24/05/2018, 20:20

Đầu tư vào hàng dự trữ và tạo ra tài sản cố định

Ta thường có thể nói một cách đơn giản hàng dự trữ của doanh nghiệp bao gồm tồn kho nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm. Tuy nhiên trên thực tế để nghiên cứu kỹ về vấn đề này cần phải tiếp cận nó ở những góc độ khác nhau và đặt ...

Ta thường có thể nói một cách đơn giản hàng dự trữ của doanh nghiệp bao gồm tồn kho nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm. Tuy nhiên trên thực tế để nghiên cứu kỹ về vấn đề này cần phải tiếp cận nó ở những góc độ khác nhau và đặt trong những mối quan hệ cụ thể.

Nguyên nhân cần thiết phải đầu tư vào dự trữ

Xuất phát từ vai trò của hàng dự trữ đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ta có thể nó được sử dụng để đảm bảo sự ổn định cho sản xuất vcà đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vì vậy đàu tư vào hàng dự trữ lag việc không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp: Dựa trên cơ sở lý luận, vai trò của hàng dự trữ có bốn mặt chủ yếu, biểu hiện cụ thể ở bốn loại hàng tồn kho cơ bản:

  • Quay vòng tồn kho: mỗi khi sản xuất và đặt hàng là một lần đặt ra số lượng lô nhất định, mà không phải là mỗi lần một lô, kiểu tồn kho được hình thành từ tính chu kỳ của số lượng lô được gọi là quay vòng tồn kho.
  • Lượng tồ kho dự phòng: hay còn gọi là lượng tồn kho bảo hiểm, là lượng tồn kho nhất định mà nhà sản xuất chuẩn bị để ứng phó với tính không ổn định của nhu cầu và tính không ổn định của cung ứng, nhằm tránh sự tổn thất do thiếu hàng gây nên. Nếu như nhà sản xuất có thể dự toán được về sự thay đổi về nhu cầu trong tương lai hoặc có thể xác định được số lượng và thời gian hàng tương ứng, thì không cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng. Số lượng tồn kho dự phòng ngoài việc chịu ảnh hưởng của sự bất ổn định về nhu cầu và cung ứng, còn liên quan đến việc doanh nghiệp hy vọng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Đây là nhân tố xem xét chính khi đưa ra quyết sách cề lượng tồn kho dự phòng.
  • Tồn kho vận chuyển: là sự tồn kho giữa hai đơn vị công tác hoặc hai tổ chức tiêu thụ gần nhau, bao gồm lượng tồn kho trong quá trình vận chuyển và lượng tồn kho tạm dừng giữa hai nơi. Tồn kho vận chuyển được quyết định bởi số lượng lô vận chuyển và thời gian vận chuyển.
  • Lượng tồn kho dự định theo thời kỳ: do đặc điểm mang tính thời vụ của nhu cầu hoặc tính thời vụ của việc mua sắm, nên doanh nghiệp buộc phải sản xuất, tích trữ và bán hàng vào mùa bán ế đẻ duy trì và tăng cường phục vụ khách hàng vào mùa bán hàng chạy, hoặc tăng cường lượng tồn kho của mùa thu hoạch , ví dụ như nông sản, để dự trù sản xuất cho cả năm còn gọi là tồn kho theo thời kỳ. Sự cần thiết của tồn kho theo thời kỳ ngoài nguyên nhân về mùa vụ còn xuất phát từ việc bảo đảm sự ổn định cho sản xuất. Do vậy, nguyên nhân quyết định lượng tôn kho dự định theo thời kỳ, ngoài chi phí mang tính cơ hội của việc khan hàng hết hàng, còn phải xét đến chi phí tăng thêm khi sản xuất ổn định (chi phí khấu hao, khi thiết bị sản xuất ngừng nghỉ, lương công nhân rảnh rỗi và các chi phí phát sinh khác…).

Dựa trên cơ sở thực tiễn, vai trò của hàng dự trữ được biểu hiện trong mối quan hệ giữa việc khống chế lượng hàng dự trữ trong kho và hai loại nhu cầu: nhu cầu độc lập và nhu cầu phụ thuộc:

Nhucầu độc lập là nhucầu do thị trường quyết định .Ví dụ như : nhucầu đối với các thành phẩm như xe ô tô, máy giặt gia dụng và linh kiện dễ hỏng nhưu tấm phanh xe, vòng đệm cao su. Những nhu cầu này lúc nào thì sẽ nảy sinh? mỗi lần bao nhiêu? Không theo kế hoạch sắp xếp của doanh nghiệp, nó được gọi là nhu cầu độc lập. Tuy nhiên với phạm vi xao động và xu hướng thay đổi nhất định trong một khoảng thời gian cùng những đặc trưng thay đổi, nhu cầu này có thể dự đoán thông qua những số liệu lịch sử và các nhân tố tương quan khác.

Nhu cầu phụ thuộcLà nhu cầu do nhu cầu của sản phẩm cuối cùng hoặc hạng mục khác quyết định, nó có thể đoán trước và có thể khống chế được. Ví dụ như: với một số lượng máy giặt cần sản xuất cho trước, thì số lượng nhu cầu của nguyên vật liệu hoặc linh kiện như thùng giặt, máy định giời, động cơ điện, hoàn toàn có thể được quyết định căn cứ vào linh kiện, vì vậy nó được gọi là nhu cầu phụ thuộc.

Tóm lại Nhu cầu xuất phát từ bên ngoài doanh nghiệp hay từ thị trường là nhu cầu độc lập, còn gọi là nhu cầu khách hàng, những nhu cầu này nảy sinh từ yêu cầu sản xuất bên trong doanh nghiệp gội là nhu cầu phụ thuộc, hay còn gọi là nhu cầu sản xuất. Nhu cầu độc lập có tính tuỳ cơ ứng biến cho nên chỉ có thể dựa trên dự đoán để tính toán. Nhu cầu phụ thuộc có tính xá định, đặc trưng thay đổi theo thời gian đã được biết trước, vì vậy không cần dự đoán mà chỉ cần xác định theo kế hoạch sản xuất. Đáp ứng sự khác nhau về mặt tính tồn kho của hai loại nhu cầu. Tức là do tính chất tuỳ cơ của nhu cầu độc lập mà ta cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng nhằm tránh tổn thất do thiếu hàng. Do tính xác định của nhu cầu phụ thuộc, về mặt lý thuyết thì không cần thiết lập lượng tồn kho dự phòng, hơn nữa lý tưởng nhất là tất cả những lượng tồn kho sản xuất đều nên ơe dạng bán thành phẩm. Chính sự khác nhau này đã quy định số lượng từng loại hàng dự trữ ở những thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời khẳng định lại vai trò rất quan trọng của hàng dự trữ và vấn đề khống chế hàng dự trữ trong việc quay vòng vốn, tiết kiệm chi phí, ổn định sản xuất và đáp ứng nhu cầu luôn biến đổi của khách hàng.

Đầu tư vào hàng dự trữ có thể có thể được phân thành 2 loại chi phí chủ yếu sau :

Chi phí bảo tồn hàng được tạo bởi:

  • Chi phí cơ hội sử dụng vốn: thông thường được xác định dựa trên tỷ lệ lãi suất đầu tư, trong tình huống đơn giản hoá, có thể sử dụng tỷ lệ lãi suất với kỳ hạn tương ứng để thay thế.
  • Chi phí bảo hiểm và chi phí hao mòn cơ sở hạ tầng kho bãi…
  • Chi phí mất mát, hư hỏng và không có hiệu quả của hàng tồn. Chi phí về mặt này sữ có sự chênh lệch rất lớn dựa trên tính chất khác nhau của hàng tồn, ví dụ như lỗi của hàng điện tử tương đối cao, mà chi phí tổn thất của thực phẩm lại còn cao hơn.

Do chi phí cơ hội của vốn và chi phí hỏng hóc, mất hiệu quả luôn chiếm đa số tỷ lệ của phí bảo tồn. Vi vậy các doanh nghiệp thường theo thói quen, đem chi phí bảo tồn thể hiện là hình thức tỷ lệ thuận với giá cả mua bán của đơn vị hàng tồn.

Chi phí đặt hàng

Là chi phí bình quân để xử lý nghiệp vụ đặt hàng, bao gồm các tư liệu kỹ thuật sản phẩm cần thiết như sổ ghi chép, thông tin, phán đoán và lương nhân viên đặt hàng, đặc điểm của nó là không liên quan đến số lượng hangf đặt. Trên lĩnh vực sản xuất,chi phí này là chi phí chuẩn bị sản xuất và điển hình máy móc khi thay đổi linh kiện và tác nghiệp, gọi là chi phí chuyển đổi tác nghiệp và chi phí lắp đặt.

Chi phí thiếu hàng

Là những tổn thất do thiếu hàng gây nên. Từ góc độ bán hàng nếu thiếu hàng cung cấp, khách hàng sẽ chuyển sang đặt hàng của doanh nghiệp khác, và hơn nữa, uy tín của doanh nghiệp cũng bị tổn hại nghiêm trọng. Từ góc độ sản xuất, trong quá trình sản xuất, thiếu hàng dẫn đến việc ngừng sản xuất đợi nguyên liệu, ứ đọng bán thành phẩm, kéo dài thời gian giao hàng và dẫn đến ngưng ca…chi phí của nó được tính lần lượt với ảnh hưởng của hoạt động tương ứng.

Tài sản cố định

Nghị định số 199/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 3/12/2004 về quy chế quản lý tài chính của công ty Nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác có quy định, tài sản của công ty Nhà nước bao gồm: tài sản cố định (tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, chi phí xây dựng cơ bản dở dang và các khoản ký cược, ký quỹ dài hạn); tài sản lưu động (tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho, tài sản lưu động khác và chi sự nghiệp) mà công ty Nhà nước có quyền chiếm hữu sử dụng và định đoạt theo quy định của pháp luật.

Như vậy có thể thấy tài sản cố định hữu hình là một trong những tài sản quan trọng bậc nhất của doanh nghiệp. Nó là những tư liệu lao động có thời hạn sử dụng tương đối dài và có giá trị lớn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như không thay đổi, còn giá trị giảm dần trong suốt thời gian tồn tại, do cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.

Phân loại tài sản cố định :

  • Nhà cửa và vật kiến trúc: Gồm nhà xưởng kho bãi, văn phòng và các công trình có cùng mục đích. Chúng tạo ra không gian sản xuất, vận hành quản lý và lưu trữ hàng hoá hoặc nguyên vật liệu. Là tài sản cố định có thời gian khấu hao khá dài, có thể lên đến 30, 50 năm.
  • Máy móc thiết bị công nghệ : Bao gồm tất cả máy móc thiết bị, hệ thống dây chuyền. Là bộ phận tài sản cố định hữu hình có hàm lượng khoa học công nghệ cao và có sự đổi mới nhanh chóng. Hiện nay những dây chuyền hiện đại được khấu hao chỉ trong vòng từ 2 đến 4 năm.
  • Phương tiện vận tải : Ngoài chi phí ban đầu chi phí vận hành, chi phí nhiên liệu xăng dầu chiếm một tỷ trọng đáng kể và cần được tính đến trong quá trình vận hành.
  • Các công cụ, dụng cụ quản lý, thiết bị đo lường và kiểm định. Đây là các máy móc có giá trị không lớn nhưng được khấu hao trong thời gian dài. Các máy móc văn phòng như máy vi tính, máy in… đã giúp làm tăng năng xuất và hiệu quả quản lý. Đồng thời một hệ thống đo lường và kiểm định hiện đại và chính xác sẽ giúp doanh nghiệp tạo nên những sản phẩm có chất lượng và độ tin cậy cao.

Vai trò của tài sản cố định hữu hình:

Là một trong những cơ sở đầu tiên được hình thành trong quá trình từ thời điểm doanh nghiệp bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi bắt đầu đi vào hoạt động cũng đều phải trải qua các giai đoạn tiền đề sau:

  • Chi phí ban đầu về đất đai: tiền thuê đất, mua đất, đền bù giải phóng mặt bằng.
  • Chi phí xây dựng, lắp đặt nhà xưởng công trình, hạ tầng cơ sở.
  • Chi phí mua sắm máy móc phương tiện vận tải.
  • Chi phí mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất.

Cùng với các chi phí khác, các chi phí cho tài sản cố định hữu hình thực sự trở thành một trong những yếu tố không thể thiếu được trong quá trình hình thành, vận hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Một khi hệ thống nhà xưởng, văn phòng và vật kiến trúc không đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động quản lý, sẽ gây ra một sự cản trở rất lớn tới sự thành công của doanh nghiệp. Do đặc điểm được sử dụng trong một thời gian dài nên tầm quan trọng của hệ thống nhà xưởng lại càng lớn, cần phải tính toán một cách kỹ lưỡng để tránh gây ra những hậu quả lâu dài.

Đầu tư vào máy móc thiết bị công nghệ lại là một trong những hoạt động cần chú ý hàng đầu. Nhất là trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và thay đổi nhanh chóng như hiện nay. Một dây chuyền công nghệ sản xuất thích hợp với các công nghệ mới đạt được các hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp đạt được sản lượng lớn với giá thành thấp và chiếm lĩnh được thị trường.

Hệ thống phương tiện vận tải cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong rất nhiều doanh nghiệp, nó quyết định đến doanh số bán hàng, khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu thị trường, đặc biệt với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Do đó các doanh nghiệp không những cần thiết phải chú trọng hoạt động đầu tư cho hệ thống phương tiện giao thông vận tải mà còn phải chú trọng vấn đề bảo hiểm tài sản, đặc biệt đối với cả các loại hình phương tiện vận tải đường thuỷ như tàu thuỷ xà lam cũng như đối với các phương tiện cơ giới đường bộ thường xuyên phải đối mặt với các rủi ro khác.

0