nguyên nhân sâu xa về xã hội, văn hoá từ giữa hai cuộc thế chiến (1919 –1939). “Một thế hệ mất mát” (une g1enératon perdue) sau thế chiến lần I, lo âu trước sự đe doạ của một cuộc chiến tranh mới, đã tỏ ra “bất phục tùng” trước thực tại. Họ đi tìm một cách nhìn mới về một thế giới trước nghịch lý của nền văn minh liên tục xây dựng và liên tục bị tàn phá. Họ day dứt trước bao điều trái ngược về các mối quan hệ giữa thực tại và tưởng tượng, tinh thần - vật chất, Lý trí – Phi lý tính… Họ muốn cởi mở tiếp nhận và dung hoà nhiều yếu tố tư duy khác nhau: ý nghĩ “đổi đời” của Rinbaud, tư duy “cải tạo thế giới” của Mác, cái “đà sống” của con người qua phân tâm học của Freud. Andeton là nhà lý luận, một nhân cách độc lập và say mê đã kiên trì thể hiện và bảo vệ những giá trị của trào lưu này. Có mặt ở trung tâm các cuộc luận chiến, ông thường sử dụng hai vũ khí: khen ngợi và chê trách mạnh mẽ. Ông cho rằng tiếng nói nguyên sơ của con người đã mất đi vì bị phó mặc cho chủ nghĩa duy lý và ông khẳng định rằng con người luôn giữ trong suy tư của mình một thực tại còn chưa khám phá ra. Ông quan niệm “một lực chủ đạo là dục vọng không gò bó” sẽ làm nẩy nở: thơ, tình yêu, tư do - vốn là hạnh phúc trọn vẹn của nhân loại. Ông muốn con người cần loại bỏ những ràng buộc của cuộc sống hàng ngày, những thói quen làm cho con người trở nên “ù lì”. Do đó ông nổi loạn thường trực chống lại cuộc đời như đã định sẵn và trong bản thân ông diễn ra nghịch lý: ý thức cách mạng nẩy nở khi đấu tranh cho tự do chống lại mọi chế độ ràng buộc, nhưng ông lại không tán đồng mệnh lệnh của các đảng phái chính trị làm cho hoạt động trí tuệ thuộc vào sự thống nhất của tổ chức. Và quan niệm về chủ nghĩa xã hội của ông có tính chất một chủ nghĩa tự do không tưởng. Breton ý thức rằng cuộc sống phải có những cắt đứt và điều chỉnh, và chủ nghĩa siêu thực mang lại sự thuần khiết trọn vẹn của cá nhân. Trong Tuyên ngôn của ông đã nêu lên “lối viết tự động” (écriture automtique) là lối viết thể hiện mọi ý tưởng, cảm xúc ngẫu nhiên từ cõi tiềm thức, những giấc mơ, ảo giác… vượt ra sự kiểm soát của lý tính: “Từ niềm tin về những khám phá của Freud, một trào lưu sẽ ra đời. Nhờ trào lưu đó, nhà thám hiểm nhân văn có thể đẩy ra những cuộc tìm kiếm của mình mà không chỉ cần đến thực tại sơ sài… Chủ nghĩa siêu thực là chủ nghĩa tự động tâm lý thuần tuý, nhờ nó mà người ta đặt vấn đề biểu hiện hoặc bằng lời nói, hoặc bằng bài viết, hoặc bằng bất cứ cách thức nào, hoạt động thực tế của tư tưởng thoát khỏi mọi sự kiểm soát của lý tính…” Nadja (1928) là tác phẩm văn xuôi có tính chất thơ tiêu biểu của Breton. Tác giả kể về sự kỳ diệu của hai Paris của những chốn và con người có thật, và một Paris khác có tính chất biểu tượng với những cuộc gặp gỡ. Vấn đề không phải là ở người gặp mà ở sự gặp gỡ khi nhân vật Nadja hoà lẫn với những người gặp trên đường. Qua những lần gặp gỡ thì sự trợ giúp của người phụ nữ là yêu việt, vì người phụ nữ gắn với thiên nhiên hơn người đàn ông, và giúp ta hiểu được bí mật của thời gian. Những lần gặp gỡ phát hiện ra vẽ đẹp thật ngẫu nhiên và “sự lên men của các dục vọng bí ẩn” nằm sâu trong cõi tiềm thức và vô thức. Từ năm 1942 đến năm 1947, nhiều tác phẩm của ông có tính chất sử thi và triết lý. Ví dụ bài thơ Chuyến thư cuối cùng (Dernìere levée) là cuộc vi hành của một lá thư “đóng dấu đường hoàng đạo”, bóc ra bởi những mái chèo, mở ra bao điều bí mật của tâm hồn, sống và chết, quá khứ và tương lai, cái cao và cái thấp… không còn được nhìn trong thế mâu thuẫn. Văn học hiện đại Việt Nam không có chủ nghĩa siêu thực mà chỉ có những yếu tố siêu thực nhất định, khởi đầu với tác phẩm của một số nhà thơ Mới như Chế Lan Viên (Điêu tàn), Nguyễn Xuân Sanh (Xuân Thu nhã tập) và nhất là Hàn Mặc Tử (Thơ điên: đau thương, thượng thanh khí…). Trong Lời giới thiệu Thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên viết: “Anh bị xô vào giữa trận bão, cơn giông, đám cháy, giữa chết chóc, cô đơn, máu lệ nên có cách nào hơn? (…). Cuối cùng anh dùng đến cả bút pháp siêu thực châu Âu. Anh tả sao: Đứng ngửa tay mà hứng máu trời sa Và chính anh đang cảm thấy máu sa trong hồn anh thực. Anh viết: Ta đi tìm nụ tầm xuân Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây Rượu nắng hồng vào thì say Áo ta rách rưới trời không vá Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng Điên đầu phải không? Nhưng anh say say chứ? Ngấm rượu siêu thực của anh rồi!” Hàn Mặc Tử đã viết những vần thơ đau thương trong hoàn cảnh anh bị bệnh phong vào thời ấy phải sống cách biệt với mọi người. Có thể nói bao nhiêu ham muốn và khát vọng cháy bỏng từ thân xác, trái tim, trí tuệ, tài hoa của một chàng trai bị dập vùi, dồn nén vào trong tầm thức, vô thức để rồi thoát thành những vần thơ theo “lối viết tự động” như của Breton, vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý tính. Từ đó ta mới có thể hiểu chất thơ thế tục của ông: Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối Gió thu lọt cửa cọ mài chăn …Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe … Dám ôm hồn Cúc trong sương Ôi Hoàng hoa, hồn phách nơi đây Hàn Mặc Tử là một tín đồ Thiên Chúa giáo, thế mà tín điều ép phần xác cho siêu thoát phần hồn của Kinh thánh lại không kiểm soát được cảm hứng thế tục của nhà thơ thoát ra từ bản năng vô thức bị dồn nén. Có thể Hàn Mặc Tử chưa hề biết đến trường phái siêu thực trong thơ của họ lại gặp nhau. Điếu khác biệt là Breton đứng đầu cả một trào lưu siêu thực, tiêu biểu cho sự phản ứng của cả một Thế chiến I nhằm chống lại thực tại tư sản, còn Hàn Mặc Tử của chúng ta là sự giằng xé đau thương của một cá nhân đơn độc, của một người dân Việt Nam trong xã hội thuộc địa, mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo. Do đó chất thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử lại toả ra “thanh khí” riêng của một hồn thơ dân tộc say mê mãnh liệt cuộc sống. Do đó ông đã sáng tạo ra một cõi sống riêng, một hồn riêng mà không phải là hư vô như có người ngộ nhận, không phải là hồn như của bao con chiên khác hướng đến thiên đàng. Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng Há mình cho hồn văng lên muôn trượng … Hồn là ai, là ai tôi không hay Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay Và nhà thơ yêu sức sống của ánh trăng bàng bạc, của gió mây trời quê hương: Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm Người trăng ăn vận toàn trăng cả Gò má riêng thôi lại đỏ hườm … Nghe hơi gió ôm ngang lấy gió Tưởng chừng như trong gió có hương Của người mình nhớ mình thương Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì … Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng qúa nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà Trong quá trình sáng tác, Chế Lan Viên, Xuân Diệu đã cảm nhận sự cần thiết “một thoáng siêu thực” trong thơ làm cho chất trữ tình, chất hiện thực càng dễ say lòng người. Nếu chất thơ siêu thực của Preton và trường phái siêu thực Pháp vẫn đậm màu duy lý khi kết hợp thực và mộng, thực và siêu thì chất thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử lại thấm màu trực giác tổng hợp của phương Đông về thời gian - không gian, con người – vũ trụ, thể chất – tâm hồn… Vì lẽ đó mà chất thơ siêu thực của ông đã vượt ra ngoài mọi khuôn khổ của tín điều, giáo lý. Nhà phê bình Albérès viết: “Trong đời người có những lúc một vật nhàn chán nhất cũng làm cho chúng ta tràn đầy vui sướng, chúng ta sống những phút ấy vì gặp tình cờ, có khi vì mỏi mệt, chúng ta nhìn sự vật khác hẳn lúc bình thường. Chủ nghĩa siêu thực tạo những cơ hội ấy… cho tấm màn thói quen nhàm chán rách tung và làm hiện ra một thế giới ở bên ngoài biên giới của hệ của thông lệ tạo nên bởi giáo dục” (Văn chương đương đại thế giới) Nhà thơ Chế Lan Viên nhận xét: “Siêu thực của châu âu là chủ nghĩa siêu thực, ta không chấp nhận chủ nghĩa. Nhưng ta mừng trước thơ Hàn Mặc Tử vì thơ ông có mang những yếu tố siêu thực, với một tỷ lệ chấp nhận được. Hơn nữa, siêu thực châu Âu là siêu thực vì bộ óc. Hàn Mặc Tử thì Nàng đánh tôi quá đau. (Tựa thơ Hàn Mặc Tử) Giới văn học Pháp kỷ niệm lớn André Breton với những lý do riêng của xã hội nước pháp vẫn đang trãi qua muôn vàn sóng gió ở cuối thế kỷ này. Tìm hiểu tính chất siêu thực trong thơ Hàn Mặc Tử là để thấy sự gặp gỡ Đông – Tây về văn hoá, nhưng ở Hàn Mặc Tử vẫn đậm đà bản sắc của một hồn thơ Việt Nam (Tạp chí Văn hoá.- 1996.- Số 7 (1.348); KHPL: BĐ.04(91)) Lộ tòng kim dạ bạch, Nguyệt thị cố hương minh. ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ 1 5.00 Chia sẻ trên Facebook Bí mật Hàn Mạc Tử Đăng bởi Vanachi vào 11/02/2006 13:04 Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 29/07/2011 08:29 Tác giả: Phanxipăng Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi bị phản bội lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. HÀN MẠC TỬ (Tựa Thơ điên, 1938) Trong văn học Việt Nam hiện đại, Hàn Mạc Tử (1912 - 1940) là một tác giả được tôn sùng, hâm mộ. Năm 1942, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét: "Từ ngày Hàn Mạc Tử trừ trần đến nay, mới khoảng hai năm trời mà người ta đã nói rất nhiều và viết nhiều về Hàn Mạc Tử". Còn tính tới lần giỗ thứ 60 của thi sĩ vào cuối thế kỷ 20 này, hàng nghìn cuốn sách và bài báo trong lẫn ngoài nước đã đề cập đến tài năng yểu mệnh ấy. Riêng các tác phẩm của Hàn Mạc Tử không những được chọn đưa vào chương trình giảng dạy ở nhà trường, mà còn liên tục được ấn hành và....bán chạy. Thế nhưng, vì lắm lý do, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hàn Mạc Tử vẫn tồn tại hàng loạt "bí mật", khiêu gợi trí tò mò đối với chúng ta. Thời gian qua, nhờ sự nổ lực tìm kiếm của một số người yêu quý nhà thơ qúa vãng, bao điều "bí mật" kia dần dần được "bật mí". Bằng khối lượng tư liệu thu thập từ nhiều nguồn, loạt bài này hy vọng sẽ cung cấp những thông tin mà bạn đọc chưa có thể nắm được đầy đủ. TGM cộng tác viên gần xa góp phần bổ sung, hiệu đính bằng những chứng cứ xác tín về Hàn Mạc Tử để chúng ta hiểu rõ hơn, đúng hơn thân thế và sự nghiệp của một tài hoa đất Việt. Kỳ 1: CHÍNH DANH ĐỊNH LUẬN: MẠC HAY MẶC? Bấy lâu, phần lớn sách báo - Trong đó có giáo khoa trung học và giáo trình đại học - đều ghi bút danh chính Trần Trọng Trí là Hàn Mặc Tử. Cạnh đấy, một vài tư liệu lại đề: Hàn Mạc Tử (không có dấu ﮞ). Vậy nên thống nhất cách viết, cách đọc bút danh/ bút hiệu của nhà thơ sao cho chuẩn xác? Về vấn đề này, thiết tưởng cần tuyệt đối tôn trọng ý muốn của chính bản thân tác giả. Sinh thời, Nguyễn Trọng Trí tự chọn bút danh thế nào thì chúng ta hãy giữ nguyên thế ấy. Khổ nỗi, suốt cuộc đời cầm bút, Nguyễn Trọng trí ký nhiều bút danh dưới các tác phẩm của mình. Thuở mới bước vào làng thơ, chàng ký Minh Duệ Thị. Sau đổi ra Phong Trần. Rồi đổi thành Lệ Thanh. Kế tiếp là Hàn Mạc Tử. Đó là bút danh chính, ngoài ra Nguyễn Trọng Trí cón ký bút danh phụ như Lệ Giang, Sông Lệ, Foong Tchan (phiên âm chữ Phong Trần), P.T. (viết tắt chữ Phong Trần)... Thế vì sao "Mạc" bỗng hoá nên "Mặc"? Hãy nghe mẩu hồi ức do một bạn thân của Hàn thi sĩ là nhà thơ Quách Tấn (1910 - 1993) thuật lại trên tạp chí Lành Mạnh số 38 (Huế, 1.11.1959, tr.18), sau đăng lại trên tạp san Văn số 73 - 74 (Sài Gòn, 7.1.1967, tr.49): "Hiệu Minh Duệ Thị ít ai biết. Tử nổi tiếng với hiệu Phong Trần, nhưng sau khi Tử đã quen thân cùng tôi, một hôm nhân vui miệng, tôi chê: "Tướng anh mảnh khảnh thế này, chịu sao nổi cảnh phong trần mà ước?". Một bà cụ thâm nho ở Bình Định cũng bảo rằng hiệu Phong Trần không hợp với tánh tình của Tử. Bà khuyên Tử nên đổi lại hiệu khác. Tử bàn lấy chữ đầu của sanh quán (Lệ Mỹ) và chữ đầu của Chánh quán (Thanh Tân), ghép lại thành hiệu Lệ Thanh. Tử rất lấy làm vừa ý. Nhưng được ít lâu gặp Tử, tôi lại trêu: "Bộ anh ngó "dễ thương" mà cái hiệu Lệ Thanh nghe cũng "yểu điệu thục nữ" quá! Âu tôi gọi là "cô Lệ Thanh" cho thêm duyên". Tử làm thinh. Nhưng ít lúc sau lại thấy hiệu Hàn Mạc Tử. Hàn Mạc Tử là bức Rèm Lạnh. Tử cho là độc đáo, tìm đến khoe cùng tôi. Tôi cười "Kể cũng ngộ thật! Tránh kiếp phong trần lại đi làm khách hồng nhan. Sợ kiếp hồng nhan đa truân lại đi làm kiếp rèm lạnh. Tránh lờ chun vào lưới. Sao mà lẩn thẩn quá thế?". Tử đâm khùng: "Anh này thật đa sự! không biết đặt "cái đếch" gì cho vừa lòng anh?". Tôi đáp: "Đã có rèm thì thêm bóng trăng vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?". Tử hội ý, cầm bút vạch "vành trăng non" lên đầu chữ A của chữ Mạc thành ra Hàn Mặc Tử. Chỉ thêm dấu á (ă) mà đổi hẳn ý nghĩa của cả khóm chữ. Chữ Hàn thì trước kia nghĩa là Lạnh. Nhưng đi kèm với chữ Mặc là Mực trở thành chữ Hàn là bút. Hàn Mặc Tử là anh chàng "Bút Mực". Mẩu hồi ức vừa dẫn đậm tính giai thoại, hoàn toàn chẳng có bút tích minh chứng. Trong chuyên luận Hành trang cho thơ và sự trở lại của chính mình của Hàn Mạc Tử (NXB Đà Nẵng, 1996),Vũ Hải - tức cô giáo Võ Thị Hải - đã "mạnh dạn đưa vấn đề này (vấn đề "Mạc" hay "Mặc") thành một chương chính gần như là cốt lõi trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu về Hàn Mạc Tử "(tr.29). Vũ Hải tỏ ra hợp lý khi lập luận rằng "không thể chỉ dựa vào giai thoại để thẩm định bút danh cuối cùng của nhà thơ được" (tr.31). Thực tế thì năm 1936, in tập thơ đầu tay Gái Quê (NXB Đời Nay - lời tựa của Phạm Văn Ký), Nguyễn Trọng Trí ký bút danh Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên sau đấy, chậm nhất là từ năm 1939, nhiều văn bản còn lưu lại cho thấy nhà thơ lấy bút hiệu ngày trước là Hàn Mạc Tử. Chẳng hạn như bản in lần đầu tiên năm 1939, tựa đề cho tập Tinh huyết của Bích Khê (NXB Đông Phương), Nguyễn Trọng Trí đã ghi rõ ở trang 19: Hàn Mạc Tử. Cần thêm rằng trong bản thảo thi tập Tinh hoa kế tiếp (dự định xuất bản năm 1944 nhưng không thành), Bích Khê dành hẳn cho bạn mình một bài thơ với tựa đề mang bút danh y hệt: Hàn Mạc Tử. Đáng lưu ý là ngay trong tập thơ Một tấm lòng của Quách Tấn xuất bản lần đầu năm 1939, bìa cũng như ruột còn in rành rành: "Hàn Mạc Tử đề bạt" (ảnh). Cũng năm 1939, trong bức thư kèm theo bài thơ Ở đây thôn Vỹ Giạ viết vào tháng 11 - nghĩa là tròn một năm trước khi thi sĩ qua đời, Nguyễn Trọng Trí ký cuối thư và cuối bài thơ: Hàn Mạc Tử. Người nhận thư và thơ là này là Hoàng Thị Kim Cúc đã giữ gìn thủ bút bao năm ròng tại nhà riêng ở Huế (sẽ đăng thủ bút trong một kỳ sau). Lý giải chuyện "Mạc" vẫn hoàn "Mạc" thế nào đây? Giả thiết rằng giai thoại mà Quách Tấn tường thuật là sự thật, thì vì lý do của tình bạn, Nguyễn Trọng Trí chỉ sử dụng bút danh Hàn Mặc Tử một thời gian ngắn rồi quay trở lại với hiệu Hàn Mạc Tử vì thấy phù hợp với mình hơn. Đặt nhà thơ vào hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ đang đau khổ vì bệnh tật, nghèo túng và cô quạnh, Nguyễn Đình Niên đã phân tích trong công trình nghiên cứu Kinh nghiệm về thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử (Tiểu luận cao học văn chương, Đại học văn khoa Huế, 1973):" Nếu xét theo tiếng đồng âm (Synonyn) thì lại còn có nghĩa anh chàng nghèo mạt (Nghèo mạt rệp) hoặc chết (tử) trong sự nghèo nàn (mạc) và lạnh lẽo, cô quạnh (hàn) nữa". Bấy giờ, một bạn thân khác của Nguyễn Trọng Trí là Trần Tái Phùng ở Huế. Ông Phùng kể rằng trong bức thư Trí gởi cho mình, có đoạn viết: "Người ta thường gọi lầm tôi là Hàn Mặc Tử, phải gọi là Hàn Mạc Tử mới đúng" (Vũ Hải - Hành trang cho thơ..., tr.37). Qua những cứ liệu vừa nêu, dẫu chưa đầy đủ, song chúng ta cũng có thể xác định rằng Hàn Mạc Tử là bút danh mà Nguyễn Trọng Trí tự cảm thấy phù hợp nhất, tâm đắc nhất. Đây là bút danh mà nhà thơ dùng để ký hầu hết tác phẩm cũng như thư từ trong giai đoạn gần mãn đời. Sở dĩ gọi là gần mãn đời, vì từ sáng 20-9-1940, khi Nguyễn Trọng Trí vào bệnh viện Quy Hoà rồi mất tại đấy chưa đầy hai tháng sau, thì chàng giấu nhẹm mọi chuyện riêng tây, chỉ ký tên thật kèm với thánh danh là Francois Trí - kể cả bản thảo cuối cùng bằng tiếng Pháp La Pureté de L''Âme (Tấm linh hồn thanh khiết) viết đêm 24 tháng 10 năm 1940 và cất trong túi áo cho đến lúc nhà thơ tắt thở vào ngày 11.11.1940. Sau khi nhà thơ tài năng lìa trần, các văn bản được công bố ghi Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử? Đây cũng là những tư liệu có ý nghĩa văn học sử, rất cần tham khảo. Báo Người Mới, liên tiếp mấy số ra ngày 23 - 11, 30 - 11 và 7 - 12 - 1940 tập trung đăng bài thương tiếc Nguyễn Trọng Trí của bằng hữu khắp nơi, ắt là loạt ấn phẩm xuất hiện sớm nhất ngay sau lúc nhà thơ mất. Lục lại chồng báo ấy, GS Phan Cự Đệ xác nhận: "Báo Người Mới số 23 - 11 - 1940 ghi bút danh Hàn Mạc Tử trong tất cả các bài, kể cả bài của Quách Tấn" (Thơ văn Hàn Mạc Tử - Phê bình và tưởng niệm; NXB Giáo dục, Hà Nội 1993, tr.329). Bộ sách Thi nhân Việt Nam do Hoài Thanh - Hoài Chân biên soạn năm 1941, từ bản in lần thứ nhất và lần thứ hai (Bắc Việt năm 1942) cho đến bao bản in đi in lại về sau, luôn ghi rõ Hàn Mạc Tử kèm dòng cước chú: "Hai chữ "hàn mạc" trong tự điển không có, chỉ có "Hàn Mặc" nghĩa là văn chương". Cùng ấn hành sớm như bộ sách trên là chuyên khảo của Trần Thanh Mại, bản in lần đầu năm 1942 tại nhà in Rạng Đông (Hà Nội) đang được nhà văn Trần Thanh Địch - em ruột của Trần Thanh Mại, hiện trú tại Phú Nhuận, Tp. Hồ Chí Minh lưu giữ với bìa và ruột đề rõ: Hàn Mạc Tử, xuất bản bởi Võ Doãn Mại, 63 Pellerin, Sài Gòn. Chúng tôi cũng có tác phẩm này, bản in lần thứ năm, do NXB Tân Việt (Sài Gòn) tái bản năm 1970 dưới nhan đề: Hàn Mạc Tử thân thế và thi văn. Chẳng rõ vì sao gần đây, một số tài liệu sao lục sách của Trần Thanh Mại lại tự tiện chữa "Mạc" thành "Mặc" cả? Tương tự như vậy, cuốn Hàn Mạc Tử, thi sĩ của đạo quân thánh giá do Võ Long Tê biên soạn, NXB Vinh Sơn (Huế) in năm 1953, về sau được in lại hoặc trích dẫn cũng xếp chữ "Mạc" thành chữ "Mặc"! Trên bước đường nghiên cứu, với bao chứng cứ được phát hiện ngày càng đầy đặn, không ít tác giả dần thiên về cách gọi Hàn Mạc Tử. Kiên định với "chính danh" ấy, có thể kể trường hợp Phạm Xuân Tuyển - Xước danh Xirô Tuyển - một kẻ hậu sinh từng đồng bệnh với Hàn, đã điều trị ở trại phong Bến Sắn (Bình Dương), nay lành bệnh và trú tại Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Sau hơn 30 năm lò mò liên hệ nhân chứng, sưu tầm vật chứng và lặn lội khảo sát thực địa, Xirô Tuyển đã sơ bộ hoàn tất công trình Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử dày 500 trang đánh máy vào năm 1996 và hiện đang tiếp tục nhuận sắc, bổ sung. Chính anh là một trong những người nhiệt tình cung cấp những tư liệu quý hiếm cho chúng tôi thực hiện loạt bài mà bạn đọc bắt đầu theo dõi. Đề tựa công trình của Phạm Xuân Tuyển, GS. NGND. Hoàng Như Mai bày tỏ: "Tôi tán thành cái bút danh Hàn Mạc Tử". Trong tư thế giao lưu và hội nhập văn hoá với toàn cầu, việc thống nhất bút danh chính của một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng càng cần thiết. Bởi khi chuyển ngữ, nhất là phiên dịch sang một văn tự biểu ý như tiếng hoa chẳng hạn thì "sai một ly đi một dặm"! Dẫu vậy, xét thực tiễn hiện nay, việc điều chỉnh bút danh của "một đỉnh cao loà chói trong văn học của thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ" (chữ dùng của Chế Lan Viên) còn vướng vô vàn khó khăn! Nói đâu xa, ngay tấm bia đá do thân quyến nhà thơ phụng lập trước mộ ở Gành Ráng/Ghềh Ráng (Quy Nhơn) mà cũng khắc Hàn Mạc Tử nữa là! Ngoại trừ Tp. Hồ Chí Minh, các tên đường Đồng Hới (Quảng Bình) và ở Huế cũng không ghi khác! Duy những di tích cùng hiện vật đang bảo tồn trong bệnh viện Quy Hoà (Bình Định) - nơi nhà thơ đến chữa trị và trút hơi thở cuối - thì qua đợt tôn tạo gần đây điều đã được sửa đổi tất cả biển bảng cho hợp "chính danh" Hàn Mạc Tử. Đó là việc làm rất đáng hoan nghênh. Với chiều hướng ấy, trong loạt bài này, trừ trường hợp thật sự cần thiết, chúng tôi luôn ghi bút danh chính thức của Nguyễn Trọng Trí là Hàn Mạc Tử - kể cả những đoạn trích dẫn. Kỳ 2: NGUYỄN TRỌNG TRÍ PHẢI CHĂNG GỐC HỌ...NGUYỄN? Vấn đề gia thế của Hàn Mạc Tử cũng tồn tại lắm ly kỳ, uẩn khúc, không dễ gì tỏ tường sớm một chiều! Hàn thi sĩ có họ tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 - 9 - 1912 tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình; nay là phường Đồng Mỹ, thị xã Đồng Hới, Quảng Bình; trong một gia đình Kitô giáo. Thân phụ của nhà thơ là ông Nguyễn Văn Toản, bấy giờ làm công chức ngạch thông Phán (cardre secondaire) ở đấy nên thường được mọi người gọi là "thầy thông Toản" hoặc "thầy Toản". Thân mẫu là Nguyễn Thị Duy, một phụ nữ Huế, con gái thứ 9 của ngự y Nguyễn Long, người gốc Trà Kiệu (Quảng Nam) và ở Vạn Xuân - vùng đất thuộc mạn bắc sông Hương, nằm cạnh kinh thành Huế. Điều đáng ngạc nhiên là tất cả chú bác của nhà thơ đều mang họ Phạm, một họ nghèo ở xứ đạo Ồ Ồ (Thanh Tân, Tân Sơn, Phong Sơn, Phong Điền, Thừa Thiên Huế). Chỉ mỗi một mình ông bố đổi sang Nguyễn tộc, dù rằng trong gia phả vẫn chép họ tên ông bằng hai chữ: Phạm Toán. Vì sao? Bao giờ? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã tìm gặp em ruột nhà thơ Hàn Mạc Tử. Đó là ông Nguyễn Bá Tín, hiệu Thiện Nam, hiện ở trong một ngõ hẻm trên đường Kỳ Đồng, Q.3, Tp. Hồ Chí Minh. Chính ông từng viết mấy tập hồi ký Hàn Mạc Tử anh tôi (Nxb Tp. Hồ Chí Minh 1991) và Hàn Mạc Tử trong riêng tư (NXB Hội nhà văn 1994) gây xôn xao một thuở. Cũng chính ông là tác giả loạt tranh sơn dầu hồi hoạ (vẽ theo trí nhớ) những cảnh sinh hoạt của anh kế mình lúc sinh thời. Loạt tranh này hiện treo trong phòng lưu niệm nhà thơ Hàn Mạc Tử ở bệnh viện Quy Hoà, Bình Định. Ông Nguyễn Bá Tín năm nay (2000) ngoại bát tuần, mắt đã mờ, tai hơi nặng, đi đứng khó khăn, song giọng nói vẫn còn sang sảng. Tiếp chúng tôi, ông vồn vã: - Noel năm 1788, ngay sau Hàn Mạc Tử anh tôi vừa xong bản thảo đánh máy, chưa làm thủ tục xuất bản, tôi đã biếu riêng anh một tập rồi kia mà. Trong đó tôi có viết đoạn "Một ít lịch sử dòng họ", anh đọc xong quên ngay ư? Đoạn ấy, chúng tôi đâu dễ quên. Nó thế này: "Từ nhỏ, không nghe ai nói đến dòng họ của cha tôi, tuy vẫn biết nội tổ là Phạm Bồi, quê ở Thanh Hoá, lập nghiệp tại làng Thanh Tân (Thừa Thiên). Cũng không ai tìm hiểu vì sao cha tôi mang họ Nguyễn mà chú tôi đều giữ họ Phạm. Mãi đến năm 1933, mới gặp bà chị thúc bá với cha tôi là Phạm Thị Nhàn (sage femme) tại Quy Nhơn và người cháu họ là Phạm Long (sergent interprète) đều cùng quê quán ở Thanh Hoá. Từ đó mới biết được tông tích dòng họ. Đến năm 1934, anh cả tôi là Nguyễn Bá Nhân tức là Mộng Châu, đem tôi đi Hà Nội tìm tộc trưởng là Phạm Thành tức là Phạm Bá Thành, tòng sự tại Sở Nội dịch toàn quyền. Theo gia phả bằng chữ Hán thì dưới thời Trịnh Kiểm soán vị, gia thần thế tử Nguyễn Uông (con cháu Nguyễn Kiểm) nổi lên chống Trịnh Kiểm vì đã ám toán thế tử Uông. Thất bại trong cuộc nổi dậy đó, một số bị giết, số còn lại phải cải tánh ra "Phạm" bị đày vào Nam, về sau lại lập nghiệp ở Thanh Hoá. Cuối triều Tự Đức, Pháp xâm lược Việt Nam, vua Hàm Nghi dời đô, hạ chiếu Cần Vương, đem binh vào Huế cứu giá, đồng thời đa số dòng họ Phạm cũng tham gia các phong trào khởi nghĩa. Phần nội tổ mang quân vào Thừa Thiên chống cự với binh Pháp cho đến khi Trương Quang Ngọc làm phản, nộp vua Hàm Nghi cho Pháp. Cụ giải tán binh sĩ, ném vũ khí xuống ao, lấp lại, xây nhà lên trên. Cụ vào giúp việc cho cố Đồng, xây dựng nhà thờ Thanh Tân và ở lại lập nghiệp ở đó. Anh Mộng Châu khi về thăm quê nội đã được trông thấy khẩu súng hoả mai của cụ đã rỉ sét. Từ đó, nội tổ mai danh ẩn tích tuyệt đối, dòng họ không ai tiết lộ, vì có lệnh truy nã cụ về tội đào nhiệm ở Thanh Hoá. Khi cha tôi đến tuổi đi học, cố Đồng giúp cho vào Tiểu chủng viện, lập thủ tục thay đổi họ tên. Cũng nhờ tổ mẫu thân thuộc với với cụ Nguyễn Hữu Bài có thế lực, nên mọi việc không gặp khó khăn. Sự im lặng về nguồn gốc bên nội cũng dễ hiểu, ví lúc bấy giờ, cả cha tôi và anh Mộng Châu đều là công chức Pháp thuộc, không muốn liên luỵ với qúa khứ Cần Vương của nội tổ. Ở Chủng viện về với chức tư (tonsuré), cha tôi ra làm việc ở toà sứ Huế, về sau đổi vào Hội An, ông bỏ toà sứ qua Thương chánh..." Chưa đủ điều kiện kiểm chứng toàn bộ về tính chính xác lịch sử, song đoạn trích trên chẳng những không giải đáp đầy đủ câu hỏi mà chúng tôi đặt ra, làm còn lại bật thêm một vài băn khoăn khác. Chẳng hạn như họ đạo Thanh Tân thuộc giáo xứ Tân Sơn, theo tư liệu 150 năm giáo hội phận Huế 1850 - 2000 (Tổng giáo phận Huế 2000, tr.114), thì thời điểm hình thành vào năm 1867 mà linh mục đặt nền móng xây dựng là Auguste Chaiget, tên Việt là cố Soái, còn cố Đồng lại là Jean Reneeaud, cha sở đầu tiên ở giáo xứ Tân Mỹ thuộc vùng đầm phá huyện Phú Vang từ năm 1888, chứ chưa thấy ghi dấu gì với giáo xứ Tân Sơn trung du sau giai đoạn Nguyễn Quang Ngọc bắt vua Hàm Nghi (tháng 10 - 1888) cả. Vậy tác giả Nguyễn Bá Tín chép nhầm chăng? Ông Tín cũng nhầm khi ghi chú chức tư là Tonsuré. Nhờ quý linh mục tư vấn, chúng tôi được biết: Trước kia, đại chủng sinh đạt Tonsuré (tính từ của danh từ Tonsure) nghĩa là mới chịu phép cắt tóc, tức nghi thức gia nhập hàng giáo sĩ; còn chức tư là acolyte - chịu phép giúp lễ. Xét trục lịch đại, nếu theo đoạn trích trên, thì riêng gia đình Hàn Mạc Tử mang họ Nguyễn chính là sự "về nguồn" đúng đắn? Gia đình ông Phạm Thân, chú ruột của Hàn Mạc Tử, lại truyền khẩu một thông tin khác: - Bác Toán (họ hòng vẫn gọi Toán chứ không gọi Toản) hồi nhỏ học giỏi nhất xứ Ồ Ồ. Hoàn cảnh túng bấn, bác phải vô Huế, nhận làm con nuôi nhà quan ngự y để được ăn học. Nhà quan lấy giấy tờ đổi họ cho bác, để bác dễ thăng tiến. Lại còn gả con gái cưng cho nữa! Ông Tín cho chúng tôi biết rằng cụ thân sinh vốn tên Toán. Sau do có bạn đồng sự trùng tên nên tự ý đổi thành Toản cho dễ phân biệt. Cũng theo ông Tín, ông Nguyễn Văn Toản (Toán) kết hôn với bà Nguyễn Thị Duy và sinh hạ được 6 anh chị em, gồm: 1- Nguyễn Bá Nhân, còn gọi là Nhơn, tức Mộng Châu (độc thân, mất năm 1936) 2 - Nguyễn Thị Như Nghĩa, còn gọi là Ngãi (mất năm 1984) 3 - Nguyễn Thị Như Lễ (mất năm 1982, chính là nhân vật từng đi vào tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn) 4 - Nguyễn Trọng Trí tức Hàn Mạc Tử. 5 - Nguyễn Đức Tín, sau đổi ra Nguyễn Quý Tín, rồi đổi thành Nguyễn Bá Tín để thay quyền tộc trưởng của Nguyễn Bá Nhân (?). 6 - Nguyễn Gia Hiếu, tức Nguyễn Bá Hiếu, em út cả nhà (mất năm 1991 tại Tp. Hồ Chí Minh). Người ngoài thì có thể lẫn lộn hoặc thiếu sót. Như trường hợp Thái Văn Kiểm viết Đất Việt trời Nam (NXB Nguồn Sống, Sài Gòn 1960, tr.165) bảo rằng em út của Hàn Mạc Tử là... Nguyễn Bá Tín! Chứ người trong gia đình, lại là ruột thịt, lập danh mục ắt hẳn khó nghi ngờ về độ dung sai. Oái oăm thay! thực tế trái ngược với những điều chúng ta suy luận! Nếu có dịp ghé chơi thành phố biển Nha Trang (Khánh Hoà), chắc bạn sẽ dạo thăm một kiến trúc uy nghi và đặc sắc toạ lạc bên đường Thái Nguyên: nhà thờ chánh toà, tên thường gọi là nhà thờ Núi. Nơi đây lưu giữ rất nhiều bình tro xương của kito hữu quá cố do thân nhân ký gởi; được bày biện khá ngăn nắp. Trong số di cốt kia, bạn không mấy khó khăn khi tìm thấy tên tuổi Mộng Châu Nguyễn Bá Nhân - anh cả của thi sĩ Hàn Mạc Tử. Bạn còn nhìn thấy cạnh đó hai di cốt khác táng chung: Nguyễn Văn Thảo (sinh năm 1922) và Nguyễn Văn Hiền (sinh năm 1923). Nào phải ai xa lạ, Thảo là em áp út, còn Hiền là em út của Hàn! Ngày lễ các thánh năm nay, 1 - 11 - 2000, tôi đem chuyện này hỏi ông Nguyễn Bá Tín. Ông gật đầu thừa nhận: - Anh hoàn toàn đúng. Hai đứa em tôi mất hồi 1923 - 1924, khi còn nhỏ xíu. Bởi vậy lúc viết sách, tôi đã để sót! Chúng tôi sẽ còn mời bạn đọc quay lại nhà thờ Núi ở Nha Trang trong một kỳ sau. Kỳ trước, nói về các bút danh của Hàn Mạc Tử, chúng tôi chưa nhắc một cái tên "độc chiêu" mà những ai mê thơ Hàn Mạc Tử có thể sẽ nghĩ rằng người thơ phong vận như thơ ấy đời nào dám ký. Bút danh gì "dữ dằn" thế nhỉ? Trật Sên. Tiếng Bắc có từ tương đương là Tuột Xích. Vâng, chính Hàn ký bút danh Trật Sên dưới một tác phẩm "trào phúng... điếu" một nghị viên Viện Dân biểu Trung kỳ, đăng trong giai phẩm Nắng Xuân ra đầu năm Đinh Sửu 1937. Lúc ấy, Hàn Mạc Tử đang là "nhà báo trẻ Sài thành "vừa trở lại Quy Nhơn. Cùng tham gia giai phẩm, có nhiều gương mặt sau này trở nên quen thuộc với đông đảo bạn đọc: Chế Lan Viên, Hoàng Diệp, Xuân Khai (tức Yến Lan), Phú Sơn (tức Nguyễn Viết Lãm), Trọng Minh (tức Nguyễn Minh Vỹ, họ tên thật là Tôn Thất Vỹ)... Bút danh đó dính dáng gì tới quan hệ bà con họ tộc của Hàn Mạc Tử, sao đợi kỳ này mới nêu? Có đấy. Nhân vật trọng tâm mà Trật Sên giễu cợt trong bài báo Quan nghị... gật thuở nào chính là nghị viên Nguyễn Văn Tôn. Khi vung bút, Hàn Mặc Tử hoàn toàn không ngờ rằng Nguyễn Tú - con trai nhân vật - trong tương lai sẽ là cháu rể hiếu thảo nhà mình! Ông Nguyễn Bá Tín lấy làm cảm kích khi kể: - Chính Nguyễn Tú là người tình nguyện đi bốc mộ anh Trí ở Quy Hoà để cải táng vào đầu năm 1959. Nên nhớ thời đó, mọi người, kể cả cậu em Bá Hiếu đều rất sợ bệnh phong! Ông Nguyễn Tú trú tại khu Bùi Phát (Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh), trong một lần nhắc lại kỷ niệm xa xăm ấy đã triết lý: - Đời người, đố ai học được chữ ngờ? Thì cứ lấy chuyện bác Hàn Mạc Tử mà suy, hậu thế vẫn cứ liện tục giật mình vì chưa thể nào nắm bắt được quy luật tồn tại của bao điều...bí mật! Kỳ 3: THỜI HỌC SINH GẬP GHỀNH THƠ MỘNG Thời học sinh của Hàn Mạc Tử (HMT) trải qua 3 địa phương:Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Huế. "Lần đầu tiên Nguyễn Trọng Trí (NTT) cắp sách đến trường là tại Quảng Ngãi". Trần Thanh Mại, tác giả cuốn Hàn Mạc Tử, đã ghi nhận như vậy. Ông Bá Tín, qua hồi kí HMT anh tôi, còn kể chi tiết hơn: "Chúng tôi rời Đồng Hới năm 1921, theo cha vào Quy Nhơn, trở ra Bồng Sơn, lại trở về Quy Nhơn năm 1924 thì đổi ra Sa Kỳ, một sở thương chánh lớn, cách thị xã Quảng Ngãi 12 km [thực địa thì hơn 20 km - chú thích trong móc vuông là của Phanxipăng]. Trong thời gian gia đình hay đổi dời dọc theo các cửa biển, việc học hành của chúng tôi đã bị gián đoạn. Về Quảng Ngãi mới vào học trường công lập anh Trí học lớp ba, tôi học lớp tư [tương đương lớp 2 bây giờ]. Khi còn ở Quy Nhơn, anh rất thích bắn ná cao su và bắn rất hay.(...). Trong những năm học ở Quảng Ngãi, anh không thèm bắn ná cao su nữa, mà lại rất thích bắn súng. Hai anh em ở trọ nhà dượng tôi, trong nhà cũng có một khẩu Flaubert, thứ súng bắn chim như của cha tôi. Anh trông thấy thèm lắm, nhưng không dám hỏi. Vì vậy, cứ thứ năm, chủ nhật, là kéo tôi cùng về Sa Kỳ, để cha tôi phát cho mỗi đứa 3 viên đạn, mà phải đi bộ 12km, phải qua một chuyến đò, băng qua một động cát dưới trời nắng chang chang. (...). Về sau, bài văn xuôi Chơi giữa mùa trăng, anh viết về chợ Chua Me [dân quanh vùng vẫn gọi Châu Me], là động cát này. Địa phương gọi là động, một vùng rộng lớn, cát trắng phau, thứ cát ánh ngời như mảnh pha lê vụn, trải dài 4 - 5km bên bờ đại dương (...). Sau khi cha tôi mất đi, tháng 7 - 1926, gia đình tôi dọn về Quy Nhơn ở với anh Mộng Châu. Hai chúng tôi cùng vào học trường trung Quy Nhơn [Collège de Quinhon, thành lập 1921, thực tế gồm cả tiểu và trung học, tên tiếng Việt bấy giờ là Cao đẳng tiểu học Quy Nhơn, sau thành Quốc học - Quy Nhơn, nay là trường THCS Lê Hồng Phong]. Đến lớp nhất [tương đương lớp 5 bây giờ], anh Trí ra Huế học Pellerin" (trích cảo bản đánh máy, tr. 6 - 8). Như thế, hai niên khoá 1924 - 1925 và 1925 - 1926, thi sĩ tương lai đang học lớp 3 và lớp 4 trường tiểu học công lập tại thị xã Quảng Ngãi. Còn trước đó, hai anh em Trí với Tín học ở đâu mà gián đoạn? Mới đây, ngày 27 - 10 - 2000, trên mạng điện tử VietCatholic News, linh mục Trần quý Thiện cho rằng: "Bé NTT được khai tâm lớp vỡ lòng tại trường làng với các nữ tu Mến Thánh Giá giáo xứ Tam Toà. Năm lên 9 tuổi (1921), cậu cùng gia đình theo cha di chuyển đến Bồng Sơn...". Điều này chưa đủ bằng chứng. Vả, rất hiếm trẻ con thời ấy trước 9 tuổi đến lớp vỡ lòng. Sáng thứ bảy 11 - 11 - 2000, đúng ngày tưởng niệm 60 năm HMT, chúng tôi trực tiếp nêu câu hỏi trên với ông Nguyễn Bá Tín tại tư thất. Ông cười: - Chỉ học vỡ lòng ở cha. Cha tôi dạy. Từ năm 1921 đến 1924, hai anh em tôi theo học lớp dạy tư của thầy Chariles. Một tu sĩ hoàn tục, ở nhà riêng nằm góc đường Gia Long - Khải [nay là đường Phan Bội Châu - Lê Lợi] tại Quy Nhơn. Anh Trí với tôi chính thức học trường công là tại Quảng Ngãi. Bây giờ, học trò 12 tuổi đã lên lớp 7. Còn hồi đó, anh Trí 12 tuổi học lớp 3 chưa phải lớn lắm đâu. Trong lớp có khối anh "già" hơn. Tôi còn nhớ thầy dậy anh Trí lớp 3 ở Quảng Ngãi: thầy trợ Giác. Thầy dữ lắm, từng dùng thước kẻ đánh anh Trí sưng vù mấy ngón tay vì tội nghịch ngợm. Nhiều người không biết thời HS, anh Trí hoang nghịch thuộc loại...thượng thặng!". Chính thời thơ ấu ở núi Ấn sông Trà, nhờ hàng tuần về hải khẩu Sa Kỳ - nơi cha làm việc - để tắm biển, săn bắn và...đùa nghịch, HMT đã tích luỹ được bao hình ảnh cùng ấn tượng trữ tình để về sau sáng tạo nên Chơi giữa mùa trăng. Bạn hãy cùng chúng tôi đọc lại đôi đoạn trích từ tác phẩm ấy: ...Chị tôi liền chỉ tay về phía bến đò thôn Chùa Mo và bảo tôi rằng: "Thôi rồi! Trí ơi! Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao thoát được, biết làm thế nào, hở Trí?". Tôi cười: "Hay là chị em ta cho thuyền đỗ vào bến này, rồi ta trèo lên động cát với tay gỡ hộ cho trăng thoát nạn?". Hai chị em liền giấu thuyền trong một bụi hoa lau bông vàng phơi phới, rồi cùng lạc vào một đường lối rất lạ, chân giẫm lên cát mà cứ ngỡ là bước trên phiến lụa. ...Tôi nắm tay chị tôi giật lia lịa và hỏi một câu tức cười,àm sao: "Có phải chị không hả chị?". tôi run run khi tôi có cái ý nghĩ: chị tôi là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh. Nhưng tôi lại phì cười và vội reo lên: "A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa!". Ngó lại chị tôi và tôi, thì quả nhiên là trăng thiệt. Chị tôi hí hửng như xuân, chạy nhảy xênh xang, cơ hồ được dịp phát triển hết cả ngây thơ của người con gái mười lăm tuổi... Nhân vật nữ được nêu đích danh ở đây là Madelène Nguyễn Thị Như lễ, sinh năm 1909, chị kế của HMT - NTT. Còn thôn Chùa Mo nằm đâu? Các sách thường in cước chú: "Một làng ở cửa biển Quảng Ngãi". Đúng ra, phải là thôn Châu Me. Bến đò thôn ngay trước chợ thôn - điểm này hiện được xây dựng thành trường Tiểu học Bình Châu thuộc huyện Bình sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Chúng tôi đồ rằng trong bản thảo, Hàn viết Châu Me. Song do lỗi in ấn hoặc tam sao thất bản thế nào, Châu Me bị cải thành Chùa Mo rất đỗi buồn cười. Trong tác phẩm đang xét, nhân danh đều thật, hà cớ gì địa danh lại hư? Không phải vô lý khi có người tin rằng con trăng Sa Kỳ huyền hoặc và quyến rũ đã khơi nguồn cảm hứng bất tận cho Hàn dệt nhiều tứ thơ đặc sắc về vầng nguyệt. Trong tập Thơ điên, tên khác là đau thương, ở phần Hương thơm có bài Huyền ảo mà đây là khổ cuối: Không gian đầy đặc toàn trăng cả Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng Mỗi ánh mỗi hình thêm phiếu diễu Nàng xa tôi quá nói nghe chăng? Liên hệ áng văn Chơi giữa mùa trăng, Trần Thị Huyền Trang đã có suy tưởng lý thú khi viết trong cuốn HMT - hương thơm và mật đắng (NXB Hội nhà văn, HN 1997, tr.59 - 60): "Nàng có thể là một người yêu của HMT, cũng có thể chỉ là một ảo ảnh tô điểm cho thơ. Nàng nhất định không phải là chị Lễ. Song ta thử thay chữ nàng bằng chữ chị và đọc lại thì không khỏi giật mình. Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng. Tôi cũng trăng mà chị cũng trăng..." Vầng trăng phiếu diễu dị thường có ảnh hưởng gì đến việc đèn sách của học sinh (HS) NTT? Chưa rõ. Chỉ biết rằng mấy năm Hàn theo bậc tiểu học chẳng được suôn sẻ lắm! Ở đây, tưởng nên điểm qua cơ cấu lớp trường hồi ấy để bạn đọc tiện theo dõi. Từ đạo dụ ngày 31 - 5 - 1906, chính phủ bảo hộ Pháp và triều đình Huế ấn định chế độ giáo dục mới với các bậc khởi điểm như sau: bậc sơ học, hoặc ấu học (école élémentaire) gồm lớp đồng ấu tức lớp năm (cour enfantin - tương đương lớp 1 bây giờ), rồi lớp dự bị tức lớp tư (cour préparatoir - lớp 2), tiếp theo là lớp sơ đẳng tức lớp ba (cour élémentaire). Cuối lớp ba, HS thi lấy bằng sơ học yếu lược (primaire élémentaire). Nếu đỗ, sẽ được học lên bậc tiểu học gồm 3 lớp: lớp nhì năm thứ nhất (cour moyen 1ère année) và lớp nhất (cour supérieur). Hết lớp nhất, HS thi lấy bằng yếu lược, còn gọi là Pháp Việt sơ học văn bằng (certificat d''études primaire franco-idigène). Hệ thống ấy được áp dụng trên toàn cõi Đông Dương đến năm 1945. Vậy NTT thi sơ học yếu lược ở Quảng Ngãi như thế nào? Ông Tín không nhớ. Sau khi thân phụ Nguyễn Văn Toản (Toán) mất vào tháng 7 - 1926, gia đình chuyển về Bình Định, anh em ông cùng vào Collège de Quinhon thì trò Trí học lớp mấy trong hai niên khoá 1926 - 1927 và 1927 - 1928? Giả thiết là học tại lớp nhì năm thứ nhất, kế đó học lên lớp nhì năm thứ hai. Nếu thuở trọ học ở Quảng Ngãi, cậu học trò NTT bắt đầu luyện niêm luật thơ Đường thì mấy năm về Quy Nhơn, chàng có điều kiện xướng hoạ với người anh cả Mộng Châu Nguyễn Bá Nhân. Một trong những bài thuần thục đầu tay là bài Vội vàng chi lắm ký bút danh Minh Duệ Thị, hoạ vận bài Gởi nhạn của Mộng Châu, về sau đưa vào Lệ Thanh thi tập. Mùa hè 1928, anh Mộng Châu bàn với mẹ cho em ra Huế học trường Pellerin. Theo danh bộ của trường này thì NTT nhập học này 5 - 9 - 1928 và thôi học năm 1930. Gia đình ông Tín hiện còn giữ văn bằng Pháp Việt sơ học của anh mình. Bằng được cấp tại Huế ngày 26 - 12 - 1930 sau khi NTT đỗ tiểu học yếu lược kỳ thi tháng 6 - 1930.Như thế, ở trường Pellerin, niên khá 1928 - 1929, thi sĩ tương lai lại học lại lớp nhì năm thứ hai, sang niên khoá 1929 - 1930 thì lên lớp nhất. Là ngôi trường tư thục do các tu sĩ dòng La Salle mở ở Huế từ năm 1904, trường Pellerin về sau được gọi thành trường Pellerin về sau được gọi thành trường Bình Linh và hiện nay là trung tâm Thanh thiếu niên Thừa Thiên - Huế, toạ lạc ở số 1 đường Lê Lợi, Tp. Huế, ngay đầu cầu ga. Ấy là một cơ sở giáo dục nghiêm túc và chất lượng, nổi tiếng một thời không chỉ ở Huế mà cả khu vực miền Trung. Bên cạnh lớp học, sân trường có luôn ký túc xá đầy đủ tiện nghi để phục vụ HS tỉnh xa về. Ông Nguyễn Bá Tín viết hồi ký HMT trong riêng tư (sđd, tr.25) cho rằng: "Những năm còn học Pellerin Huế, anh ở Bến Ngự, trọ nhà cụ nghè Tuần". Còn nhà thơ Hoàng Diệp (1912 - 1996) - tác giả thi tập Xác thu (NXB Nam Ký, HN 1937) và công trình biên khảo HMT (đoạt giải thưởng phê bình văn chương năm 1967 của Trung tâm Văn bút Việt Nam - NXB Khai Trí, Sài Gòn 1968) - thì nhớ khác. 20 năm cuối đời, Hoàng Diệp sóng trầm lặng ở Huế. chúng tôi may mắn đã có dịp tiếp chuyện với ông, nghe ông kể: - Mình không chỉ là bạn đồng tuế: (cùng tuổi Nhâm Tý 1912) và bạn đồng hương (cùng quê huyện Phong Điền, Thừa Thiên) mà còn là bạn đồng môn (cùng học trường Pallerin) với Hàn. Cùng học một khoá với Hàn còn có linh mục Cao Văn Luận, nguyên viện trưởng Viện ĐH Huế. Theo mình biết, những năm từ Quy Nhơn ra Huế học Pallerin, Hàn chẳng ở trọ nhà ai cả mà ở nội trú ngay trong trường í. Nhà giáo Võ Văn Côn (tức nhà văn Châu Hải Kỳ - nay đã mất) còn lưu giữ trong tư thất ở Nha Trang một tài liệu hiếm quý: học bạ của NTT do trường Pellerin lập qua hai niên khoá 1928 - 1929 và 1929 - 1930. Học bạ viết bằng chữ Pháp. Sau đây là trang nhận xét năm học cuối gồm 2 học kỳ (HK) của Hàn: Pháp văn: Có vài tiến bộ (HK1). Chững lại (HK2). Toán: Rất thường (HK1). Khá nhưng không đều (HK2). Khoa học: Chăm, tấn tới nhiều (HK1). Nghiêm túc, cần mẫn, đạt kết quả mỹ mãn (HK2), Sử địa: trí nhớ tốt, kết quả mx mãn (HK1). Khá (HK2). Vẽ và viết: Chữ viết khá, vẽ yếu (HK1). Khá cả hai môn (HK2). Việt văn: Dịch giỏi (HK1). Nhất về tập làm văn (HK2). Hiệu trưởng nhận xét: Nói chung là khá (HK1). Kết quả khá mỹ mãn (HK2). Cũng cần lưu ý bối cảnh lịch sử của miền sông Hương núi Ngự giai đoạn Hàn đang cắp sách. Lúc ấy, nhà ái quốc Phan Bội châu (1867 - 1940) vừa được Pháp đưa về "an trí" ở dốc Bến Ngự - cách trường Pellerin một quãng ngắn. Năm 1926, Hàn chân ướt chân ráo vào học Pellerin, cũng là năm "Ông già Bến Ngự" hùng hồn diễn thuyết tại các trường Đồng Khánh và Khải Định (tức Quốc Học - Huế), khích lệ nam nữ thanh niên HS phát huy tinh thần yêu nước. Đầu xuân Kỷ Mão 1927, giới trẻ ở Huế chuyền tay nhau Bài ca chúc tết thanh niên hừng hực hào khí của cụ Phan: Đúc gan sắt để dời non lấp bể/ Xối máu nóng rửa vết dơ nô lệ...Những áng văn thơ ngời sáng lý tưởng anh hùng ấy ắt chàng thanh niên NTT được nghe, được đọc và chịu ảnh hưởng ít nhiều. Giai đoạn đó, Huế là một trong ba trung tâm báo chí đáng kể của cả nước. Gây được cảm tình nồng hậu với độc giả chính là Tiếng dân - nhật báo duy nhất tại miền Trung xuất hiện trước 1930 và lại là tờ báo đối lập chính quyền, ra số đầu tiên ngày 10 - 8 - 1927, do chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng (1876 - 1947) vừa ở tù Côn đảo về sáng lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút; toà soạn đặt ở đường Đông Ba (nay là đường Huỳnh Thúc Kháng, Huế). Chí sĩ họ Huỳnh chính là bạn vong niên của chí sĩ họ Phan. Theo hồi ức của nhà tơ Hoàng Diệp thì như nhiều HS thời đó, Hàn là một bạn đọc nhiệt thành của báo Tiếng Dân. Ở giữa xứ Thần Kinh nổi tiếng thơ mộng, hữu tình, nguồn thơ của Hàn chắc chắn càng được kích thích. Ông Nguyễn Bá Tín xác nhận: Lệ Thanh thi tập gồm nhiều thơ Đường [Thơ luật Đường], phần lớn thể thất ngôn bát cú mà [Hàn] đã viết ra trong thời kỳ còn học trường Pellerin ở Huế" (HMT trong riêng tư - sđd, tr.128). Vài tài liệu cho rằng thời HS ở Huế, Hàn thường lui tới kính viếng "Ông già Bến Ngự" và cùng xướng hoạ thi văn. Chuyện này đáng xét lại. Vì khi Phan Bội Châu lập "Mộng Du thi xã" để trao đổi tâm tình với đồng bào, đồng chí, thì Hàn mạo muội gửi tới 3 bài thơ Thức khuya, Chùa hoang và Gáo ở chùa với bút danh Phong Trần. Lúc đó, Hàn đã trở về nhà ở Quy Nhơn. Cụ Phan rất tán thưởng, nhất là với bài đầu, bèn hoạ vận và cho đăng Thực Nghiệp Dân Báo số ra ngày 11 - 10 - 1931 với lời bình: "Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều. Song chưa bài nào hay đến thế. Ôi! Hồng Nam, nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng, ấy là thoả hồn thơ đó. Đọc lời khen ngợi chân tình của một bậc thanh danh lừng lững, Hàn rất sung sướng. Chàng tìm ra Huế thăm Phan Tiên sinh vào cuối năm 1931. Ấy mới là lần đầu tiên Hàn chính thức diện kiến cụ Sào Nam. Chuyến tao ngộ đã tạo ra bước ngoặt trong đời nhà thơ trẻ. Số là bấy giờ, Hàn vừa lập thủ tục sang Pháp học tập do Hội Nhu Tây du học bảo trợ. Hội được sáng lập bởi thượng thư Nguyễn Hữu Bài - chỗ quen biết với bên ngoại của Hàn. Mật thám Pháp đánh hơi mối quan hệ "rất có vấn đề" giữa chàng với cụ Phan. Sogny - chánh Sở Mật thám Huế - gửi hồ sơ "tình nghi tên NTT tức Phong Trần" vào cho Véran - chánh Sở Mật thám, Quy Nhơn. Kết quả là Hàn bị rút giấy phép xuất cảnh. Con đường học hành trở thành...tuyệt lộ! Thế nhưng, con đường sáng tạo văn chương bắt đầu hé mở. Nhờ những dòng giới thiệu của Phan Bội Châu, làng thơ xôn xao về sự xuất hiện của một tài năng mang hiệu Phong Trần hoặc P.T ký kèm với địa danh Quy Nhơn... Kỳ 4: THẦY KÝ QUÈN "Mất cơ hội đi Pháp, mộng viễn du không thành, (...) anh trở về Quy Nhơn sống với gia đình, rồi tiếp tục làm thơ viết báo. Bạn bè ngày càng kết giao nhiều, xa cũng như gần, nhờ tiếng tăm anh được Mộng Du thi xã nhắc đến trang trọng...". Đó là hồi ức của ông Nguyễn Bá Tín về anh ruột mình - nhà thơ Hàn Mặc Tử - in trong Hàn Mặc Tử trong riêng tư (tr.30). Thời điểm này năm 1932, kinh tế Đông Dương gặp cơn khủng hoảng, cả nhà Hàn chỉ một mình trưởng nam Nguyễn Bá Nhân "chèo chống" nên không tránh khỏi khó khăn. Hàn tính chuyện đi làm để giảm bớt gánh nặng cho gia đình. Lúc ấy, ở Quy Nhơn, người gốc Huế định cư khá đông, trong số đó có thầu khoán Đỗ Phong. Ông Phong giới thiệu Hàn một chân tập sự tại Phòng Địa chính Quy Nhơn trực thuộc Sở Địa chính tỉnh Bình Định - dân gian bấy giờ vẫn quen gọi là Sở Đạc điền. Hàn được phân công làm thư ký công nhật ở bộ phận bảo tồn điền trạch. Theo ông Tín, đấy là "cái việc dễ nhất, nhàn nhất và...ít tiền nhất là ngồi biên chép các tờ trích lục đã cũ, lãnh lương về chỉ đủ anh trả tiền mua báo, mua giấy và tem thư" (sđđ, tr. 31). Văn phòng làm việc mà gian nhà mà ngày nay đã trở thành tịnh xá Ngọc Nhuận, số 54 đường Ngô Quyền, Quy Nhơn. Thù lao nhận theo chế độ "khoán sản phẩm", song công việc lúc có lúc không nên đương nhiên thừa thì giờ mà thiếu... tiền bạc. Dẫu sao, cũng là viên chức nhà nước, Hàn vẫn được gọi thầy kí đạc điền! Thừa thời gian thì chàng đọc sách, làm thơ và giao du với bạn hữu. Đọc sách, sẵn thư viện trong Hội quán (Cercle d''Etudes de Quinhon - nay là Xí nghiệp in Bình Định ở số 54 đường Tăng Bạt Hổ, Quy Nhơn) toạ lạc gần nhà chàng. Cơ sở này được linh mục Paul André Maheu (tên Việt là cố Mỹ) sáng lập năm 1922, cùng thời với nhà in và tờ Lời thăm các thày giảng (gọi tắt là Lời thăm) - bán nguyệt san mà Hàn đang cộng tác. Linh mục Maheu, thừa sai của giáo phận Quy Nhơn, cũng chính là người đứng ra quyên góp để xây dựng trại phong Quy Hoà (cách Quy Nhơn 7 km về phia Nam) vào năm 1929. "Hãy cho tôi biết anh thường hay đọc những sách gì, tôi sẽ nói anh là ai". Câu danh ngôn ấy thật khó vận dụng đối với nhiều trường hợp. Như Hàn Mặc Tử giai đoạn này chẳng hạn. Quách Tấn ghi nhận trong Đôi nét về Hàn Mặc Tử (tlđd) rằng: "Tử rất siêng đọc sách. Trong quyển sổ ghi tên người mượn sách của thư viện Quy Nhơn, người ta thấy tên Tử chiếm gần nửa phần! Các bạn thân gọi bỡn thằng nghiện sách". Theo trí nhớ của bằng hữu và gia đình thì Hàn đọc... tùm lum, từ sách thần học, triết học, lịch sử, địa lý đến truyện, thơ - nhiều nhất là thơ. Hàn nghiền ngẫm sách thần học, giáo lý Kitô, rồi đem ra tranh cãi với bà chị kế. Ông Nguyễn Bá Tín kể: "Chị Như Lễ có học, ít nhiều có khiếu văn chương, rất hợp với anh. Nhưng hãy ngồi lại là hay tranh cãi, nhất là cãi giáo lý và chị thường bị anh chỉ trích là Pharisiêu [đồ giả hình] (...).Tôi nghĩ là hai chị em không có đề tài để nói chuyện ngoại trừ tranh cãi giáo lý" (Hàn Mặc Tử anh tôi - sđd, tr.26). Qua trao đổi trực tiếp, ông Tín còn cho chúng tôi biết thêm: - Giai đoạn anh Trí học Pellerin (Huế) rồi trở lại Quy Nhơn thì tôi vào Sài Gòn học trường Chasseloup Laubat nghỉ hè mới về thăm gia đình. Lúc đó, anh rất mê đọc thơ và làm thơ. Anh đọc nhiều thơ Pháp, nhất là Baudelaire (1821 - 1867) và các tác giả thuộc trường phái đặc trưng như Mallarmé, Valéry...Lại thấy anh đọc cả Breton [André Breton [André Breton, Pháp, 1896 - 1966, ông tổ trường phái siêu thực]. Làm thơ thì chủ yếu là thơ [luật]. Đường xướng hoạ với anh Nhơn [Bá Nhân], thỉnh thoảng tôi cũng tham gia cùng hai anh... Chế Lan Viên đề tựa tập Thơ Hàn Mạc Tử (Sở Văn hoá - Thông tin Nghĩa Bình 1987) còn nhớ: "Tử thường đọc Baudelaire: Sois sage ô ma douleur et tiens - toi plus tranquille! (Hãy ngoan hỡi em đau thương và em đứng yên nào!)". Tuy nhiên, trong một bức thư gửi Hoàng Trọng Miên sau này (6 - 1939), Hàn bộc bạch: "Miên có hỏi Trí về quan niệm thơ. Đối với Tr

Hàn Mặc Tử (1912–1940) tên thật Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là Pierre, sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, Tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình) trong một gia đình công giáo nghèo, cha mất sớm. Thuở nhỏ sống và học tiểu học ở Quy Nhơn, học trung học ở Huế, sau làm ở Sở Đạc Điền, bị thôi việc vì đau ốm. 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận, phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau lại trở ra Quy Nhơn. 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Quy Nhơn và qua đời ở đó.

Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị. 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập trường thơ Loạn, tuyên ngôn là bài tựa cho tập Điêu tàn của Chế Lan Viên. Với các bút danh Phong Trần, Lệ Thanh và cuối cùng là Hàn Mặc Tử, đăng bài trên các báo Phụ nữ tân văn, Tiếng dân, Công luận, Tân thời, Đông Dương tạp chí, Người mới, Trong khuê phòng, Sài Gòn, v.v... Sinh thời Hàn Mặc Tử mới xuất bản được Gái quê (1936).

Tác phẩm:
- Lệ Thanh thi tập
- Gái quê
- Đau thương (còn gọi là Thơ điên, gồm các phần: Hương thơm, Mật đắng, Máu cuồng, Hồn điên)
- Xuân như ý
- Thượng thanh khí
- Cẩm châu duyên (gồm 2 vở kịch thơ: Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội (viết dở) và một số bài thơ lẻ)
- Chơi giữa mùa trăng (thơ, văn xuôi)

Thế giới thơ Hàn Mặc Tử khá phức tạp, trong khoảng hơn 10 năm Hàn Mặc Tử đi từ thơ luật Đường cổ điển qua lãng mạn đến ít nhiều tượng trưng, siêu thực. Tập Gái quê và một số bài trong Đau thương cảm xúc trong trẻo, lời thơ nhẹ nhàng, tứ thơ bình đị, tình ý nồng nàn rạo rực, nhưng càng về sau này thơ càng kinh dị, huyền bí và đượm màu sắc tôn giáo. Những đau đớn về thể xác về linh hồn để lại những dấu tích rõ rệt trong tác phẩm.

Nguồn: Từ điển văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá, 1993
Hàn Mặc Tử (1912–1940) tên thật Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là Pierre, sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, Tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình) trong một gia đình công giáo nghèo, cha mất sớm. Thuở nhỏ sống và học tiểu học ở Quy Nhơn, học trung học ở Huế, sau làm ở Sở Đạc Điền, bị thôi việc vì đau ốm. 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận, phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau lại trở ra Quy Nhơn. 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Quy Nhơn và qua đời ở đó.

Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị. 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập trường thơ Loạn, tuyên ngôn là bài tựa cho tập Điêu tàn của Chế Lan Viên. Với các bút danh Phong Trần, Lệ Thanh và…

Cẩm châu duyên

Đau thương (Thơ điên, 1937)

Đôi hồn

Gái quê (1936)

Lệ Thanh thi tập

Thượng thanh khí

Xuân như ý

Chơi giữa mùa trăng (1941)

 

Trang 1234 trong tổng số 4 trang (38 bình luận)
[1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

André Breton và Hàn Mặc Tử

Hoàng Nhân


Năm nay giới văn học Pháp đang chuẩn bị nhiều hoạt động kỷ niệm 100 năm ngày sinh và 30 năm ngày mất của nhà thơ nổi tiếng André Breton (1896 – 1966), nhà thơ tiền phong và là người đứng đầu trường phái siêu thực về lý luận và thực hành sáng tác như thế nào? Thử tìm hiểu đôi điều liên hệ giữa André Breton và nhà thơ Hàn Mặc Tử của chúng ta.

Chủ nghĩa siêu thực là một trào lưu năng động nhất về văn nghệ của thời kỳ sau Thế chiến lần thứ I. Hình thành ở Pháp khoảng từ năm 1920, chủ nghĩa siêu thực tự khẳng định với bản Tuyên ngôn siêu thực lần thứ nhất (1924) và tạp chí Cách mạng siêu thực. Từ năm 1926 đến năm 1928, trường phái này hoạt động sôi nổi với nhiều tác phẩm của các tác giả như: Nadja của Breton, người nông dân Paris của Aragon, Tự do hay tình yêu của Desnos, Trí tuệ chống lại lý trí của Crével, Đô thị đau thương của Eluard,. Đây là thời kỳ chủ nghĩa siêu thực trong thơ và hội hoạ đầy sinh khí và có sức hấp dẫn mạnh mẽ một bộ phận khá đông công chúng ở Tây Âu. Từ năm 1929, trường phái siêu thực bắt đầu chia rẽ và phân tán với Tuyên ngôn thứ hai (1930) của Breton. Từ năm 1927, Aragon và Eluard đã ra nhập đảng Cộng sản Pháp và đến năm 1932 thì cắt đứt với phái siêu thực. Năm 1938 là năm mở đầu các cuộc triễn lãm hội hoạ siêu thực ở Paris trong nhiều năm.

Trường phái siêu thực ra đời có nguyên nhân sâu xa về xã hội, văn hoá từ giữa hai cuộc thế chiến (1919 –1939). “Một thế hệ mất mát” (une g1enératon perdue) sau thế chiến lần I, lo âu trước sự đe doạ của một cuộc chiến tranh mới, đã tỏ ra “bất phục tùng” trước thực tại. Họ đi tìm một cách nhìn mới về một thế giới trước nghịch lý của nền văn minh liên tục xây dựng và liên tục bị tàn phá. Họ day dứt trước bao điều trái ngược về các mối quan hệ giữa thực tại và tưởng tượng, tinh thần - vật chất, Lý trí – Phi lý tính… Họ muốn cởi mở tiếp nhận và dung hoà nhiều yếu tố tư duy khác nhau: ý nghĩ “đổi đời” của Rinbaud, tư duy “cải tạo thế giới” của Mác, cái “đà sống” của con người qua phân tâm học của Freud.

Andeton là nhà lý luận, một nhân cách độc lập và say mê đã kiên trì thể hiện và bảo vệ những giá trị của trào lưu này. Có mặt ở trung tâm các cuộc luận chiến, ông thường sử dụng hai vũ khí: khen ngợi và chê trách mạnh mẽ. Ông cho rằng tiếng nói nguyên sơ của con người đã mất đi vì bị phó mặc cho chủ nghĩa duy lý và ông khẳng định rằng con người luôn giữ trong suy tư của mình một thực tại còn chưa khám phá ra. Ông quan niệm “một lực chủ đạo là dục vọng không gò bó” sẽ làm nẩy nở: thơ, tình yêu, tư do - vốn là hạnh phúc trọn vẹn của nhân loại. Ông muốn con người cần loại bỏ những ràng buộc của cuộc sống hàng ngày, những thói quen làm cho con người trở nên “ù lì”. Do đó ông nổi loạn thường trực chống lại cuộc đời như đã định sẵn và trong bản thân ông diễn ra nghịch lý: ý thức cách mạng nẩy nở khi đấu tranh cho tự do chống lại mọi chế độ ràng buộc, nhưng ông lại không tán đồng mệnh lệnh của các đảng phái chính trị làm cho hoạt động trí tuệ thuộc vào sự thống nhất của tổ chức. Và quan niệm về chủ nghĩa xã hội của ông có tính chất một chủ nghĩa tự do không tưởng. Breton ý thức rằng cuộc sống phải có những cắt đứt và điều chỉnh, và chủ nghĩa siêu thực mang lại sự thuần khiết trọn vẹn của cá nhân.

Trong Tuyên ngôn của ông đã nêu lên “lối viết tự động” (écriture automtique) là lối viết thể hiện mọi ý tưởng, cảm xúc ngẫu nhiên từ cõi tiềm thức, những giấc mơ, ảo giác… vượt ra sự kiểm soát của lý tính: “Từ niềm tin về những khám phá của Freud, một trào lưu sẽ ra đời. Nhờ trào lưu đó, nhà thám hiểm nhân văn có thể đẩy ra những cuộc tìm kiếm của mình mà không chỉ cần đến thực tại sơ sài… Chủ nghĩa siêu thực là chủ nghĩa tự động tâm lý thuần tuý, nhờ nó mà người ta đặt vấn đề biểu hiện hoặc bằng lời nói, hoặc bằng bài viết, hoặc bằng bất cứ cách thức nào, hoạt động thực tế của tư tưởng thoát khỏi mọi sự kiểm soát của lý tính…”

Nadja (1928) là tác phẩm văn xuôi có tính chất thơ tiêu biểu của Breton. Tác giả kể về sự kỳ diệu của hai Paris của những chốn và con người có thật, và một Paris khác có tính chất biểu tượng với những cuộc gặp gỡ. Vấn đề không phải là ở người gặp mà ở sự gặp gỡ khi nhân vật Nadja hoà lẫn với những người gặp trên đường. Qua những lần gặp gỡ thì sự trợ giúp của người phụ nữ là yêu việt, vì người phụ nữ gắn với thiên nhiên hơn người đàn ông, và giúp ta hiểu được bí mật của thời gian. Những lần gặp gỡ phát hiện ra vẽ đẹp thật ngẫu nhiên và “sự lên men của các dục vọng bí ẩn” nằm sâu trong cõi tiềm thức và vô thức. Từ năm 1942 đến năm 1947, nhiều tác phẩm của ông có tính chất sử thi và triết lý. Ví dụ bài thơ Chuyến thư cuối cùng (Dernìere levée) là cuộc vi hành của một lá thư “đóng dấu đường hoàng đạo”, bóc ra bởi những mái chèo, mở ra bao điều bí mật của tâm hồn, sống và chết, quá khứ và tương lai, cái cao và cái thấp… không còn được nhìn trong thế mâu thuẫn.

Văn học hiện đại Việt Nam không có chủ nghĩa siêu thực mà chỉ có những yếu tố siêu thực nhất định, khởi đầu với tác phẩm của một số nhà thơ Mới như Chế Lan Viên (Điêu tàn), Nguyễn Xuân Sanh (Xuân Thu nhã tập) và nhất là Hàn Mặc Tử (Thơ điên: đau thương, thượng thanh khí…). Trong Lời giới thiệu Thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên viết: “Anh bị xô vào giữa trận bão, cơn giông, đám cháy, giữa chết chóc, cô đơn, máu lệ nên có cách nào hơn? (…). Cuối cùng anh dùng đến cả bút pháp siêu thực châu Âu. Anh tả sao:

Đứng ngửa tay mà hứng máu trời sa

Và chính anh đang cảm thấy máu sa trong hồn anh thực. Anh viết:

Ta đi tìm nụ tầm xuân
Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây
Rượu nắng hồng vào thì say
Áo ta rách rưới trời không vá
Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng

Điên đầu phải không? Nhưng anh say say chứ? Ngấm rượu siêu thực của anh rồi!”

Hàn Mặc Tử đã viết những vần thơ đau thương trong hoàn cảnh anh bị bệnh phong vào thời ấy phải sống cách biệt với mọi người. Có thể nói bao nhiêu ham muốn và khát vọng cháy bỏng từ thân xác, trái tim, trí tuệ, tài hoa của một chàng trai bị dập vùi, dồn nén vào trong tầm thức, vô thức để rồi thoát thành những vần thơ theo “lối viết tự động” như của Breton, vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý tính.

Từ đó ta mới có thể hiểu chất thơ thế tục của ông:

Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
…Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
… Dám ôm hồn Cúc trong sương
Ôi Hoàng hoa, hồn phách nơi đây

Hàn Mặc Tử là một tín đồ Thiên Chúa giáo, thế mà tín điều ép phần xác cho siêu thoát phần hồn của Kinh thánh lại không kiểm soát được cảm hứng thế tục của nhà thơ thoát ra từ bản năng vô thức bị dồn nén. Có thể Hàn Mặc Tử chưa hề biết đến trường phái siêu thực trong thơ của họ lại gặp nhau.

Điếu khác biệt là Breton đứng đầu cả một trào lưu siêu thực, tiêu biểu cho sự phản ứng của cả một Thế chiến I nhằm chống lại thực tại tư sản, còn Hàn Mặc Tử của chúng ta là sự giằng xé đau thương của một cá nhân đơn độc, của một người dân Việt Nam trong xã hội thuộc địa, mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo. Do đó chất thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử lại toả ra “thanh khí” riêng của một hồn thơ dân tộc say mê mãnh liệt cuộc sống. Do đó ông đã sáng tạo ra một cõi sống riêng, một hồn riêng mà không phải là hư vô như có người ngộ nhận, không phải là hồn như của bao con chiên khác hướng đến thiên đàng.

Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng
Há mình cho hồn văng lên muôn trượng
… Hồn là ai, là ai tôi không hay
Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay

Và nhà thơ yêu sức sống của ánh trăng bàng bạc, của gió mây trời quê hương:

Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm
Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi lại đỏ hườm
… Nghe hơi gió ôm ngang lấy gió
Tưởng chừng như trong gió có hương
Của người mình nhớ mình thương
Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì
… Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng qúa nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà

Trong quá trình sáng tác, Chế Lan Viên, Xuân Diệu đã cảm nhận sự cần thiết “một thoáng siêu thực” trong thơ làm cho chất trữ tình, chất hiện thực càng dễ say lòng người. Nếu chất thơ siêu thực của Preton và trường phái siêu thực Pháp vẫn đậm màu duy lý khi kết hợp thực và mộng, thực và siêu thì chất thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử lại thấm màu trực giác tổng hợp của phương Đông về thời gian - không gian, con người – vũ trụ, thể chất – tâm hồn… Vì lẽ đó mà chất thơ siêu thực của ông đã vượt ra ngoài mọi khuôn khổ của tín điều, giáo lý.

Nhà phê bình Albérès viết: “Trong đời người có những lúc một vật nhàn chán nhất cũng làm cho chúng ta tràn đầy vui sướng, chúng ta sống những phút ấy vì gặp tình cờ, có khi vì mỏi mệt, chúng ta nhìn sự vật khác hẳn lúc bình thường. Chủ nghĩa siêu thực tạo những cơ hội ấy… cho tấm màn thói quen nhàm chán rách tung và làm hiện ra một thế giới ở bên ngoài biên giới của hệ của thông lệ tạo nên bởi giáo dục” (Văn chương đương đại thế giới)

Nhà thơ Chế Lan Viên nhận xét: “Siêu thực của châu âu là chủ nghĩa siêu thực, ta không chấp nhận chủ nghĩa. Nhưng ta mừng trước thơ Hàn Mặc Tử vì thơ ông có mang những yếu tố siêu thực, với một tỷ lệ chấp nhận được. Hơn nữa, siêu thực châu Âu là siêu thực vì bộ óc. Hàn Mặc Tử thì Nàng đánh tôi quá đau. (Tựa thơ Hàn Mặc Tử)

Giới văn học Pháp kỷ niệm lớn André Breton với những lý do riêng của xã hội nước pháp vẫn đang trãi qua muôn vàn sóng gió ở cuối thế kỷ này. Tìm hiểu tính chất siêu thực trong thơ Hàn Mặc Tử là để thấy sự gặp gỡ Đông – Tây về văn hoá, nhưng ở Hàn Mặc Tử vẫn đậm đà bản sắc của một hồn thơ Việt Nam

(Tạp chí Văn hoá.- 1996.- Số 7 (1.348); KHPL: BĐ.04(91))
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bí mật Hàn Mạc Tử

Tác giả: Phanxipăng


Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi bị phản bội lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật.
HÀN MẠC TỬ
(Tựa Thơ điên, 1938)

Trong văn học Việt Nam hiện đại, Hàn Mạc Tử (1912 - 1940) là một tác giả được tôn sùng, hâm mộ. Năm 1942, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét: "Từ ngày Hàn Mạc Tử trừ trần đến nay, mới khoảng hai năm trời mà người ta đã nói rất nhiều và viết nhiều về Hàn Mạc Tử". Còn tính tới lần giỗ thứ 60 của thi sĩ vào cuối thế kỷ 20 này, hàng nghìn cuốn sách và bài báo trong lẫn ngoài nước đã đề cập đến tài năng yểu mệnh ấy. Riêng các tác phẩm của Hàn Mạc Tử không những được chọn đưa vào chương trình giảng dạy ở nhà trường, mà còn liên tục được ấn hành và....bán chạy. Thế nhưng, vì lắm lý do, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hàn Mạc Tử vẫn tồn tại hàng loạt "bí mật", khiêu gợi trí tò mò đối với chúng ta. Thời gian qua, nhờ sự nổ lực tìm kiếm của một số người yêu quý nhà thơ qúa vãng, bao điều "bí mật" kia dần dần được "bật mí". Bằng khối lượng tư liệu thu thập từ nhiều nguồn, loạt bài này hy vọng sẽ cung cấp những thông tin mà bạn đọc chưa có thể nắm được đầy đủ. TGM cộng tác viên gần xa góp phần bổ sung, hiệu đính bằng những chứng cứ xác tín về Hàn Mạc Tử để chúng ta hiểu rõ hơn, đúng hơn thân thế và sự nghiệp của một tài hoa đất Việt.

Kỳ 1: CHÍNH DANH ĐỊNH LUẬN: MẠC HAY MẶC?

Bấy lâu, phần lớn sách báo - Trong đó có giáo khoa trung học và giáo trình đại học - đều ghi bút danh chính Trần Trọng Trí là Hàn Mặc Tử. Cạnh đấy, một vài tư liệu lại đề: Hàn Mạc Tử (không có dấu ﮞ). Vậy nên thống nhất cách viết, cách đọc bút danh/ bút hiệu của nhà thơ sao cho chuẩn xác?

Về vấn đề này, thiết tưởng cần tuyệt đối tôn trọng ý muốn của chính bản thân tác giả. Sinh thời, Nguyễn Trọng Trí tự chọn bút danh thế nào thì chúng ta hãy giữ nguyên thế ấy.

Khổ nỗi, suốt cuộc đời cầm bút, Nguyễn Trọng trí ký nhiều bút danh dưới các tác phẩm của mình. Thuở mới bước vào làng thơ, chàng ký Minh Duệ Thị. Sau đổi ra Phong Trần. Rồi đổi thành Lệ Thanh. Kế tiếp là Hàn Mạc Tử. Đó là bút danh chính, ngoài ra Nguyễn Trọng Trí cón ký bút danh phụ như Lệ Giang, Sông Lệ, Foong Tchan (phiên âm chữ Phong Trần), P.T. (viết tắt chữ Phong Trần)...

Thế vì sao "Mạc" bỗng hoá nên "Mặc"?

Hãy nghe mẩu hồi ức do một bạn thân của Hàn thi sĩ là nhà thơ Quách Tấn (1910 - 1993) thuật lại trên tạp chí Lành Mạnh số 38 (Huế, 1.11.1959, tr.18), sau đăng lại trên tạp san Văn số 73 - 74 (Sài Gòn, 7.1.1967, tr.49):

"Hiệu Minh Duệ Thị ít ai biết. Tử nổi tiếng với hiệu Phong Trần, nhưng sau khi Tử đã quen thân cùng tôi, một hôm nhân vui miệng, tôi chê: "Tướng anh mảnh khảnh thế này, chịu sao nổi cảnh phong trần mà ước?". Một bà cụ thâm nho ở Bình Định cũng bảo rằng hiệu Phong Trần không hợp với tánh tình của Tử. Bà khuyên Tử nên đổi lại hiệu khác. Tử bàn lấy chữ đầu của sanh quán (Lệ Mỹ) và chữ đầu của Chánh quán (Thanh Tân), ghép lại thành hiệu Lệ Thanh. Tử rất lấy làm vừa ý. Nhưng được ít lâu gặp Tử, tôi lại trêu: "Bộ anh ngó "dễ thương" mà cái hiệu Lệ Thanh nghe cũng "yểu điệu thục nữ" quá! Âu tôi gọi là "cô Lệ Thanh" cho thêm duyên". Tử làm thinh. Nhưng ít lúc sau lại thấy hiệu Hàn Mạc Tử. Hàn Mạc Tử là bức Rèm Lạnh. Tử cho là độc đáo, tìm đến khoe cùng tôi. Tôi cười "Kể cũng ngộ thật! Tránh kiếp phong trần lại đi làm khách hồng nhan. Sợ kiếp hồng nhan đa truân lại đi làm kiếp rèm lạnh. Tránh lờ chun vào lưới. Sao mà lẩn thẩn quá thế?". Tử đâm khùng: "Anh này thật đa sự! không biết đặt "cái đếch" gì cho vừa lòng anh?". Tôi đáp: "Đã có rèm thì thêm bóng trăng vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?". Tử hội ý, cầm bút vạch "vành trăng non" lên đầu chữ A của chữ Mạc thành ra Hàn Mặc Tử. Chỉ thêm dấu á (ă) mà đổi hẳn ý nghĩa của cả khóm chữ. Chữ Hàn thì trước kia nghĩa là Lạnh. Nhưng đi kèm với chữ Mặc là Mực trở thành chữ Hàn là bút. Hàn Mặc Tử là anh chàng "Bút Mực".

Mẩu hồi ức vừa dẫn đậm tính giai thoại, hoàn toàn chẳng có bút tích minh chứng. Trong chuyên luận Hành trang cho thơ và sự trở lại của chính mình của Hàn Mạc Tử (NXB Đà Nẵng, 1996),Vũ Hải - tức cô giáo Võ Thị Hải - đã "mạnh dạn đưa vấn đề này (vấn đề "Mạc" hay "Mặc") thành một chương chính gần như là cốt lõi trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu về Hàn Mạc Tử "(tr.29). Vũ Hải tỏ ra hợp lý khi lập luận rằng "không thể chỉ dựa vào giai thoại để thẩm định bút danh cuối cùng của nhà thơ được" (tr.31).

Thực tế thì năm 1936, in tập thơ đầu tay Gái Quê (NXB Đời Nay - lời tựa của Phạm Văn Ký), Nguyễn Trọng Trí ký bút danh Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên sau đấy, chậm nhất là từ năm 1939, nhiều văn bản còn lưu lại cho thấy nhà thơ lấy bút hiệu ngày trước là Hàn Mạc Tử.

Chẳng hạn như bản in lần đầu tiên năm 1939, tựa đề cho tập Tinh huyết của Bích Khê (NXB Đông Phương), Nguyễn Trọng Trí đã ghi rõ ở trang 19: Hàn Mạc Tử. Cần thêm rằng trong bản thảo thi tập Tinh hoa kế tiếp (dự định xuất bản năm 1944 nhưng không thành), Bích Khê dành hẳn cho bạn mình một bài thơ với tựa đề mang bút danh y hệt: Hàn Mạc Tử.

Đáng lưu ý là ngay trong tập thơ Một tấm lòng của Quách Tấn xuất bản lần đầu năm 1939, bìa cũng như ruột còn in rành rành: "Hàn Mạc Tử đề bạt" (ảnh). Cũng năm 1939, trong bức thư kèm theo bài thơ Ở đây thôn Vỹ Giạ viết vào tháng 11 - nghĩa là tròn một năm trước khi thi sĩ qua đời, Nguyễn Trọng Trí ký cuối thư và cuối bài thơ: Hàn Mạc Tử. Người nhận thư và thơ là này là Hoàng Thị Kim Cúc đã giữ gìn thủ bút bao năm ròng tại nhà riêng ở Huế (sẽ đăng thủ bút trong một kỳ sau).

Lý giải chuyện "Mạc" vẫn hoàn "Mạc" thế nào đây? Giả thiết rằng giai thoại mà Quách Tấn tường thuật là sự thật, thì vì lý do của tình bạn, Nguyễn Trọng Trí chỉ sử dụng bút danh Hàn Mặc Tử một thời gian ngắn rồi quay trở lại với hiệu Hàn Mạc Tử vì thấy phù hợp với mình hơn. Đặt nhà thơ vào hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ đang đau khổ vì bệnh tật, nghèo túng và cô quạnh, Nguyễn Đình Niên đã phân tích trong công trình nghiên cứu Kinh nghiệm về thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử (Tiểu luận cao học văn chương, Đại học văn khoa Huế, 1973):" Nếu xét theo tiếng đồng âm (Synonyn) thì lại còn có nghĩa anh chàng nghèo mạt (Nghèo mạt rệp) hoặc chết (tử) trong sự nghèo nàn (mạc) và lạnh lẽo, cô quạnh (hàn) nữa". Bấy giờ, một bạn thân khác của Nguyễn Trọng Trí là Trần Tái Phùng ở Huế. Ông Phùng kể rằng trong bức thư Trí gởi cho mình, có đoạn viết: "Người ta thường gọi lầm tôi là Hàn Mặc Tử, phải gọi là Hàn Mạc Tử mới đúng" (Vũ Hải - Hành trang cho thơ..., tr.37).

Qua những cứ liệu vừa nêu, dẫu chưa đầy đủ, song chúng ta cũng có thể xác định rằng Hàn Mạc Tử là bút danh mà Nguyễn Trọng Trí tự cảm thấy phù hợp nhất, tâm đắc nhất. Đây là bút danh mà nhà thơ dùng để ký hầu hết tác phẩm cũng như thư từ trong giai đoạn gần mãn đời. Sở dĩ gọi là gần mãn đời, vì từ sáng 20-9-1940, khi Nguyễn Trọng Trí vào bệnh viện Quy Hoà rồi mất tại đấy chưa đầy hai tháng sau, thì chàng giấu nhẹm mọi chuyện riêng tây, chỉ ký tên thật kèm với thánh danh là Francois Trí - kể cả bản thảo cuối cùng bằng tiếng Pháp La Pureté de L'Âme (Tấm linh hồn thanh khiết) viết đêm 24 tháng 10 năm 1940 và cất trong túi áo cho đến lúc nhà thơ tắt thở vào ngày 11.11.1940.

Sau khi nhà thơ tài năng lìa trần, các văn bản được công bố ghi Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử? Đây cũng là những tư liệu có ý nghĩa văn học sử, rất cần tham khảo.

Báo Người Mới, liên tiếp mấy số ra ngày 23 - 11, 30 - 11 và 7 - 12 - 1940 tập trung đăng bài thương tiếc Nguyễn Trọng Trí của bằng hữu khắp nơi, ắt là loạt ấn phẩm xuất hiện sớm nhất ngay sau lúc nhà thơ mất. Lục lại chồng báo ấy, GS Phan Cự Đệ xác nhận: "Báo Người Mới số 23 - 11 - 1940 ghi bút danh Hàn Mạc Tử trong tất cả các bài, kể cả bài của Quách Tấn" (Thơ văn Hàn Mạc Tử - Phê bình và tưởng niệm; NXB Giáo dục, Hà Nội 1993, tr.329).

Bộ sách Thi nhân Việt Nam do Hoài Thanh - Hoài Chân biên soạn năm 1941, từ bản in lần thứ nhất và lần thứ hai (Bắc Việt năm 1942) cho đến bao bản in đi in lại về sau, luôn ghi rõ Hàn Mạc Tử kèm dòng cước chú: "Hai chữ "hàn mạc" trong tự điển không có, chỉ có "Hàn Mặc" nghĩa là văn chương".

Cùng ấn hành sớm như bộ sách trên là chuyên khảo của Trần Thanh Mại, bản in lần đầu năm 1942 tại nhà in Rạng Đông (Hà Nội) đang được nhà văn Trần Thanh Địch - em ruột của Trần Thanh Mại, hiện trú tại Phú Nhuận, Tp. Hồ Chí Minh lưu giữ với bìa và ruột đề rõ: Hàn Mạc Tử, xuất bản bởi Võ Doãn Mại, 63 Pellerin, Sài Gòn. Chúng tôi cũng có tác phẩm này, bản in lần thứ năm, do NXB Tân Việt (Sài Gòn) tái bản năm 1970 dưới nhan đề: Hàn Mạc Tử thân thế và thi văn. Chẳng rõ vì sao gần đây, một số tài liệu sao lục sách của Trần Thanh Mại lại tự tiện chữa "Mạc" thành "Mặc" cả? Tương tự như vậy, cuốn Hàn Mạc Tử, thi sĩ của đạo quân thánh giá do Võ Long Tê biên soạn, NXB Vinh Sơn (Huế) in năm 1953, về sau được in lại hoặc trích dẫn cũng xếp chữ "Mạc" thành chữ "Mặc"!

Trên bước đường nghiên cứu, với bao chứng cứ được phát hiện ngày càng đầy đặn, không ít tác giả dần thiên về cách gọi Hàn Mạc Tử. Kiên định với "chính danh" ấy, có thể kể trường hợp Phạm Xuân Tuyển - Xước danh Xirô Tuyển - một kẻ hậu sinh từng đồng bệnh với Hàn, đã điều trị ở trại phong Bến Sắn (Bình Dương), nay lành bệnh và trú tại Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Sau hơn 30 năm lò mò liên hệ nhân chứng, sưu tầm vật chứng và lặn lội khảo sát thực địa, Xirô Tuyển đã sơ bộ hoàn tất công trình Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử dày 500 trang đánh máy vào năm 1996 và hiện đang tiếp tục nhuận sắc, bổ sung. Chính anh là một trong những người nhiệt tình cung cấp những tư liệu quý hiếm cho chúng tôi thực hiện loạt bài mà bạn đọc bắt đầu theo dõi.

Đề tựa công trình của Phạm Xuân Tuyển, GS. NGND. Hoàng Như Mai bày tỏ: "Tôi tán thành cái bút danh Hàn Mạc Tử". Trong tư thế giao lưu và hội nhập văn hoá với toàn cầu, việc thống nhất bút danh chính của một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng càng cần thiết. Bởi khi chuyển ngữ, nhất là phiên dịch sang một văn tự biểu ý như tiếng hoa chẳng hạn thì "sai một ly đi một dặm"! Dẫu vậy, xét thực tiễn hiện nay, việc điều chỉnh bút danh của "một đỉnh cao loà chói trong văn học của thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ" (chữ dùng của Chế Lan Viên) còn vướng vô vàn khó khăn! Nói đâu xa, ngay tấm bia đá do thân quyến nhà thơ phụng lập trước mộ ở Gành Ráng/Ghềh Ráng (Quy Nhơn) mà cũng khắc Hàn Mạc Tử nữa là! Ngoại trừ Tp. Hồ Chí Minh, các tên đường Đồng Hới (Quảng Bình) và ở Huế cũng không ghi khác! Duy những di tích cùng hiện vật đang bảo tồn trong bệnh viện Quy Hoà (Bình Định) - nơi nhà thơ đến chữa trị và trút hơi thở cuối - thì qua đợt tôn tạo gần đây điều đã được sửa đổi tất cả biển bảng cho hợp "chính danh" Hàn Mạc Tử. Đó là việc làm rất đáng hoan nghênh.

Với chiều hướng ấy, trong loạt bài này, trừ trường hợp thật sự cần thiết, chúng tôi luôn ghi bút danh chính thức của Nguyễn Trọng Trí là Hàn Mạc Tử - kể cả những đoạn trích dẫn.

Kỳ 2: NGUYỄN TRỌNG TRÍ PHẢI CHĂNG GỐC HỌ...NGUYỄN?

Vấn đề gia thế của Hàn Mạc Tử cũng tồn tại lắm ly kỳ, uẩn khúc, không dễ gì tỏ tường sớm một chiều!

Hàn thi sĩ có họ tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 - 9 - 1912 tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình; nay là phường Đồng Mỹ, thị xã Đồng Hới, Quảng Bình; trong một gia đình Kitô giáo. Thân phụ của nhà thơ là ông Nguyễn Văn Toản, bấy giờ làm công chức ngạch thông Phán (cardre secondaire) ở đấy nên thường được mọi người gọi là "thầy thông Toản" hoặc "thầy Toản". Thân mẫu là Nguyễn Thị Duy, một phụ nữ Huế, con gái thứ 9 của ngự y Nguyễn Long, người gốc Trà Kiệu (Quảng Nam) và ở Vạn Xuân - vùng đất thuộc mạn bắc sông Hương, nằm cạnh kinh thành Huế.

Điều đáng ngạc nhiên là tất cả chú bác của nhà thơ đều mang họ Phạm, một họ nghèo ở xứ đạo Ồ Ồ (Thanh Tân, Tân Sơn, Phong Sơn, Phong Điền, Thừa Thiên Huế). Chỉ mỗi một mình ông bố đổi sang Nguyễn tộc, dù rằng trong gia phả vẫn chép họ tên ông bằng hai chữ: Phạm Toán. Vì sao? Bao giờ?

Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã tìm gặp em ruột nhà thơ Hàn Mạc Tử. Đó là ông Nguyễn Bá Tín, hiệu Thiện Nam, hiện ở trong một ngõ hẻm trên đường Kỳ Đồng, Q.3, Tp. Hồ Chí Minh. Chính ông từng viết mấy tập hồi ký Hàn Mạc Tử anh tôi (Nxb Tp. Hồ Chí Minh 1991) và Hàn Mạc Tử trong riêng tư (NXB Hội nhà văn 1994) gây xôn xao một thuở. Cũng chính ông là tác giả loạt tranh sơn dầu hồi hoạ (vẽ theo trí nhớ) những cảnh sinh hoạt của anh kế mình lúc sinh thời. Loạt tranh này hiện treo trong phòng lưu niệm nhà thơ Hàn Mạc Tử ở bệnh viện Quy Hoà, Bình Định.

Ông Nguyễn Bá Tín năm nay (2000) ngoại bát tuần, mắt đã mờ, tai hơi nặng, đi đứng khó khăn, song giọng nói vẫn còn sang sảng. Tiếp chúng tôi, ông vồn vã:

- Noel năm 1788, ngay sau Hàn Mạc Tử anh tôi vừa xong bản thảo đánh máy, chưa làm thủ tục xuất bản, tôi đã biếu riêng anh một tập rồi kia mà. Trong đó tôi có viết đoạn "Một ít lịch sử dòng họ", anh đọc xong quên ngay ư?

Đoạn ấy, chúng tôi đâu dễ quên. Nó thế này:

"Từ nhỏ, không nghe ai nói đến dòng họ của cha tôi, tuy vẫn biết nội tổ là Phạm Bồi, quê ở Thanh Hoá, lập nghiệp tại làng Thanh Tân (Thừa Thiên). Cũng không ai tìm hiểu vì sao cha tôi mang họ Nguyễn mà chú tôi đều giữ họ Phạm. Mãi đến năm 1933, mới gặp bà chị thúc bá với cha tôi là Phạm Thị Nhàn (sage femme) tại Quy Nhơn và người cháu họ là Phạm Long (sergent interprète) đều cùng quê quán ở Thanh Hoá. Từ đó mới biết được tông tích dòng họ. Đến năm 1934, anh cả tôi là Nguyễn Bá Nhân tức là Mộng Châu, đem tôi đi Hà Nội tìm tộc trưởng là Phạm Thành tức là Phạm Bá Thành, tòng sự tại Sở Nội dịch toàn quyền. Theo gia phả bằng chữ Hán thì dưới thời Trịnh Kiểm soán vị, gia thần thế tử Nguyễn Uông (con cháu Nguyễn Kiểm) nổi lên chống Trịnh Kiểm vì đã ám toán thế tử Uông. Thất bại trong cuộc nổi dậy đó, một số bị giết, số còn lại phải cải tánh ra "Phạm" bị đày vào Nam, về sau lại lập nghiệp ở Thanh Hoá. Cuối triều Tự Đức, Pháp xâm lược Việt Nam, vua Hàm Nghi dời đô, hạ chiếu Cần Vương, đem binh vào Huế cứu giá, đồng thời đa số dòng họ Phạm cũng tham gia các phong trào khởi nghĩa. Phần nội tổ mang quân vào Thừa Thiên chống cự với binh Pháp cho đến khi Trương Quang Ngọc làm phản, nộp vua Hàm Nghi cho Pháp. Cụ giải tán binh sĩ, ném vũ khí xuống ao, lấp lại, xây nhà lên trên. Cụ vào giúp việc cho cố Đồng, xây dựng nhà thờ Thanh Tân và ở lại lập nghiệp ở đó. Anh Mộng Châu khi về thăm quê nội đã được trông thấy khẩu súng hoả mai của cụ đã rỉ sét. Từ đó, nội tổ mai danh ẩn tích tuyệt đối, dòng họ không ai tiết lộ, vì có lệnh truy nã cụ về tội đào nhiệm ở Thanh Hoá. Khi cha tôi đến tuổi đi học, cố Đồng giúp cho vào Tiểu chủng viện, lập thủ tục thay đổi họ tên. Cũng nhờ tổ mẫu thân thuộc với với cụ Nguyễn Hữu Bài có thế lực, nên mọi việc không gặp khó khăn. Sự im lặng về nguồn gốc bên nội cũng dễ hiểu, ví lúc bấy giờ, cả cha tôi và anh Mộng Châu đều là công chức Pháp thuộc, không muốn liên luỵ với qúa khứ Cần Vương của nội tổ. Ở Chủng viện về với chức tư (tonsuré), cha tôi ra làm việc ở toà sứ Huế, về sau đổi vào Hội An, ông bỏ toà sứ qua Thương chánh..."

Chưa đủ điều kiện kiểm chứng toàn bộ về tính chính xác lịch sử, song đoạn trích trên chẳng những không giải đáp đầy đủ câu hỏi mà chúng tôi đặt ra, làm còn lại bật thêm một vài băn khoăn khác.

Chẳng hạn như họ đạo Thanh Tân thuộc giáo xứ Tân Sơn, theo tư liệu 150 năm giáo hội phận Huế 1850 - 2000 (Tổng giáo phận Huế 2000, tr.114), thì thời điểm hình thành vào năm 1867 mà linh mục đặt nền móng xây dựng là Auguste Chaiget, tên Việt là cố Soái, còn cố Đồng lại là Jean Reneeaud, cha sở đầu tiên ở giáo xứ Tân Mỹ thuộc vùng đầm phá huyện Phú Vang từ năm 1888, chứ chưa thấy ghi dấu gì với giáo xứ Tân Sơn trung du sau giai đoạn Nguyễn Quang Ngọc bắt vua Hàm Nghi (tháng 10 - 1888) cả. Vậy tác giả Nguyễn Bá Tín chép nhầm chăng?

Ông Tín cũng nhầm khi ghi chú chức tư là Tonsuré. Nhờ quý linh mục tư vấn, chúng tôi được biết: Trước kia, đại chủng sinh đạt Tonsuré (tính từ của danh từ Tonsure) nghĩa là mới chịu phép cắt tóc, tức nghi thức gia nhập hàng giáo sĩ; còn chức tư là acolyte - chịu phép giúp lễ.

Xét trục lịch đại, nếu theo đoạn trích trên, thì riêng gia đình Hàn Mạc Tử mang họ Nguyễn chính là sự "về nguồn" đúng đắn?

Gia đình ông Phạm Thân, chú ruột của Hàn Mạc Tử, lại truyền khẩu một thông tin khác:

- Bác Toán (họ hòng vẫn gọi Toán chứ không gọi Toản) hồi nhỏ học giỏi nhất xứ Ồ Ồ. Hoàn cảnh túng bấn, bác phải vô Huế, nhận làm con nuôi nhà quan ngự y để được ăn học. Nhà quan lấy giấy tờ đổi họ cho bác, để bác dễ thăng tiến. Lại còn gả con gái cưng cho nữa!

Ông Tín cho chúng tôi biết rằng cụ thân sinh vốn tên Toán. Sau do có bạn đồng sự trùng tên nên tự ý đổi thành Toản cho dễ phân biệt.

Cũng theo ông Tín, ông Nguyễn Văn Toản (Toán) kết hôn với bà Nguyễn Thị Duy và sinh hạ được 6 anh chị em, gồm:

1- Nguyễn Bá Nhân, còn gọi là Nhơn, tức Mộng Châu (độc thân, mất năm 1936)
2 - Nguyễn Thị Như Nghĩa, còn gọi là Ngãi (mất năm 1984)
3 - Nguyễn Thị Như Lễ (mất năm 1982, chính là nhân vật từng đi vào tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn)
4 - Nguyễn Trọng Trí tức Hàn Mạc Tử.
5 - Nguyễn Đức Tín, sau đổi ra Nguyễn Quý Tín, rồi đổi thành Nguyễn Bá Tín để thay quyền tộc trưởng của Nguyễn Bá Nhân (?).
6 - Nguyễn Gia Hiếu, tức Nguyễn Bá Hiếu, em út cả nhà (mất năm 1991 tại Tp. Hồ Chí Minh).

Người ngoài thì có thể lẫn lộn hoặc thiếu sót. Như trường hợp Thái Văn Kiểm viết Đất Việt trời Nam (NXB Nguồn Sống, Sài Gòn 1960, tr.165) bảo rằng em út của Hàn Mạc Tử là... Nguyễn Bá Tín! Chứ người trong gia đình, lại là ruột thịt, lập danh mục ắt hẳn khó nghi ngờ về độ dung sai. Oái oăm thay! thực tế trái ngược với những điều chúng ta suy luận!

Nếu có dịp ghé chơi thành phố biển Nha Trang (Khánh Hoà), chắc bạn sẽ dạo thăm một kiến trúc uy nghi và đặc sắc toạ lạc bên đường Thái Nguyên: nhà thờ chánh toà, tên thường gọi là nhà thờ Núi. Nơi đây lưu giữ rất nhiều bình tro xương của kito hữu quá cố do thân nhân ký gởi; được bày biện khá ngăn nắp. Trong số di cốt kia, bạn không mấy khó khăn khi tìm thấy tên tuổi Mộng Châu Nguyễn Bá Nhân - anh cả của thi sĩ Hàn Mạc Tử. Bạn còn nhìn thấy cạnh đó hai di cốt khác táng chung: Nguyễn Văn Thảo (sinh năm 1922) và Nguyễn Văn Hiền (sinh năm 1923). Nào phải ai xa lạ, Thảo là em áp út, còn Hiền là em út của Hàn!

Ngày lễ các thánh năm nay, 1 - 11 - 2000, tôi đem chuyện này hỏi ông Nguyễn Bá Tín. Ông gật đầu thừa nhận:

- Anh hoàn toàn đúng. Hai đứa em tôi mất hồi 1923 - 1924, khi còn nhỏ xíu. Bởi vậy lúc viết sách, tôi đã để sót!

Chúng tôi sẽ còn mời bạn đọc quay lại nhà thờ Núi ở Nha Trang trong một kỳ sau.

Kỳ trước, nói về các bút danh của Hàn Mạc Tử, chúng tôi chưa nhắc một cái tên "độc chiêu" mà những ai mê thơ Hàn Mạc Tử có thể sẽ nghĩ rằng người thơ phong vận như thơ ấy đời nào dám ký. Bút danh gì "dữ dằn" thế nhỉ? Trật Sên. Tiếng Bắc có từ tương đương là Tuột Xích.

Vâng, chính Hàn ký bút danh Trật Sên dưới một tác phẩm "trào phúng... điếu" một nghị viên Viện Dân biểu Trung kỳ, đăng trong giai phẩm Nắng Xuân ra đầu năm Đinh Sửu 1937. Lúc ấy, Hàn Mạc Tử đang là "nhà báo trẻ Sài thành "vừa trở lại Quy Nhơn. Cùng tham gia giai phẩm, có nhiều gương mặt sau này trở nên quen thuộc với đông đảo bạn đọc: Chế Lan Viên, Hoàng Diệp, Xuân Khai (tức Yến Lan), Phú Sơn (tức Nguyễn Viết Lãm), Trọng Minh (tức Nguyễn Minh Vỹ, họ tên thật là Tôn Thất Vỹ)...

Bút danh đó dính dáng gì tới quan hệ bà con họ tộc của Hàn Mạc Tử, sao đợi kỳ này mới nêu? Có đấy. Nhân vật trọng tâm mà Trật Sên giễu cợt trong bài báo Quan nghị... gật thuở nào chính là nghị viên Nguyễn Văn Tôn. Khi vung bút, Hàn Mặc Tử hoàn toàn không ngờ rằng Nguyễn Tú - con trai nhân vật - trong tương lai sẽ là cháu rể hiếu thảo nhà mình!

Ông Nguyễn Bá Tín lấy làm cảm kích khi kể:
- Chính Nguyễn Tú là người tình nguyện đi bốc mộ anh Trí ở Quy Hoà để cải táng vào đầu năm 1959. Nên nhớ thời đó, mọi người, kể cả cậu em Bá Hiếu đều rất sợ bệnh phong!

Ông Nguyễn Tú trú tại khu Bùi Phát (Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh), trong một lần nhắc lại kỷ niệm xa xăm ấy đã triết lý:

- Đời người, đố ai học được chữ ngờ? Thì cứ lấy chuyện bác Hàn Mạc Tử mà suy, hậu thế vẫn cứ liện tục giật mình vì chưa thể nào nắm bắt được quy luật tồn tại của bao điều...bí mật!

Kỳ 3: THỜI HỌC SINH GẬP GHỀNH THƠ MỘNG

Thời học sinh của Hàn Mạc Tử (HMT) trải qua 3 địa phương:Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Huế. "Lần đầu tiên Nguyễn Trọng Trí (NTT) cắp sách đến trường là tại Quảng Ngãi". Trần Thanh Mại, tác giả cuốn Hàn Mạc Tử, đã ghi nhận như vậy. Ông Bá Tín, qua hồi kí HMT anh tôi, còn kể chi tiết hơn:

"Chúng tôi rời Đồng Hới năm 1921, theo cha vào Quy Nhơn, trở ra Bồng Sơn, lại trở về Quy Nhơn năm 1924 thì đổi ra Sa Kỳ, một sở thương chánh lớn, cách thị xã Quảng Ngãi 12 km [thực địa thì hơn 20 km - chú thích trong móc vuông là của Phanxipăng]. Trong thời gian gia đình hay đổi dời dọc theo các cửa biển, việc học hành của chúng tôi đã bị gián đoạn. Về Quảng Ngãi mới vào học trường công lập anh Trí học lớp ba, tôi học lớp tư [tương đương lớp 2 bây giờ]. Khi còn ở Quy Nhơn, anh rất thích bắn ná cao su và bắn rất hay.(...). Trong những năm học ở Quảng Ngãi, anh không thèm bắn ná cao su nữa, mà lại rất thích bắn súng. Hai anh em ở trọ nhà dượng tôi, trong nhà cũng có một khẩu Flaubert, thứ súng bắn chim như của cha tôi. Anh trông thấy thèm lắm, nhưng không dám hỏi. Vì vậy, cứ thứ năm, chủ nhật, là kéo tôi cùng về Sa Kỳ, để cha tôi phát cho mỗi đứa 3 viên đạn, mà phải đi bộ 12km, phải qua một chuyến đò, băng qua một động cát dưới trời nắng chang chang. (...). Về sau, bài văn xuôi Chơi giữa mùa trăng, anh viết về chợ Chua Me [dân quanh vùng vẫn gọi Châu Me], là động cát này. Địa phương gọi là động, một vùng rộng lớn, cát trắng phau, thứ cát ánh ngời như mảnh pha lê vụn, trải dài 4 - 5km bên bờ đại dương (...). Sau khi cha tôi mất đi, tháng 7 - 1926, gia đình tôi dọn về Quy Nhơn ở với anh Mộng Châu. Hai chúng tôi cùng vào học trường trung Quy Nhơn [Collège de Quinhon, thành lập 1921, thực tế gồm cả tiểu và trung học, tên tiếng Việt bấy giờ là Cao đẳng tiểu học Quy Nhơn, sau thành Quốc học - Quy Nhơn, nay là trường THCS Lê Hồng Phong]. Đến lớp nhất [tương đương lớp 5 bây giờ], anh Trí ra Huế học Pellerin" (trích cảo bản đánh máy, tr. 6 - 8).

Như thế, hai niên khoá 1924 - 1925 và 1925 - 1926, thi sĩ tương lai đang học lớp 3 và lớp 4 trường tiểu học công lập tại thị xã Quảng Ngãi. Còn trước đó, hai anh em Trí với Tín học ở đâu mà gián đoạn? Mới đây, ngày 27 - 10 - 2000, trên mạng điện tử VietCatholic News, linh mục Trần quý Thiện cho rằng: "Bé NTT được khai tâm lớp vỡ lòng tại trường làng với các nữ tu Mến Thánh Giá giáo xứ Tam Toà. Năm lên 9 tuổi (1921), cậu cùng gia đình theo cha di chuyển đến Bồng Sơn...". Điều này chưa đủ bằng chứng. Vả, rất hiếm trẻ con thời ấy trước 9 tuổi đến lớp vỡ lòng.

Sáng thứ bảy 11 - 11 - 2000, đúng ngày tưởng niệm 60 năm HMT, chúng tôi trực tiếp nêu câu hỏi trên với ông Nguyễn Bá Tín tại tư thất. Ông cười:

- Chỉ học vỡ lòng ở cha. Cha tôi dạy. Từ năm 1921 đến 1924, hai anh em tôi theo học lớp dạy tư của thầy Chariles. Một tu sĩ hoàn tục, ở nhà riêng nằm góc đường Gia Long - Khải [nay là đường Phan Bội Châu - Lê Lợi] tại Quy Nhơn. Anh Trí với tôi chính thức học trường công là tại Quảng Ngãi. Bây giờ, học trò 12 tuổi đã lên lớp 7. Còn hồi đó, anh Trí 12 tuổi học lớp 3 chưa phải lớn lắm đâu. Trong lớp có khối anh "già" hơn. Tôi còn nhớ thầy dậy anh Trí lớp 3 ở Quảng Ngãi: thầy trợ Giác. Thầy dữ lắm, từng dùng thước kẻ đánh anh Trí sưng vù mấy ngón tay vì tội nghịch ngợm. Nhiều người không biết thời HS, anh Trí hoang nghịch thuộc loại...thượng thặng!".

Chính thời thơ ấu ở núi Ấn sông Trà, nhờ hàng tuần về hải khẩu Sa Kỳ - nơi cha làm việc - để tắm biển, săn bắn và...đùa nghịch, HMT đã tích luỹ được bao hình ảnh cùng ấn tượng trữ tình để về sau sáng tạo nên Chơi giữa mùa trăng. Bạn hãy cùng chúng tôi đọc lại đôi đoạn trích từ tác phẩm ấy:

...Chị tôi liền chỉ tay về phía bến đò thôn Chùa Mo và bảo tôi rằng: "Thôi rồi! Trí ơi! Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao thoát được, biết làm thế nào, hở Trí?". Tôi cười: "Hay là chị em ta cho thuyền đỗ vào bến này, rồi ta trèo lên động cát với tay gỡ hộ cho trăng thoát nạn?". Hai chị em liền giấu thuyền trong một bụi hoa lau bông vàng phơi phới, rồi cùng lạc vào một đường lối rất lạ, chân giẫm lên cát mà cứ ngỡ là bước trên phiến lụa.

...Tôi nắm tay chị tôi giật lia lịa và hỏi một câu tức cười,àm sao: "Có phải chị không hả chị?". tôi run run khi tôi có cái ý nghĩ: chị tôi là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh. Nhưng tôi lại phì cười và vội reo lên: "A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa!". Ngó lại chị tôi và tôi, thì quả nhiên là trăng thiệt. Chị tôi hí hửng như xuân, chạy nhảy xênh xang, cơ hồ được dịp phát triển hết cả ngây thơ của người con gái mười lăm tuổi...

Nhân vật nữ được nêu đích danh ở đây là Madelène Nguyễn Thị Như lễ, sinh năm 1909, chị kế của HMT - NTT. Còn thôn Chùa Mo nằm đâu? Các sách thường in cước chú: "Một làng ở cửa biển Quảng Ngãi". Đúng ra, phải là thôn Châu Me. Bến đò thôn ngay trước chợ thôn - điểm này hiện được xây dựng thành trường Tiểu học Bình Châu thuộc huyện Bình sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Chúng tôi đồ rằng trong bản thảo, Hàn viết Châu Me. Song do lỗi in ấn hoặc tam sao thất bản thế nào, Châu Me bị cải thành Chùa Mo rất đỗi buồn cười. Trong tác phẩm đang xét, nhân danh đều thật, hà cớ gì địa danh lại hư?

Không phải vô lý khi có người tin rằng con trăng Sa Kỳ huyền hoặc và quyến rũ đã khơi nguồn cảm hứng bất tận cho Hàn dệt nhiều tứ thơ đặc sắc về vầng nguyệt.

Trong tập Thơ điên, tên khác là đau thương, ở phần Hương thơm có bài Huyền ảo mà đây là khổ cuối:

Không gian đầy đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng
Mỗi ánh mỗi hình thêm phiếu diễu
Nàng xa tôi quá nói nghe chăng?

Liên hệ áng văn Chơi giữa mùa trăng, Trần Thị Huyền Trang đã có suy tưởng lý thú khi viết trong cuốn HMT - hương thơm và mật đắng (NXB Hội nhà văn, HN 1997, tr.59 - 60): "Nàng có thể là một người yêu của HMT, cũng có thể chỉ là một ảo ảnh tô điểm cho thơ. Nàng nhất định không phải là chị Lễ. Song ta thử thay chữ nàng bằng chữ chị và đọc lại thì không khỏi giật mình. Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng. Tôi cũng trăng mà chị cũng trăng..."

Vầng trăng phiếu diễu dị thường có ảnh hưởng gì đến việc đèn sách của học sinh (HS) NTT? Chưa rõ. Chỉ biết rằng mấy năm Hàn theo bậc tiểu học chẳng được suôn sẻ lắm! Ở đây, tưởng nên điểm qua cơ cấu lớp trường hồi ấy để bạn đọc tiện theo dõi.

Từ đạo dụ ngày 31 - 5 - 1906, chính phủ bảo hộ Pháp và triều đình Huế ấn định chế độ giáo dục mới với các bậc khởi điểm như sau: bậc sơ học, hoặc ấu học (école élémentaire) gồm lớp đồng ấu tức lớp năm (cour enfantin - tương đương lớp 1 bây giờ), rồi lớp dự bị tức lớp tư (cour préparatoir - lớp 2), tiếp theo là lớp sơ đẳng tức lớp ba (cour élémentaire). Cuối lớp ba, HS thi lấy bằng sơ học yếu lược (primaire élémentaire). Nếu đỗ, sẽ được học lên bậc tiểu học gồm 3 lớp: lớp nhì năm thứ nhất (cour moyen 1ère année) và lớp nhất (cour supérieur). Hết lớp nhất, HS thi lấy bằng yếu lược, còn gọi là Pháp Việt sơ học văn bằng (certificat d'études primaire franco-idigène). Hệ thống ấy được áp dụng trên toàn cõi Đông Dương đến năm 1945.

Vậy NTT thi sơ học yếu lược ở Quảng Ngãi như thế nào? Ông Tín không nhớ. Sau khi thân phụ Nguyễn Văn Toản (Toán) mất vào tháng 7 - 1926, gia đình chuyển về Bình Định, anh em ông cùng vào Collège de Quinhon thì trò Trí học lớp mấy trong hai niên khoá 1926 - 1927 và 1927 - 1928? Giả thiết là học tại lớp nhì năm thứ nhất, kế đó học lên lớp nhì năm thứ hai. Nếu thuở trọ học ở Quảng Ngãi, cậu học trò NTT bắt đầu luyện niêm luật thơ Đường thì mấy năm về Quy Nhơn, chàng có điều kiện xướng hoạ với người anh cả Mộng Châu Nguyễn Bá Nhân. Một trong những bài thuần thục đầu tay là bài Vội vàng chi lắm ký bút danh Minh Duệ Thị, hoạ vận bài Gởi nhạn của Mộng Châu, về sau đưa vào Lệ Thanh thi tập.

Mùa hè 1928, anh Mộng Châu bàn với mẹ cho em ra Huế học trường Pellerin. Theo danh bộ của trường này thì NTT nhập học này 5 - 9 - 1928 và thôi học năm 1930. Gia đình ông Tín hiện còn giữ văn bằng Pháp Việt sơ học của anh mình. Bằng được cấp tại Huế ngày 26 - 12 - 1930 sau khi NTT đỗ tiểu học yếu lược kỳ thi tháng 6 - 1930.Như thế, ở trường Pellerin, niên khá 1928 - 1929, thi sĩ tương lai lại học lại lớp nhì năm thứ hai, sang niên khoá 1929 - 1930 thì lên lớp nhất.

Là ngôi trường tư thục do các tu sĩ dòng La Salle mở ở Huế từ năm 1904, trường Pellerin về sau được gọi thành trường Pellerin về sau được gọi thành trường Bình Linh và hiện nay là trung tâm Thanh thiếu niên Thừa Thiên - Huế, toạ lạc ở số 1 đường Lê Lợi, Tp. Huế, ngay đầu cầu ga. Ấy là một cơ sở giáo dục nghiêm túc và chất lượng, nổi tiếng một thời không chỉ ở Huế mà cả khu vực miền Trung. Bên cạnh lớp học, sân trường có luôn ký túc xá đầy đủ tiện nghi để phục vụ HS tỉnh xa về. Ông Nguyễn Bá Tín viết hồi ký HMT trong riêng tư (sđd, tr.25) cho rằng: "Những năm còn học Pellerin Huế, anh ở Bến Ngự, trọ nhà cụ nghè Tuần". Còn nhà thơ Hoàng Diệp (1912 - 1996) - tác giả thi tập Xác thu (NXB Nam Ký, HN 1937) và công trình biên khảo HMT (đoạt giải thưởng phê bình văn chương năm 1967 của Trung tâm Văn bút Việt Nam - NXB Khai Trí, Sài Gòn 1968) - thì nhớ khác. 20 năm cuối đời, Hoàng Diệp sóng trầm lặng ở Huế. chúng tôi may mắn đã có dịp tiếp chuyện với ông, nghe ông kể:

- Mình không chỉ là bạn đồng tuế: (cùng tuổi Nhâm Tý 1912) và bạn đồng hương (cùng quê huyện Phong Điền, Thừa Thiên) mà còn là bạn đồng môn (cùng học trường Pallerin) với Hàn. Cùng học một khoá với Hàn còn có linh mục Cao Văn Luận, nguyên viện trưởng Viện ĐH Huế. Theo mình biết, những năm từ Quy Nhơn ra Huế học Pallerin, Hàn chẳng ở trọ nhà ai cả mà ở nội trú ngay trong trường í.

Nhà giáo Võ Văn Côn (tức nhà văn Châu Hải Kỳ - nay đã mất) còn lưu giữ trong tư thất ở Nha Trang một tài liệu hiếm quý: học bạ của NTT do trường Pellerin lập qua hai niên khoá 1928 - 1929 và 1929 - 1930. Học bạ viết bằng chữ Pháp. Sau đây là trang nhận xét năm học cuối gồm 2 học kỳ (HK) của Hàn: Pháp văn: Có vài tiến bộ (HK1). Chững lại (HK2). Toán: Rất thường (HK1). Khá nhưng không đều (HK2). Khoa học: Chăm, tấn tới nhiều (HK1). Nghiêm túc, cần mẫn, đạt kết quả mỹ mãn (HK2), Sử địa: trí nhớ tốt, kết quả mx mãn (HK1). Khá (HK2). Vẽ và viết: Chữ viết khá, vẽ yếu (HK1). Khá cả hai môn (HK2). Việt văn: Dịch giỏi (HK1). Nhất về tập làm văn (HK2). Hiệu trưởng nhận xét: Nói chung là khá (HK1). Kết quả khá mỹ mãn (HK2).

Cũng cần lưu ý bối cảnh lịch sử của miền sông Hương núi Ngự giai đoạn Hàn đang cắp sách. Lúc ấy, nhà ái quốc Phan Bội châu (1867 - 1940) vừa được Pháp đưa về "an trí" ở dốc Bến Ngự - cách trường Pellerin một quãng ngắn. Năm 1926, Hàn chân ướt chân ráo vào học Pellerin, cũng là năm "Ông già Bến Ngự" hùng hồn diễn thuyết tại các trường Đồng Khánh và Khải Định (tức Quốc Học - Huế), khích lệ nam nữ thanh niên HS phát huy tinh thần yêu nước. Đầu xuân Kỷ Mão 1927, giới trẻ ở Huế chuyền tay nhau Bài ca chúc tết thanh niên hừng hực hào khí của cụ Phan: Đúc gan sắt để dời non lấp bể/ Xối máu nóng rửa vết dơ nô lệ...Những áng văn thơ ngời sáng lý tưởng anh hùng ấy ắt chàng thanh niên NTT được nghe, được đọc và chịu ảnh hưởng ít nhiều.

Giai đoạn đó, Huế là một trong ba trung tâm báo chí đáng kể của cả nước. Gây được cảm tình nồng hậu với độc giả chính là Tiếng dân - nhật báo duy nhất tại miền Trung xuất hiện trước 1930 và lại là tờ báo đối lập chính quyền, ra số đầu tiên ngày 10 - 8 - 1927, do chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng (1876 - 1947) vừa ở tù Côn đảo về sáng lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút; toà soạn đặt ở đường Đông Ba (nay là đường Huỳnh Thúc Kháng, Huế). Chí sĩ họ Huỳnh chính là bạn vong niên của chí sĩ họ Phan. Theo hồi ức của nhà tơ Hoàng Diệp thì như nhiều HS thời đó, Hàn là một bạn đọc nhiệt thành của báo Tiếng Dân. Ở giữa xứ Thần Kinh nổi tiếng thơ mộng, hữu tình, nguồn thơ của Hàn chắc chắn càng được kích thích. Ông Nguyễn Bá Tín xác nhận: Lệ Thanh thi tập gồm nhiều thơ Đường [Thơ luật Đường], phần lớn thể thất ngôn bát cú mà [Hàn] đã viết ra trong thời kỳ còn học trường Pellerin ở Huế" (HMT trong riêng tư - sđd, tr.128).

Vài tài liệu cho rằng thời HS ở Huế, Hàn thường lui tới kính viếng "Ông già Bến Ngự" và cùng xướng hoạ thi văn. Chuyện này đáng xét lại. Vì khi Phan Bội Châu lập "Mộng Du thi xã" để trao đổi tâm tình với đồng bào, đồng chí, thì Hàn mạo muội gửi tới 3 bài thơ Thức khuya, Chùa hoang và Gáo ở chùa với bút danh Phong Trần. Lúc đó, Hàn đã trở về nhà ở Quy Nhơn. Cụ Phan rất tán thưởng, nhất là với bài đầu, bèn hoạ vận và cho đăng Thực Nghiệp Dân Báo số ra ngày 11 - 10 - 1931 với lời bình: "Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều. Song chưa bài nào hay đến thế. Ôi! Hồng Nam, nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng, ấy là thoả hồn thơ đó.

Đọc lời khen ngợi chân tình của một bậc thanh danh lừng lững, Hàn rất sung sướng. Chàng tìm ra Huế thăm Phan Tiên sinh vào cuối năm 1931. Ấy mới là lần đầu tiên Hàn chính thức diện kiến cụ Sào Nam. Chuyến tao ngộ đã tạo ra bước ngoặt trong đời nhà thơ trẻ.

Số là bấy giờ, Hàn vừa lập thủ tục sang Pháp học tập do Hội Nhu Tây du học bảo trợ. Hội được sáng lập bởi thượng thư Nguyễn Hữu Bài - chỗ quen biết với bên ngoại của Hàn. Mật thám Pháp đánh hơi mối quan hệ "rất có vấn đề" giữa chàng với cụ Phan. Sogny - chánh Sở Mật thám Huế - gửi hồ sơ "tình nghi tên NTT tức Phong Trần" vào cho Véran - chánh Sở Mật thám, Quy Nhơn. Kết quả là Hàn bị rút giấy phép xuất cảnh. Con đường học hành trở thành...tuyệt lộ! Thế nhưng, con đường sáng tạo văn chương bắt đầu hé mở. Nhờ những dòng giới thiệu của Phan Bội Châu, làng thơ xôn xao về sự xuất hiện của một tài năng mang hiệu Phong Trần hoặc P.T ký kèm với địa danh Quy Nhơn...

Kỳ 4: THẦY KÝ QUÈN

"Mất cơ hội đi Pháp, mộng viễn du không thành, (...) anh trở về Quy Nhơn sống với gia đình, rồi tiếp tục làm thơ viết báo. Bạn bè ngày càng kết giao nhiều, xa cũng như gần, nhờ tiếng tăm anh được Mộng Du thi xã nhắc đến trang trọng...". Đó là hồi ức của ông Nguyễn Bá Tín về anh ruột mình - nhà thơ Hàn Mặc Tử - in trong Hàn Mặc Tử trong riêng tư (tr.30). Thời điểm này năm 1932, kinh tế Đông Dương gặp cơn khủng hoảng, cả nhà Hàn chỉ một mình trưởng nam Nguyễn Bá Nhân "chèo chống" nên không tránh khỏi khó khăn. Hàn tính chuyện đi làm để giảm bớt gánh nặng cho gia đình. Lúc ấy, ở Quy Nhơn, người gốc Huế định cư khá đông, trong số đó có thầu khoán Đỗ Phong. Ông Phong giới thiệu Hàn một chân tập sự tại Phòng Địa chính Quy Nhơn trực thuộc Sở Địa chính tỉnh Bình Định - dân gian bấy giờ vẫn quen gọi là Sở Đạc điền. Hàn được phân công làm thư ký công nhật ở bộ phận bảo tồn điền trạch. Theo ông Tín, đấy là "cái việc dễ nhất, nhàn nhất và...ít tiền nhất là ngồi biên chép các tờ trích lục đã cũ, lãnh lương về chỉ đủ anh trả tiền mua báo, mua giấy và tem thư" (sđđ, tr. 31). Văn phòng làm việc mà gian nhà mà ngày nay đã trở thành tịnh xá Ngọc Nhuận, số 54 đường Ngô Quyền, Quy Nhơn.

Thù lao nhận theo chế độ "khoán sản phẩm", song công việc lúc có lúc không nên đương nhiên thừa thì giờ mà thiếu... tiền bạc. Dẫu sao, cũng là viên chức nhà nước, Hàn vẫn được gọi thầy kí đạc điền!

Thừa thời gian thì chàng đọc sách, làm thơ và giao du với bạn hữu. Đọc sách, sẵn thư viện trong Hội quán (Cercle d'Etudes de Quinhon - nay là Xí nghiệp in Bình Định ở số 54 đường Tăng Bạt Hổ, Quy Nhơn) toạ lạc gần nhà chàng. Cơ sở này được linh mục Paul André Maheu (tên Việt là cố Mỹ) sáng lập năm 1922, cùng thời với nhà in và tờ Lời thăm các thày giảng (gọi tắt là Lời thăm) - bán nguyệt san mà Hàn đang cộng tác. Linh mục Maheu, thừa sai của giáo phận Quy Nhơn, cũng chính là người đứng ra quyên góp để xây dựng trại pho
Bài liên quan

Đỗ Huy Liêu 杜輝寮

Đỗ Huy Liêu 杜輝寮 (1845-1891) tự Ông Tích, hiệu Đông La, là quan nhà Nguyễn và là danh sĩ yêu nước ở Nam Định vào cuối thế kỷ XIX trong lịch sử Việt Nam. Ông nội ông là Cử nhân Đỗ Huy Cảnh làm Tuần phủ Biên Hoà, cha ông là Phó bảng Đỗ Huy Uyển làm Biện lý bộ Hộ (tục gọi Biện Lý La Ngạn), cả hai đều là ...

Hà Nguyên Dũng Nguyễn Dũng

Nhà thơ Hà Nguyên Dũng tên thật là Nguyễn Dũng sinh năm 1946, tại Hà Mật, (Gò Nổi) Điện Bàn, Quảng Nam. Hiện sống tại Tân Bình, Sài Gòn. Ông đã từng có thơ đăng ở trên một ít báo, tạp chí ở Sài Gòn trước 1975, và từ 1975 trên một ít báo, tạp chí ở hải ngoại và những báo, tạp chí trong nước. Tác ...

Đỗ Khắc Chung 杜克鍾

Đỗ Khắc Chung 杜克鍾 (?-1330) người huyện Giáp Sơn, phủ Tân Hưng, tự đặt tên là Cúc Ẩn. Năm 1285 quân Nguyên ồ ạt tiến đánh nước ta, vua Trần Nhân Tông cần một người mưu trí và dũng cảm sang trại giặc lấy cớ mang thư giảng hoà nhưng thực chất để dò xét tình hình. Khắc Chung không sợ nguy hiểm, tình ...

Hoàng Cầm Bùi Tằng Việt

Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22/2/1922 tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, quê gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học đều ở Bắc Giang và Bắc Ninh, đến năm 1938 thì ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú ...

Lê Duy Cự 黎維巨

Lê Duy Cự 黎維巨, còn gọi là Lê Duy Đồng, hay Cả Đồng, là cháu bốn đời của vua Lê Hiển Tông, năm 1854 được Cao Bá Quát suy tôn làm minh chủ cuộc khởi nghĩa chống triều đình nhà Nguyễn. Cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1856, ông bị bắt và tử hình.

Linh Phương

Nhà thơ Linh Phương sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn, cha người Phong Điền, Thừa Thiên - Huế, mẹ người Cần Thơ. Ông làm thư ký toà soạn tuần san Tinh hoa nữ sinh năm 1967 Tác phẩm: - Thơ tình linh phương (thơ, NXB Ngựa hồng, Sài Gòn, 1967) - Kỷ vật cho em (thơ, NXB Động đất, Sài Gòn, 1971) - Lời tự ...

Lò Ngân Sủn

Nhà thơ Lò Ngân Sủn sinh ngày 26-4-1945 tại Bản Vền, Bản Qua, Bát Xát, Lao Cai, người dân tộc Cháy. Ông là giáo viên, nguyên chủ tịch Hội Văn nghệ Lào Cai, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1991, sau khi được bầu làm Uỷ viên ban chấp hành Hội Nhà văn khoá V, về cư ngụ tại Hà Nội. Ông Mất ngày ...

Huỳnh Thúc Kháng 黃叔沆

Huỳnh Thúc Kháng 黃叔沆 (1875-1947) tự Giới Sanh, hiệu Mính Viên 茗園, quê làng Thạnh Bình, huyện Tiên Phước, Quảng Nam - Đà Nẵng, đậu tiến sĩ, không làm quan, là một trong những người cầm đầu phong trào Duy tân tự cường đầu thế kỷ ở Trung Kỳ. Năm 1908, bị thức dân Pháp bắt, kết án "trảm giam hậu" (chém ...

Lê Đại

Lê Đại (1875-1952), bút hiệu Siêu Tùng, Từ Long, là sĩ phu yêu nước trong Phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, quê làng Thịnh Hào, nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Năm 1907, cùng Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và một số sĩ phu yêu nước khác ...

Hoài Vũ (I) Nguyễn Đình Vọng

Hoài Vũ tên thật là Nguyễn Đình Vọng, sinh ngày 25-8-1935 tại Quảng Ngãi, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông tham gia hoạt động văn học ở miền Nam trong những năm kháng chiến với các chức vụ: uỷ viên Tiểu ban Văn nghệ khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, uỷ viên thường trực Hội Văn nghệ giải phóng ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...