Giáo dục gia đình và quan hệ của nó với những môi trường giáo dục khác trong quá trình xã hội hoá cá nhân
1. GIÁO DỤC GIA ĐÌNH TRONG QUÁ TRÌNH XÃ HỘI HOÁ CÁ NHÂN 1.1. Giáo dục gia đình Giáo dục ( Tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập, mà theo đó, những kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông ...
1. GIÁO DỤC GIA ĐÌNH TRONG QUÁ TRÌNH XÃ HỘI HOÁ CÁ NHÂN
1.1. Giáo dục gia đình
Giáo dục (Tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập, mà theo đó, những kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học (1). Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể đến cách thức người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động, đều có thể được xem là có tính giáo dục.
Giáo dục còn có thể được coi là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm tác động tới đối tượng được giáo dục theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ giáo dục thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà trường, xã hội, bao gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác đến con người.
- Theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình tác động đến thế hệ trẻ một cách toàn diện về mọi mặt (tư tưởng, đạo đức, hành vi,...).
Giáo dục gia đình là sự giáo dục được thực hiện trong phạm vi gia đình, do các thế hệ trước thực hiện, nhằm tác động tới thế hệ sau với mục đích hình thành và củng cố trong thế hệ sau những phẩm chất, năng lực phù hợp với quan điểm của thế hệ trước cũng như phù hợp với hệ chuẩn mực của xã hội. Đây là một hoạt động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có sự chuẩn bị...) của những người giáo dục (thế hệ trước), tác động một cách thường xuyên, liên tục tới đối tượng được giáo dục (hế hệ sau), nhằm đạt tới mục đích mà người giáo dục đã định.
Dù ở xã hội nào, trong thời đại nào, những người làm cha mẹ bao giờ cũng mong muốn có những người con khoẻ mạnh, thông minh, có đạo đức, có những phẩm chất tốt đẹp (theo quan niệm của họ và phù hợp với hệ giá trị của xã hội); thành thạo những kỹ năng sống và có một tâm hồn trong sáng, lối sống lành mạnh; là những người có ích đối với gia đình và xã hội. Vì thế, mục đích giáo dục trong gia đình, về cơ bản, thường bao gồm toàn diện các khía cạnh: trí, đức, thể, mỹ.
Như vậy, có thể hiểu:
Giáo dục gia đình là những hoạt động tự giác (có hệ thống, có mục đích, có kế hoạch, có sự chuẩn bị...) của thế hệ trước, tác động đến thế hệ sau, nhằm hình thành ở thế hệ sau những phẩm chất, những giá trị và kỹ năng… theo mong muốn của thế hệ trước và theo yêu cầu của xã hội.
1.2. Tầm quan trọng của giáo dục gia đình trong quá trình xã hội hoá cá nhân
Con người khi sinh ra mới chỉ là một thực thể sinh học thuộc loài người- một nhánh phát triển trong cây tiến hoá của Darwin, mà chưa hề có nhận thức và các kỹ năng sống; lại càng chưa có quan điểm riêng, sở thích riêng, cá tính riêng... Nghĩa là, con người mới sinh ra đó mới chỉ hoàn toàn là một con người về mặt sinh học. Nếu con người sinh học đó bị tách khỏi xã hội loài người, sống trong thế giới loài vật, thì sẽ trở thành một thành viên của bầy động vật đó. Thực tế đã có những trường hợp người- sói, khi những em bé vì lý do gì đó đã được nuôi dưỡng bởi bày sói. Hoặc nếu một em bé của cộng đồng xã hội này nhưng lại được nuôi dưỡng bởi một cộng đồng người khác, thì sẽ trở thành một thành viên của cộng đồng nuôi dưỡng mình. Minh chứng rõ nhất về điều này là trường hợp những em bé được sinh ra ở nước ngoài, sinh sống ở nước ngoài, đã hoà nhập với xã hội đó, thậm chí không còn biết về xã hội xuất thân của mình (nếu bố mẹ không có ý thức giáo dục cho em về điều đó).
Con người sinh học sẽ trở thành con người xã hội (thành viên của xã hội mà anh ta sinh sống) thông qua một quá trình học tập, tiếp thu văn hoá cộng đồng để hoà nhập vào xã hội đó. Đó là quá trình xã hội hoá cá nhân. Có thể hiểu: Xã hội hóa cá nhân là quá trình hình thành nhân cách cá nhân, quá trình con người học tập và lĩnh hội các quy tắc, giá trị, khuôn mẫu ứng xử của xã hội để từ một con người sinh học trở thành một con người xã hội. Đây là quá trình mà con người tiếp nhận văn hoá của cộng đồng để trở thành một thành viên của cộng đồng ấy.
Trong quá trình xã hội hoá cá nhân, sự giáo dục của gia đình đóng vai trò cơ bản và quyết định.
Gia đình là môi trường xã hội hoá quan trọng bậc nhất của cá nhân- đặc biệt là khi còn nhỏ, bởi đây là nhóm xã hội đầu tiên và gắn bó suốt đời của mỗi người, là môi trường chính yếu hình thành nên nhân cách của cá nhân. Tại gia đình, trẻ được nuôi dưỡng, chăm sóc và được dạy bảo những điều đầu tiên, sơ đẳng để sống làm người. Ở tuổi ấu thơ, gia đình là cả thế giới, bố mẹ là những thần tượng của trẻ.
Chính vì gia đình là cả thế giới, cha mẹ là những thần tượng, nên trẻ em nhanh chóng lĩnh hội những điều được dạy dỗ trong gia đình. Bằng sự giáo dục, gia đình tạo nên “sản phẩm” của mình, đưa nó hoà nhập vào với xã hội. Tất nhiên sẽ có những em bé thiếu sự quan tâm giáo dục của người cha hoặc người mẹ nhưng vẫn có thể hình thành được nhân cách tốt, hoặc có những em bé tuy được giáo dục chu đáo mà vẫn xuất hiện những tính xấu. Nhưng quy luật chung là giáo dục gia đình như thế nào sẽ có được những con người như thế ấy.
Hơn thế, con người bình thường không thể sống ngoài gia đình (trừ một số trường hợp đặc biệt). Họ được sinh ra trong một gia đình, sống với gia đình suốt thời thơ ấu. Lớn lên họ lập gia đình, có một gia đình nhỏ của riêng mình... Mối quan hệ trong gia đình là quan hệ tình cảm, dựa trên sự yêu thương, chia sẻ, chăm sóc lẫn nhau. Không có ở đâu khác, con người được nhận nhiều tình cảm và nhiều sự chăm sóc như ở gia đình. Đây là môi trường lý tưởng cho sự hình thành và hoàn thiện nhân cách.
Giáo dục gia đình có vai trò quyết định đối với việc hình thành nhân cách cá nhân còn bởi lẽ, ngoài những yếu tố sinh học và di tuyền, thì tri thức, kỹ năng chuyên môn, niềm tin, hệ giá trị- chuẩn mực... chỉ có thể hình thành thông qua giáo dục. Đây là những tài sản mà các thế hệ trước đã thu lượm, đúc kết, sáng tạo và truyền lại cho các thế hệ sau, được các thế hệ sau lĩnh hội, biến đổi và chuyển hoá thành kinh nghiệm của bản thân và tạo nên nhân cách của mình. Cũng chính giáo dục vạch ra kế hoạch và phương pháp bù đắp những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh- di truyền hoặc hoàn cảnh gây nên, nhằm xây dựng những nhân cách hoàn thiện nhất có thể. Giáo dục còn có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách và uốn nắn những sai lệch theo đúng hướng mong muốn của xã hội. Hơn thế, giáo dục có thể đi trước, đón đầu sự phát triển để “hoạch định nhân cách trong tương lai” phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Mỗi cá nhân là một sản phẩm của sự giáo dục trong gia đình. Những điều trẻ em lĩnh hội được ở gia đình trong những năm đầu đời sẽ hình thành những nét nền tảng của nhân cách. Ngay cả những điều mà cha mẹ không chủ ý truyền dạy cho con, nhưng trẻ quan sát được hàng ngày thì cũng sẽ rất tự nhiên ngấm vào trẻ và được chúng lặp lại, học theo. Dấu ấn gia đình, vì thế, rất đậm nét và khó xoá bỏ trong nhân cách mỗi cá nhân, vì những gì được xây dựng ban đầu thường rất bền vững, tuy sau đó có thể được điều chỉnh, nhưng rất khó bị xoá bỏ hoàn toàn.
1.3. Đặc điểm của giáo dục gia đình
Là một quá trình liên tục và lâu dài từ khi con người được sinh ra đến tận tuổi già. Một khi còn sống trong gia đình, thì quá trình này vẫn còn diễn ra và tác động tới mỗi người. Tuy nhiên, mức độ và tính chất tác động của giáo dục trong gia đình đối với cá nhân trong mỗi giai đoạn cuộc sống đều có những khác biệt. Khi càng nhỏ, nhận thức càng non nớt, thì tác động của giáo dục gia đình tới cá nhân càng mạnh mẽ, và sự tiếp nhận càng đầy đủ và thụ động. Dần dần, khi trẻ lớn lên, nhận thức phát triển hơn, thì tác động này giảm dần và sự tiếp nhận cũng có chọn lọc hơn, thông qua “bộ lọc” của cá nhân.
Được thực hiện chủ yếu trên cơ sở tình cảm. Vì thành viên trong gia đình là những người ruột thịt và yêu thương nhau, nên sự giáo dục trong gia đình được thực hiện trên nền tảng của tình yêu thương. Những gì cha mẹ mong muốn và giáo dục con cái đạt tới, đều là những điều tốt đẹp, hàm chứa sự mong chờ một tương lai tốt đẹp cho con. Trong sự giáo dục đó có ấp ủ những dự định, những ước muốn, những kỳ vọng... mà cha mẹ muốn dành cho con, muốn thấy con đạt được. Có những bậc cha mẹ sẵn sàng hy sinh nhiều quyền lợi riêng của mình, dành cho con những điều kiện tốt nhất để con đạt được những cái đích mong muốn.
Được thực hiện bằng phương pháp đặc biệt là giảng giải, thuyết phục và làm gương. Sự giáo dục trong gia đình thường không sử dụng những bài giảng được soạn thảo bài bản với những khái niệm trừu tượng cao siêu, mà thường bình dị, bằng những phương tiện sẵn có, với những cách thể hiện tự nhiên, đơn giản: giải thích, thuyết phục. Và để không bị mâu thuẫn với những gì mình dạy dỗ con cái, bố mẹ thường phải chú ý làm gương, tỏ ra mẫu mực để các con noi theo.
Được thực hiện thông qua cách thức tổ chức đời sống gia đình, bởi lẽ gia đình không thể xây dựng cho mình một cơ sở vật chất riêng, với những thể chế riêng và những cách thức riêng để giáo dục con cái, mà sự giáo dục ấy được thực hiện trên cơ sở những gì sẵn có của gia đình: trong khuôn viên gia đình, với cách thức tổ chức cuộc sống và sinh hoạt của gia đình. Không có những buổi học riêng để thuyết giảng, phân tích, dạy dỗ con cái, mà tất cả được lồng ghép trong các hoạt động sống của gia đình: Khi làm việc nhà, bố mẹ đồng thời hướng dẫn cho trẻ làm công việc nội trợ, dạy chúng về đức tính đảm đang, chu đáo; khi chăm sóc con, bố mẹ đồng thời dạy trẻ về tình cảm gia đình, cách thể hiện sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau giữa các thành viên; Khi hướng dẫn con chơi, bố mẹ rèn luyện cho con những kỹ năng như sự khéo léo, óc phán đoán, khả năng phản xạ..., đồng thời dạy chúng tính nhường nhịn, sự phối hợp và tôn trọng luật chơi...
Vừa toàn diện, vừa cụ thể. Con người là một thực thể thống nhất của cả thể chất và tinh thần. Một con người phát triển phải có thể chất khoẻ mạnh, tinh thần sáng suốt, trí tuệ minh mẫn, tâm hồn phong phú, tư duy lành mạnh... Tất cả những phẩm chất đó đều được hình thành, định hình và vun đắp từ trong gia đình. Chúng là một hệ thống phức hợp những giá trị mà giáo dục gia đình phải hướng tới. Chúng vừa toàn diện, bao gồm đầy đủ mọi khía cạnh của cuộc sống con người, lại vừa chi tiết tỉ mỉ, nhằm tới từng tri thức và kỹ năng cụ thể để hiện thực hoá sự giáo dục đó.
Tuân thủ nguyên tắc: tôn trọng nhân cách, cá tính và phẩm chất riêng của trẻ. Sở dĩ như vậy là bởi sự giáo dục gia đình hướng tới từng con người cụ thể, là những cá nhân riêng biệt, không giống nhau. Mỗi con người là một cá thể riêng, không lặp lại, kể cả anh chị em sinh đôi cũng không bao giờ giống nhau hoàn toàn. Vậy nên, cho dù sự giáo dục của cha mẹ là chung đối với các con, nhưng vẫn phải lựa theo cá tính, sở thích và thể chất của mỗi trẻ để đạt được hiệu quả. Có thể nói, giáo dục gia đình mang tính cá biệt cao, bởi nó tôn trọng nhân cách, cá tính và phẩm chất riêng của trẻ.
1.4. Mô hình giáo dục gia đình
Theo các nhà tâm lý học và giáo dục học hiện đại, trong xã hội chúng ta hiện nay tồn tại 4 mô hình giáo dục gia đình:
* Mô hình độc đoán
Trong mô hình này, cha mẹ là người nắm mọi quyền lực, quyết định mọi điều, kể cả những vấn đề thuộc lĩnh vực riêng tư của con cái. Tiêu chí để cha mẹ ra quyết định là những lợi ích, những điều tốt đẹp (theo quan điểm của họ) mà hầu như không quan tâm tới mong muốn, ý thích và nhu cầu của con cái. Khi trẻ không vâng lời, cha mẹ của những gia đình này sẵn sàng trách mắng, thậm chí phạt nặng, buộc chúng phải tuân theo những điều áp đặt của mình. Không thể kết luận là họ không yêu thương con cái, mà là họ yêu thương theo cách của mình.
Ngày nay, khi xã hội phát triển, nhận thức của các bậc cha mẹ về quyền lợi và nhân cách của con trẻ ngày càng đúng đắn, thì nhóm gia đình theo mô hình giáo dục độc đoán này ngày càng ít đi, tập trung ở những người thiếu hiểu biết về xã hội và giáo dục học.
* Mô hình dân chủ - nghiêm minh
Khác với mô hình trên, cha mẹ của những gia đình dân chủ- nghiêm minh thường tôn trọng con cái, cho phép trẻ nêu ý kiến, còn họ thì lắng nghe, tôn trọng nhu cầu và quyền lợi của trẻ. Khi cần thiết họ có thể trao đổi với con cái để phân tích điều hay lẽ dở, thuyết phục con làm theo ý cha mẹ, chứ không áp đặt và ép buộc. Tuy dân chủ như vậy, nhưng những cha mẹ này vẫn giữ được sự nghiêm khắc cần thiết, thể hiện ở chỗ: họ đặt ra những chuẩn mực rõ ràng; đề ra kỷ luật, giới hạn cho trẻ và cương quyết yêu cầu sự tuân thủ. Bên cạnh đó, họ khuyến khích trẻ độc lập và tạo điều kiện cho chúng phát triển cá nhân.
Nhóm gia đình thuộc mô hình này ngày càng nhiều hơn. Họ là những bậc cha mẹ có hiểu biết về giáo dục, về tâm sinh lý trẻ; biết tôn trọng sự khác biệt trong xã hội và biết cách yêu thương con.
* Mô hình dễ dãi – nuông chiều
Trong mô hình giáo dục này, sự yêu thương con cái được thể hiện không đúng cách, trở thành sự buông lỏng, nuông chiều theo mọi ý thích và mong muốn của trẻ. Cha mẹ của các gia đình này thường dễ dãi đáp ứng những đòi hỏi của trẻ, miễn là làm cho con vui lòng. Họ ít đặt ra chuẩn mực, ít đòi hỏi con hành xử theo quy tắc, mà cho phép chúng hành động theo ý muốn. Ít có sự trách mắng và hình phạt đối với con cái, mà cha mẹ giống như những người phục vụ của con.
Những cha mẹ theo mô hình giáo dục này thường là những người dễ dãi, tính tình có phần tuỳ tiện, ít tôn trọng kỷ luật. Họ yêu con một cách không hợp lý, chiều chuộng vô lối. Với những gia đình có điều kiện kinh tế thì mô hình giáo dục này càng bộc lộ nhiều bất cập.
* Mô hình thờ ơ không quan tâm
Trong mô hình này cha mẹ ít quan tâm đến giáo dục con cái. Có thể vì quan niệm, có thể vì không còn thời gian và sức lực, hoặc cũng có thể vì không tìm được phương pháp giáo dục thích hợp, họ phó mặc con cái cho nhà trường, coi đó là nhiệm vụ của nhà trường. Cùng với sự lơ là về giáo dục, thì thời gian mà những cha mẹ này dành cho con cái không nhiều, tình cảm yêu thương và sự quan tâm đến trẻ cũng hạn chế. Họ gói gọn trách nhiệm của mình đối với con trong việc chi tiền cho những nhu cầu vật chất của trẻ, còn việc chăm sóc hàng ngày thì giao hết cho ông bà, hoặc người giúp việc, thậm chí bỏ mặc trẻ tự lo cho bản thân.
Đây thường là những gia đình có điều kiện kinh tế, nhưng không có thời gian dành cho con cái. Nhưng trong nhóm này cũng có những gia đình quá vất vả với chuyện mưu sinh, không còn đủ sức làm gì khác ngoài việc xoay xở để lo đủ bữa ăn mỗi ngày.
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁO DỤC GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC KHÁC
2.1. Giáo dục gia đình và giáo dục của nhà trường
Cùng là giáo dục, cùng nhằm tới một đối tượng là con trẻ, cùng chung mục tiêu tạo nên những công dân tốt cho xã hội, nhưng giáo dục trong gia đình và giáo dục trong nhà trường có rất nhiều điểm khác biệt.
Trước hết, giáo dục trong gia đình là sự giáo dục tổng quát, cả về thể lực, trí lực, và đạo đức, thẩm mỹ..., rất đa dạng và nhiều chiều, bao quát mọi khía cạnh của nhân cách. Nó khác với giáo dục của nhà trường chủ yếu nhằm tới sự trang bị kiến thức nhiều mặt, từ hiểu biết về thế giới tự nhiên đến những kiến thức lịch sử, xã hội. Gia đình giáo dục nhân cách, nhà trường cung cấp kiến thức. Hai dạng giáo dục này tuy khác biệt nhưng lại bổ khuyết cho nhau một cách tuyệt vời, mang tới cho cá nhân hai mảng đời sống tinh thần chính của thế giới “cái tôi”, mà thiếu bất cứ một mảng nào cũng sẽ dẫn tới sự khiếm khuyết, què quặt và sự phát triển lệch lạc của con người.
Tuy nhiên, thực tế Việt Nam hiện nay cho thấy hai dạng giáo dục này đang tách rời nhau, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau- điều mà đáng ra chúng phải thực hiện và thực hiện thật tốt.
Giáo dục trong gia đình và giáo dục ở nhà trường còn có sự khác biệt về chủ thể giáo dục. Ở nhà trường, chủ thể này là các thày cô giáo, những nhà giáo dục chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản, được chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp. Dù quá trình giảng dạy có khác nhau, nhưng định hướng và những nội dung cụ thể thì luôn thống nhất, cung cấp cho học sinh những kiến thức chuẩn mực đã được phê duyệt. Kết quả là, học sinh chỉ khác nhau về mức độ tiếp nhận, còn những gì họ thu nhận được ở nhà trường thì hoàn toàn giống nhau, như những sản phẩm công nghiệp được sản xuất hàng loạt.
Còn trong gia đình, sự giáo dục được tiến hành bởi nhiều chủ thể cùng lúc: cha mẹ, ông bà, anh chị, họ hàng... Những nhà giáo dục này không chỉ khác nhau về đặc điểm nhân khẩu- xã hội (giới tính, độ tuổi, học vấn, nghề nghiệp...), mà khác nhau về quan điểm, sở thích, cá tính, kiến thức xã hội... Rất ít người trong số họ là nhà giáo dục và được đào tạo. Những điều họ dạy bảo trẻ cũng rất khác biệt, tuỳ thuộc vào những đặc điểm và quan niệm của bản thân. Điều này dẫn đến kết quả là trẻ em trong gia đình nhận được lượng thông tin và kiến thức hết sức da dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, là cơ sở để hình thành một tâm hồn phong phú với những tri thức đủ đầy. Và "sản phẩm" của mỗi gia đình luôn là đơn chiếc, không bao giờ lặp lại. Nó tạo nên tính đa dạng cho xã hội.
Nếu kết hợp được hai khía cạnh này của giáo dục gia đình và nhà trường thì sẽ có những sản phẩm lý tưởng: vừa quy chuẩn theo yêu cầu và định hướng của xã hội, lại vừa là duy nhất, đầy cá tính, không lặp lại. Tiếc rằng hiện nay hai khía cạnh này vẫn tách biệt, chưa có sự đan xen, phối hợp.
Phương pháp giáo dục tại gia đình và nhà trường cũng khác nhau. Ở trường, cho dù những phương pháp giảng dạy cụ thể mà các thày cô áp dụng có khác nhau, thì chúng đều là những phương pháp khoa học, được thẩm định, có cơ sở lý luận để vận dụng. Trong khi đó, giáo dục ở gia đình áp dụng những phương pháp hết sức đa dạng, có thể khoa học mà cũng có thể không, có thể có lý trí mà cũng có thể chỉ dựa trên cảm tính- Tất cả phụ thuộc vào điều: chủ thể giáo dục là ai. Chẳng hạn, bố có thể là người nghiêm khắc, thích ra lệnh, yêu cầu tuân thủ kỷ luật nghiêm ngặt, thưởng phạt nghiêm minh; trong khi mẹ thì mềm mỏng giảng giải, nhẹ nhàng thuyết phục, tỉ tê khuyên nhủ; còn bà thì cưng nựng, chiều chuộng có phần vô nguyên tắc... Những phương pháp giáo dục của gia đình vừa phong phú, vừa là tổng hoà nhiều dạng thức: không chỉ yêu cầu mà còn thuyết phục; không chỉ thuyết giảng mà còn bàn bạc, thảo luận; không chỉ bằng mệnh lệnh mà còn bằng tình cảm; không chỉ lý thuyết mà còn nêu gương bằng việc làm cụ thể.
Như vậy, phương pháp giáo dục của gia đình, tuy rằng không phải lúc nào cũng có cơ sở khoa học, nhưng lại đa dạng và phù hợp với nhiều chủ thể giáo dục, và được sử dụng linh hoạt. Chúng cũng thường mang lại hiệu quả cao hơn so với các phương pháp giảng dạy tại nhà trường. Nếu các phương pháp giáo dục ở gia đình và ở nhà trường kết hợp được với nhau một cách hợp lý, thì sẽ phát huy được điểm mạnh của mỗi loại, bổ khuyết những hạn chế cho nhau. Chắc chắn hiệu quả giáo dục sẽ được nâng cao hơn nhiều.
2.2. Giáo dục gia đình và giáo dục của các thiết chế xã hội
Bên cạnh nhà trường, các thiết chế xã hội cũng góp phần không nhỏ vào việc xã hội hoá cá nhân. Đó là các thiết chế văn hoá (nhà hát, rạp chiếu phim, hiệu sách...), các thiết chế kinh tế (doanh nghiệp, công ty, xí nghiệp...), các thiết chế giáo dục (trường phổ thông, trường đại học...), các thiết chế tôn giáo (đình, đền, chùa, miếu...) và các loại thiết chế khác. Vai trò xã hội hoá của các thiết chế này đối với con người ngày càng gia tăng, bởi phần lớn thời gian ngoài gia đình, các cá nhân tham gia hoặc chịu ảnh hưởng từ các thiết chế đó. Giáo dục của xã hội thông qua các thiết chế nêu trên có những điểm khác biệt về cơ bản so với giáo dục trong gia đình.
Nếu như trong gia đình việc quản lý trẻ em không chỉ bó gọn trong thời gian, không gian, công việc trong gia đình mà còn mở rộng ra tới những nhóm bạn, các mối quan tâm cũng như những điều cuốn hút trẻ ngoài xã hội, thì sự quản lý của các thiết chế xã hội đối với thành viên hoặc khách hàng của mình chỉ giới hạn trong khoảng thời gian mà cá nhân làm việc hoặc hoạt động tại thiết chế đó và chỉ bó hẹp trong không gian của thiết chế. Các cơ quan, doanh nghiệp chỉ quản lý nhân viên trong giờ làm việc; các địa điểm giải trí, nơi sinh hoạt tôn giáo... chỉ có trách nhiệm với khách trong khoảng thời gian họ lưu lại tại đó và chỉ trong khuôn viên của thiết chế. Nghĩa là, sự quản lý của gia đình đối với cá nhân là bao quát hơn, toàn diện hơn và trách nhiệm hơn so với sự quản lý ngoài xã hội.
Tại các thiết chế xã hội ngoài nhà trường, tác động mạnh mẽ và quan trọng nhất đến quá trình xã hội hoá cá nhân là tập thể lao động mà cá nhân là thành viên. Sự giáo dục của thiết chế xã hội này (như đã phân tích) mang tính pháp lý cao, dựa trên những quy định chặt chẽ, nên nghiêm ngặt, xơ cứng và lạnh lùng, đối lập với sự linh hoạt, mềm dẻo và tình cảm của giáo dục trong gia đình. Tuy vậy, tập thể lao động cũng cũng giống với gia đình ở chỗ nó là một tiểu văn hoá riêng biệt, mà cá nhân phải chấp nhận và học hỏi để hoà nhập.
Có thể nói, các thiết chế xã hội đều bằng cách này hay cách khác tham gia hoặc có tác động tới quá trình xã hội hoá cá nhân. Mỗi thiết chế đều có những đặc điểm và những thế mạnh riêng, những nội dung và phương pháp giáo dục riêng, không thể thay thế nhau, mà bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong chức năng xã hội hoá cá nhân. Sự giáo dục của các thiết chế xã hội chủ yếu dựa trên các nội qui, qui chế và quy định... cứng nhắc và chặt chẽ, khác hẳn sự mềm dẻo và linh hoạt của giáo dục trong gia đình.
2.3. Giáo dục gia đình và các nhóm xã hội
Khi một em bé đến trường mầm non, em bắt đầu được tiếp xúc với những người khác ngoài gia đình. Những bạn cùng lứa tuổi ở trường thực sự là một thế giới mới, có ảnh hưởng lớn đối với em, bởi đây là lần đầu tiên em được biết đến những cách suy nghĩ, ứng xử, hành động khác với những gì đã quen thuộc ở gia đình.. Lần đầu tiên có những khác biệt để em bé so sánh và lựa chọn, nên em thấy lạ lẫm, tò mò khám phá và thích thú làm theo những cách thức mới lạ như các bạn. Những nhân tố mới bắt đầu xuất hiện trong thế giới “cái tôi” của em.
Trong cuộc đời, mỗi người trong chúng ta tham gia vào rất nhiều nhóm xã hội khác nhau: nhóm bạn bè, nhóm sở thích, nhóm nghề nghiệp…, trong đó nhóm bạn đóng vai trò quan trọng nhất. Nhóm bạn là môi trường khác hẳn gia đình. Trong nhóm bạn, trẻ hoạt động mà không (hoặc ít) có sự giám sát trực tiếp của người lớn. Với vị thế bình đẳng như nhau trong nhóm bạn, trẻ tự tin hơn, độc lập hơn, nên có thể chủ động và tự do thể hiện suy nghĩ, cá tính của mình. Những phẩm chất mới được hình thành và được tạo điều kiện để phát triển. Sự tự do của nhóm bạn cho phép trẻ thực hiện nhiều hành vi mà ở gia đình và ở trường không được phép làm. Điều này một mặt khuyến khích tính sáng tạo của trẻ, nhưng mặt khác cũng tiềm ẩn nguy cơ thiếu định hướng, dẫn tới những hành vi lệch chuẩn. Những khác biệt trong suy nghĩ, hành động của trẻ bắt đầu làm phát sinh mâu thuẫn giữa em với gia đình và giữa gia đình với nhóm bạn của em.
Sự xã hội hoá trong lòng nhóm bạn được diễn ra chủ yếu thông qua những ảnh hưởng lẫn nhau một cách không chủ định. Không ai nghĩ rằng mình sẽ giáo dục những người bạn của mình, nhưng một cách tự nhiên mà quan điểm, ứng xử, hành vi của anh ta được các bạn chia sẻ và học theo. Còn bản thân anh ta cũng tự mình học hỏi, làm theo các bạn. Trong những điều mà các thành viên trong nhóm bạn ảnh hưởng lẫn nhau như thế, có rất nhiều điều họ không được biết; không thể thực hiện ở nhà, ở trường hoặc ở tập thể lao động của mình. Đây là một kênh bổ sung thông tin và rèn luyện kỹ năng rất hữu hiệu đối với những khiếm khuyết trong giáo dục của gia đình và nhà trường. Ví dụ như những hiểu biết về tính dục, về quan hệ khác giới và tình yêu...; những kỹ năng tham gia các trò chơi, kỹ năng xử lý các tình huống thực tế...
Tuy nhiên, nhóm bạn cũng đồng thời là môi trường để cá nhân, nhất là các em nhỏ, tiếp xúc với những thông tin không lành mạnh, thực hành những hành vi không được phép, nên rất có thể có những tác động xấu tới nhân cách. Có thể nói, nhóm bạn bè cùng lứa tuổi có tác động mạnh mẽ đến cá nhân tới mức, có những lúc có thể lấn át ảnh hưởng của gia đình và nhà trường.
2.4. Giáo dục gia đình và truyền thông đại chúng
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, truyền thông đại chúng đã trở thành không thể thiếu. Với đủ loại thông tin trên mọi lĩnh vực, các phương tiện truyền thông đại chúng đã thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu trong việc cung cấp thông tin, phổ biến kiến thức, tuyên truyền các giá trị văn hoá, phổ cập hệ chuẩn mực xã hội... Cũng vì thế mà truyền thông đại chúng có tác động rất mạnh mẽ đến suy nghĩ cũng như hành vi của người dân. Nó có thể gây ra những hệ quả khó lường trước, ví dụ, làm cả xã hội tẩy chay một loại sản phẩm bị công bố là không bảo đảm an toàn và có thể gây bệnh.
Có thể nói, các thành viên của xã hội đều chịu ảnh hưởng ở mức độ khác nhau từ những gì mà các phương tiện truyền thông mang đến. Nó cũng là một kênh quan trọng để phổ biến văn hóa, giúp cho con người có thể hiểu được những mẫu văn hóa, những nền văn hóa khác. Truyền thông cũng làm cho các thành viên trong một xã hội gắn kết với nhau hơn thông qua những mối quan tâm chung, những giá trị chung, đặc biệt là khi có những sự kiện nổi bật như các giải thể thao lớn, các thảm hoạ…
Bên cạnh mặt tích cực đó, truyền thông đại chúng, với tính chất đa dạng của mình, còn phổ biến những thông tin lạ lẫm, những giá trị khác lạ, không phù hợp với văn hoá Việt Nam. Ví dụ, những quảng cáo phô trương, kệch cỡm và vụ lợi đã vô tình hình thành những giá trị ảo như “sành điệu”, “style” (mốt); cổ suý cho lối sống chuộng vật chất, tiêu dùng- vứt bỏ; ve vuốt tính ngạo mạn, coi mình là “hàng đầu”, “duy nhất”, Number One”, “mọi người phải ngước nhìn”... Với giới trẻ, những người chưa đủ bản lĩnh và chưa đủ tri thức để nhận diện chân giá trị của sự vật, thì những mặt trái trên đây càng tác động mạnh mẽ hơn, vì sự mới lạ, khác thường của chúng.
Chưa kể, tác động tiêu cực của truyền thông đại chúng còn ở chỗ nó làm cho những người “nghiện” (ví dụ nghiện TV) dành quá nhiều thời gian cho nó, và trở nên thụ động, suốt ngày chỉ ngồi trước màn hình.
Nếu so sánh với giáo dục trong gia đình, thì tác động của truyền thông tới công chúng có những khác biệt to lớn và cơ bản: Sự giáo dục của truyền thông là một chiều, hầu như không có tương tác, không tiếp nhận phản ứng và không nhận biết được thái độ của người xem. Vì sự giáo dục khô cứng và máy móc đó mà truyền thông đại chúng được nhà xã hội học Macionis gọi là một phương tiện lập trình thái độ và niềm tin của chúng ta (2). Xét từ góc độ này, giáo dục của truyền thông đại chúng không thể sánh được với giáo dục gia đình.
Tuy nhiên, xét về khía cạnh tri thức thì không gia đình nào có thể sánh được với truyền thông.
3. SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
Từ những phân tích trên, có thể biểu diễn giáo dục gia đình trong mối tương quan với các nhân tố khác trong sơ đồ sau:
Con người khi mới sinh ra sống trong gia đình. Thông qua quá trình giáo dục, gia đình cung cấp cho em bé những kiến thức, rèn luyện những kỹ năng đầu tiên để hình thành nhân cách. Nhà trường và tập thể lao động là những chủ thể tiếp theo, sau gia đình, tiếp tục quá trình xã hội hoá đối với cá nhân, giúp anh ta hoàn chỉnh và sau đó là hoàn thiện nhân cách của mnh. Tuy các chủ thể này được đặt theo thứ tự, nhưng không có nghĩa là chúng thay thế nhau và vai trò của chủ thể trước sẽ kết thúc khi xuất hiện chủ thể sau. Có những giai đoạn mà các chủ thể cùng phát huy vai trò của mình, phối hợp với nhau thực hiện chức năng xã hội hoá đối với cá nhân.
Có nhiều nhân tố tác động tới quá trình xã hội hoá cá nhân: Nhóm bạn và các nhóm xã hội khác mà cá nhân tham gia vào; các thiết chế xã hội mà cá nhân là thành viên hoặc có liên quan; các phương tiên truyền thông với chức năng giáo dục và truyền bá kiến thức...
***
Tóm lại, giáo dục gia đình có ý nghĩa vô cùng to lớn, đóng vai trò thiết yếu đối với cuộc sống của một cá nhân. Đó là môi trường đầu tiên của quá trình xã hội hoá cá nhân, môi trường quan trọng nhất, hình thành nên nhân cách cho một con người mới sinh ra, dẫn dắt anh ta hoà nhập vào xã hội. Nhờ có giáo dục gia đình mà con người sinh học trở thành con người xã hội. Nhiều thiết chế xã hội cùng tham gia xã hội hoá cá nhân, mỗi thiết chế có những đặc trưng, phương thức và nội dung giáo dục riêng, nhưng đều bổ sung và hỗ trợ rất hữu hiệu cho giáo dục gia đình. Vấn đề đặt ra là làm sao để những thiết chế này phát huy được vai trò của mình, để cùng với gia đình, tạo nên những công dân tốt cho xã hội./.
(1) Dewey, John (1916/1944). Democracy and Education. The Free Press. tr. 1–4.
(2) Macionis John, J. (1987), Xã hội học, NXB Thống kê, Tr. 171
Bài: PGS.TS. Đinh Thị Vân Chi
Tài liệu tham khảo
1. BCH TW Đảng (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” của BCH TW Đảng Khóa XI, ngày 01 tháng 11 năm 2013.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Kỷ yếu Hội thảo “Tổng kết nghiên cứu giáo dục phổ thông của Việt Nam và một số nước trên thế giới xây dựng chương trình giáo dục phổ thông các nước trên thế giới và Việt Nam – Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo của đổi mới giáo dục phổ thông sau 2015 của Việt Nam”, HN.
3. Macionis John, J. (1987), Xã hội học, NXB Thống kê.
4. Schaefer Richard T. (2007), Xã hội học, NXB Thống kê.
5. Lê Sơn (2004), Nhân cách và sự hình thành nhân cách, Chuyên đề khoa học, TPHCM.
6. Trần Huy Cường (2006), Quan niệm về xã hội hoá và phân tích ảnh hưởng nhóm bạn đến sự hình thành nhân cách (Tiểu luận môn học “Xã hội học giáo dục”), TPHCM.
7. G. P. Di Nicola, A. Danese (2006), Le ragioni del matrimonio. Aspetti di sociologia della famiglia – Những lý lẽ của hôn nhân. Những khía cạnh xã hội của gia đình, Effatà Editrice, Torino.
8. http://edu.net.vn
9. http://tip.psychology.org/salomon.html
Admin3