05/02/2018, 12:26

Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài tập làm văn số 4 lớp 11

Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài tập làm văn số 4 lớp 11 2.72 (54.44%) 18 đánh giá Xem nhanh nội dung1 Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài làm 1 2 Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài làm 2 3 Chí Phèo của Nam Cao ...

Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài tập làm văn số 4 lớp 11 2.72 (54.44%) 18 đánh giá Xem nhanh nội dung1 Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài làm 1 2 Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài làm 2 3 Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài làm 3 Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài làm 1 Thuở bé tôi đã ngủ say bên cuốn Nghìn lẻ một đêm, đã nằm trong giấc mơ có bàn tay cô Tấm. Và lớn lên khi đã hiểu đôi chút về cuộc đời, tôi biết thấu hiểu nỗi đau của nàng Kiều, của Chí Phèo rồi sự cực khổ của số phận chị Dậu. Tất cả những hình tượng điển hình của một thời đại, một số phận đó in dấu mãi trong tôi và trong lòng người đọc. Những nàng Kiều, Chí Phèo hay chị Dậu tôi nghe như quen lắm, gần gũi lắm và cũng lạ lắm, xa cách lắm. Bởi vì họ là nhân vật trong văn chương, mà lại là một điển hình. Có phải điển hình như nhà phê bình văn học Nga Bê-ê-lin-xki viết: “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu nổi bật của tính mới mẻ trong sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói được rằng: Tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết không? Văn học là mĩ học của ngôn từ. Văn học làm đẹp trái tim, tâm hồn con người. Nó khai thác những tình cảm phong phú của con người. Đó là những cảm xúc tế nhị hay mãnh liệt của con người vươn tới tự do, dân chủ, vươn tới thế giới của tình thương. Văn học nghệ thuật hướng tự do, hạnh phúc và nhân phẩm của con người. Nhà văn thể hiện tất cả điều đó thông qua hình tượng. Và tác phẩm nào cũng thế, đều có hình tượng. Hình tượng đó là những gì sinh động nhất, cụ thể nhất, trực giác nhất, nơi đó tác giả gởi một thông điệp tinh thần, tình cảm, một cách nhìn nhận hiện thực… được thể hiện bằng ngôn từ….và ngôn ngữ vốn dĩ là một cơ thể sống phức tạp, vận động, nhiều thanh âm, nhiều màu sắc, mỗi tiếng, mỗi từ khi được nhà văn dùng để xây dựng hình tượng chúng đều có những lớp nghĩa mới, những giá trị mới… Điều đó chứng tỏ hình tượng rất đa dạng. Nó thể hiện tài năng của nhà văn nói lên được phẩm chất và thành tựu xuất sắc của văn học, nó phản ánh một xã hội. Điển hình? Không phải nhà văn nào cũng làm được điều đó. Xây dựng hình tượng văn học thì dễ dàng, song để đưa sản phẩm tinh thần của mình lên ngang mức điển hình phải đi lên từ một hình tượng độc đáo, phải tác động vào tâm trí người đọc những làn sóng tình cảm nhiều, rộng, có khi vô bờ bến, nó vang dội trong nhiều thế kỉ. Rõ ràng hơn điển hình chính là khái quát. Khái quát đến mức có thể làm ta liên tưởng đến cái tương tự ở ngoài đời. Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Thuý Kiều, không chỉ thế, Kiều đã trở thành nhân vật điển hình trong văn học. Nhân vật này đã ăn sâu vào tiềm thức người đọc đến độ người ta có thể hình dung tên Kiều để chỉ một số người có hoàn cảnh như thế trong xã hội. Có khi người ta dùng tên Tú Bà hay Sở Khanh để chỉ bọn người sống bằng những nghề đưa người cửa trước, rước người cửa sau và lũ chải chuốt, dịu dàng chuyên quyến ru đàn bà, con gái nhẹ dạ. Trong đời sống ta thường gặp những khái niệm điển hình: học sinh điển hình, một gia đình điển hình cho khu phố về nề nếp giáo dục con cái… Chúng có nghĩa là những cái bình thường nhất, thường xảy ra nhất, lặp đi lặp lại nhiều nhất, tiêu biểu nhất, lí tưởng nhất của một người nào đó, một điều gì hoặc một môi trường nhất định. Song điển hình nghệ thuật không hoàn toàn giống hệt điển hình xã hội. Về bản chất, điển hình không phải là cá biệt nhưng lại là cái cá biệt, là một cá tính xác định, độc đáo riêng biệt khác nhau, có ở nhân vật này mà không có ở nhân vật khác. Đó chính là người lạ theo cách nói của Bê-ê-lin-xki. Chí Phèo là nông dân. Một anh lực điền hiền lành như đất, thế nhưng từ bốn bức tường lao lí ra cuộc đời Chí đã trở thành con quỷ của làng Vũ Đại. Chí cứ mãi chìm đắm trong những cơn say, và ngủ trong lúc say, dường như chưa bao giờ Chí tỉnh cả. Và cứ mỗi lần có con ma men trong người, Chí lại rạch mặt ăn vạ, và cứ hễ rượu xong là hắn chửi. Tiếng chửi của Chí từ trang sách cứ âm vang trong người đọc mãi, hoàn toàn không giống với tiếng bước chân chạy thình thịch lo âu tất tưởi của chị Dậu. Chị Dậu là nông dân. Chị cũng là một nông dân nghèo nàn không khác gì anh Chí. Chị cũng bị áp bức. Chị cũng mang bao điều đau khổ. Song, cùng đứng trước hiện thực như nhau, nhưng mỗi nhà văn lại có một điểm nhìn khác nhau, mỗi nhà văn lại có một nhãn quan khác nhau. Sự thật lồ lộ trước mắt có thể là ai cũng nhìn thấy nhưng khi vào tác phẩm, qua lăng kính chủ quan của nhà văn, nó trở thành một tấm ảnh với nhiều góc độ, nhiều gam màu khác biệt. Chị Dậu khác Chí Phèo, Chí Phèo phản kháng lại xã hội bằng con đường lưu manh hóa. Còn chị Dậu thì âm thầm chịu đựng, chạy ngược chạy xuôi lo từng hào nhỏ để đóng thuế cho chồng, cho em chồng. Nếu Nam Cao xây dựng một nhân vật điển hình của người nông dân bế tắc đi đến con đường gần như mất hẳn nhân tính, thì ngược lại, Ngô Tất Tố lại xây dựng một chị Dậu ngời ngời phẩm chất cao đẹp của phụ nữ Việt Nam với những nỗi lo và suốt đời vất vả… Về hình thức, nói như trên không có nghĩa là điển hình văn học rất trừu tượng mà trước tiên nó rất sống động và cụ thể. Bên cạnh cái lạ thì nó chính là cái quen biết. Điển hình trong văn học thể hiện chủ yếu ở hai khía cạnh chính là sản phẩm được nhào nặn từ hoàn cảnh cụ thể điển hình cho nên nó rất sống động và gần gũi. Chính vì sự sống động nên rất thực, rất quen, Chí Phèo rất cá biệt, cá biệt từ tính cách đến hành động… Chí Phèo vừa là con quỷ dữ trong mái nhà tranh với thú vui vườn ruộng. Chí Phèo vừa là cục sáp trong bàn tay nóng của bọn thống trị vừa là một nô lệ thức tỉnh. Và chính nhờ những cá tính cá biệt đó mà Chí trở thành điển hình của người dân thuộc địa tủi nhục, bần cùng. Đọc Chí Phèo, ta như đang lật lại từng trang sử tâm hồn Việt Nam tràn ngập niềm đau khổ. Môi trường hay hoàn cảnh là cái khuôn để nhà văn đúc nên những nhân vật. Nhân vật điển hình thể hiện những cái chung phổ biến đối với môi trường. Một nhân vật điển hình phải nằm trong hoàn cảnh điển hình, cụ thể. Những nhân vật không thể không có số phận, những bước đi lệch khỏi hoàn cảnh ấy, môi trường ấy. Tất cả là những tinh tú quay quanh mặt trời. Có thể có những nhân vật thăng hoa từ nguyên mẫu có thực trong đời sống cụ thể, môi trường cụ thể. Cũng có thể có những nhân vật đi lên từ hiện thực qua trí tưởng tưởng của nhà văn. Nhưng dù đi lên từ đâu, thì nhân vật điển hình cũng có nghĩa tiêu biểu cho cuộc sống đó, môi trường đó. Hạy đúng hơn là hoàn cảnh điển hình tạo ra nhân vật điển hình. Chí Phèo sống trong hoàn cảnh xã hội cực kì thảm hại, sống trong hoàn cảnh điển hình nhất của thời kì dân tộc chìm sâu trong máu và nước mắt. Một môi trường hỗn loạn như Nam Cao từng viết quần ngư tranh thực và Chí là đại diện đau đớn nhất của môi trường ấy. Là một anh làm thuê hiền lành an phận, Chí thật sự trở thành miếng mồi ngon cho bọn cường hào ác bá và từ con người bình thường Chí trở thành một con quỷ, một con thú độc hình nhân. Rõ ràng tính cách của Chí không thể thoát ra được những quy luật chung của môi trường mà anh đang sống. Bản thân Chí bước trên con đường tha hóa, không phải để lại những dấu vết đầu tiên, mà anh bước đi là anh giẫm lên những dấu chân của những kẻ như Năm Thọ, Binh Chức phải cầm dao để sống, để buộc Chí phải rơi từng giọt máu, bán dần nhân phẩm để mưu sinh, để đè bẹp cái khát khao lương thiện của Chí bằng những chuỗi dài say rượu triền miên. Ánh trăng thiên nhiên đã một phần trả lại tính người cho Chí, ánh trăng dịu dàng đã cho Chí Phèo tìm lại ánh sáng đó, đó là cho Chí một Thị Nở. Đối với người khác, Thị Nở dở hơi còn đối với Chí, thị cũng là người phụ nữ tuyệt vời, là người đầu tiên không biết xa lánh, ghê tởm Chí. Và chính bát cháo hành đầy tình người của Thị Nở đã khơi dậy ngọn lửa thiện – nhân vốn ẩn tàng trong con người Chí thuở nào bừng lên. Chí tìm lại được chính mình. Hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ đã tạo nên Chí và Chí tiêu biểu cho hoàn cảnh xã hội đó, đó là lẽ tất nhiên. Nhân vật điển hình và hoàn cảnh điển hình là hai yếu tố biện chứng lẫn nhau. Đấy là hai mặt của một tờ giấy không thể tách rời nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Bởi vì sao? Dù có tính khái quát rộng, dù miêu tả cụ thể, sinh động, dù đi lên từ hiện thực, nhân vật điển hình vẫn là một hình tượng nghệ thuật do nghệ sĩ tạo ra, là tấm lụa màu, được dệt bằng những sợi tơ hiện thực, bằng màu sắc cá tính, bằng bàn tay và khối óc của nhà văn. Cho nên phần nào nhân vật điển hình chịu ảnh hưởng cửa tư tưởng nhân vãn. Nhà văn nào cho ra một điển hình riêng với những suy tư trăn trở riêng, và nhân vật điển hình trở nên đẹp hơn hoặc xấu hơn tùy theo quan điểm chủ quan của tác giả. Có nhân vật điển hình tiêu biểu cho hoàn cảnh nhất định, nhưng cũng có nhân vật điển hình mang theo dấu vết dân tộc, đôi khi toàn nhân loại. Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một nhân vật điển hình của một môi trường xã hội thực dân phong kiến, của một dân tộc đói nghèo trong rơm rạ (Chế Lan Viên) trong gông cùm nô lệ, suốt cuộc đời chị sống trong cực khổ không thấy một ngày thậm chí một giờ được hạnh phúc, đó là dân tộc Việt Nam. Một dân tộc luôn đau khổ, luôn bị chèn ép, song ý chí phấn đấu, sức mạnh tự vệ có thể bùng nổ. Chị Dậu dịu dàng chân thật, chỉ biết ban phát tình yêu cho chồng, tình thương vô bờ bến cho con nhưng cùng có thể quật ngã bọn cường hào khi đi đến đường cùng giành sự sống. Và, Chí Phèo không những là nhân vật điển hình của một xã hội mà Chỉ còn là điển hình nhân loại. Mâu thuẫn trong tác phẩm giữa cái thiện và cái ác, mâu thuẫn giữa con quỷ và con người, mâu thuẫn giữa sự tuyệt quyền làm người và khát khao được hòa đồng với con người bình thường, lương thiện… Đó là bi kịch của con người trên trái đất này cứ không dừng lại ở anh Chí Phèo của một làng quê bé nhỏ. Mối tình của Rômêô và Julliet không chỉ là một câu chuyện tình bi ai ở Anh, ở Ý trong tác phẩm Sechxpia mà đó là giọt lệ đau đớn của nhà văn khóc cho vạn cuộc tình trên đời này, ở đâu đấy trên trái đất này có nhiều, rất nhiều cuộc tình bi thương như thế… Những nhân vật ấy cứ theo thời gian cứ tồn tại mãi, bất tử trong tim độc giả. Con thoi thời gian cứ bay, không những lớp bụi thời gian không làm mờ đi những nhân vật đó, mà ngược lại các nhân vật ấy càng điển hình hơn cho một thời cụ thể. Grăngđê của Banlzac, A.Q của Lỗ Tấn, Natasa Rostova của L. Tônxtoi, Xuân Tóc Đỏ, Nghị Hách của Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo của Nam Cao… mãi mãi trường tồn, vẫn đem lại giá trị nhận thức và sức truyền cảm cho nhiều thế hệ. Một lần nữa tôi xin mượn câu của Bê-ê-lin-xki để kết lại vấn đề: "Tính điển hình là một trong những dấu hiệu của tính mới mẻ trong sáng tạo, hay nói đúng hơn là bản thân sức sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói rằng tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết”. Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài làm 2 Tồn tại và phát triển chỉ trên dưới mười lăm năm, trào lưu văn học hiện thực phê phán đã sáng tạo ra nhiều hình tượng điển hình giàu sức sống. Trong cái gia đình đầy những nhân vật điển hình này, Chí Phèo xuất hiện như một gương mặt nổi bật. Truyện ngắn Chí Phèo ghi nhận thành công xuất sắc nhất của Nam Cao ở đề tài người nông dân, cũng là một trong những đỉnh cao nhất của trào lưu hiện thực phê phán. Thành công của hình tượng nhân vật Chí Phèo chứng tỏ tài năng nghệ thuật độc đáo của Nam Cao, kết tinh giá trị hiện thực lớn lao và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này. Bối cảnh hiện thực truyện ngắn Chí Phèo là xã hội nông thôn Việt Nam xác xơ nghèo đói những năm 1940. Trong không khí tối sầm này, không ít người bị đẩy xô vào con đường bần cùng lưu manh, không ít người phải điên khùng, liều lĩnh để tồn tại. Tính cách Chí Phèo mang ý nghĩa điển hình cho lớp người ấy trong thời buổi xã hội ấy. Bước vào tác phẩm ta bắt gặp ngay Chí Phèo vừa đi vừa chửi: bao giờ cũng thế, cứ rượu vừa xong là hắn lại chửi… Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao để Chí Phèo xuất hiện đầu tiên với tiếng chửi và hắn thường xuyên xuất hiện với tiếng chửi. Chí Phèo chửi ai? Chí Phèo chửi trời, chửi đời, nghĩa là y đối lập với tạo hóa, với xã hội. Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại nghĩa là y đối lập với quê hương. Chí Phèo chửi nhau với cha đứa nào không chửi nhau với hắn nghĩa là y đối lập với tất cả (vì có đứa nào chửi nhau với hắn đâu). Chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn để hắn phải khổ sở đến nông nỗi này nghĩa là Chí Phèo tự đối lập với nguồn gốc, sự tồn tại của mình. Những mong tìm mối dây liên hệ với xã hội chỉ bằng tiếng chửi mà không thể có. Chí Phèo tồn tại như một con vật. Ấy là một kẻ lưu manh, liều lĩnh trong tình cảnh cô độc tuyệt đối. Ngay từ khi được sinh ra, Chí Phèo đã bị ném khỏi lề cuộc sống, chỉ trông mong vào lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là một thằng cùng hơn cả dân cùng: không cha không mẹ, không thân thích họ hàng, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi. Cả đời Chí Phèo chưa bao giờ được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà đến nỗi ước mơ được sống chung với người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn cũng không đạt được. Chí Phèo tồn tại trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Và Chí Phèo chết đi cũng trong sự cô độc. Bởi không gì cô độc, tủi nhục hơn khi chết mà không ai rỏ một giọt nước mắt, chết mà người ta mừng. Mong ước trở lại làm người của Chí Phèo đã bị cự tuyệt, bị xã hội từ chối phũ phàng. Số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo tiêu biểu cho số phận của cả một lớp người cố cùng dưới đáy xã hội cũ. Hiện tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải là ngẫu nhiên, cá biệt. Thông qua tính cách điên khùng, số phận bi thảm của Chí Phèo, tác phẩm đã khái quát lên quy luật tha hóa con người nghiệt ngã của xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái gì đã đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi? Ai đã biến Chí Phèo trở thành con quỷ của làng Vũ Đại?. Cái con quỷ ấy đã từng có một thời làm người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi thơ bơ vơ đi ở hết cho nhà này lại đi ở cho nhà khác đến tuổi thanh niên làm canh điền cho ông lí Kiến, Chí Phèo sống cuộc đời lao động cực khổ của người cố nông ở nông thôn. Anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc, giản dị trong lao dộng. Tuy còn trẻ trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa: bị bà Ba gọi lên bóp chân, anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Nhưng bản chất trong trắng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân ra sức bóp chết. Chí Phèo vô cớ bị đẩy đi tù ở bảy tám năm sau về làng, hắn thành người khác hẳn. Về giữa cái làng Vũ Đại chật chội mà bao thế lực xâu xé nhau, một thước đất cắm dùi không có, Chí Phèo biết làm gì để sống. Không thể hiền lành mà muốn sống – oái oăm thay – phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, gan góc. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Người ta đây chính là Bá Kiến – kẻ ăn tiên chỉ làng Vũ Đại, kẻ lọc lõi, gian ngoan vô cùng trong nghề bóc lột. Chúng ta còn nhớ lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau hôm đi ở tù về. Dẫu bằng tiếng chửi, bằng vỏ chai rạch mặt ăn vạ, dù sao lần này Chí Phèo còn đến để trả thù, còn mường tượng ra kẻ thù. Nhưng đến khi từ nhà cụ Bá ra về với tâm trạng thỏa thuê, với đồng bạc trong tay, đặc biệt từ lần đòi được nợ ở nhà đội Tảo (nhờ sự may mắn tình cờ) thì Chí Phèo đã trở thành công cụ mù quáng trong tay nhà Bá Kiến. Chí Phèo đã bán đi cả nhân phẩm lẫn nhân hình để tồn tại và tồn tại như một con vật. Hiện tượng Chí Phèo tiêu biểu cho sự tha hóa phổ biến trong cái xã hội tàn phá ghê gớm con người. Khi những người nông dân vốn lương thiện mà dốt nát, tăm tối bị rơi vào tình trạng bần cùng hóa thì dễ uất ức mà trở thành những kẻ cố cùng liều thân. Gặp kẻ thống trị xảo quyệt, sự liều thân cô độc này rất dễ bị lợi dụng, mua chuộc để biến thành sự phá hoại mù quáng. Rốt cuộc, họ lại trở thành chỗ đầy tớ tay chân cho kẻ tử thù. Đó là quy luật đầy mỉa mai chua xót trong xã hội cũ. Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó. Một hình tượng điển hình đầy sức sống bao giờ cũng là một con người này (theo cách nói của Heghen). Ấy là một cá tính độc đáo, rõ nét, một gương mặt không thể lẫn. Hình tượng Chí Phèo vừa mang tính khái quát cao, tính phổ biến sâu rộng vừa mang những nét riêng độc đáo. Mấy ai có lai lịch lạ lùng như Chí Phèo. Mấy ai lớn lên với cảnh đời tội nghiệp như con người này. Chí Phèo là một cuộc đời rất riêng ngay từ khi sinh ra và lớn lên cho đến lúc chết đi. Chí Phèo độc đáo từ ngoại hình đến tiếng chửi, đến cách hành động. Một bộ mặt không hẳn ra con người, không hẳn ra con vật, đầy những vằn ngang vạch dọc do những lần đâm chém, cào rạch ăn vạ. Một lối chửi rủa điên khùng, uất ức thật… Chí Phèo. Cũng thật Chí Phèo từ cách uống rượu đến lối toan đốt quán khi không được uống chịu, thậm chí đến ướm lời với Thị Nở và cách đâm chém kẻ thù rồi tự kết liễu đời mình. Hình tượng Chí Phèo gây ấn tượng thật sâu đậm đối với người đọc. Mặt tiêu biểu, khái quát của số phận Chí Phèo bộc lộ qua những nét cụ thể, độc đáo của y: ngược lại, những nét riêng, độc đáo trong tính cách Chí Phèo phản ánh sinh động cảnh ngộ, số phận của một lớp người. Nhưng sự kết hợp biện chứng, hài hòa giữa hai mặt tính chung và riêng ở hình tượng Chí Phèo không chỉ có thế. Xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã phát hiện và hết sức trân trọng bản chất lương thiện ở người nông dân nghèo khổ. Phần sau tác phẩm, nhân vật này được thể hiện như một tính cách người đang hồi sinh. Trên phương diện này, Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm và sự vùng dậy phản kháng quyết liệt, tuyệt vọng nhưng rất quý trọng ở người lao động bị áp bức. Năm ngày chung sống cùng Thị Nở như tia sáng lóe lên trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của Chí Phèo để rồi vụt tắt, đưa anh ta vào cõi chết. Cuộc gặp gờ tình cờ với Thị Nở (hay duyên số kì lạ dưới bàn tay sắp đặt khéo léo của ông mối Nam Cao) không chỉ khơi dậy bản năng sinh lí ở gã đàn ông mà quan trọng hơn đã đánh thức người cố nông lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo. Phần viết về quá trình hồi sinh cảm động của Chí Phèo và bi kịch đau đớn trong cõi tinh thần sau đó ở anh ta trở thành những trang hay nhất của kiệt tác Chí Phèo. Nó là bài ca sức mạnh kì diệu của tình người, của tình yêu. Sự chăm sóc ân cần và bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở thật sự đã mang hương vị ngọt ngào của tình yêu khiến cho Chí Phèo lại biết khóc, biết cười như một con người. Thị Nở đâu chỉ là người yêu mà chính là con đường sống, là chiếc cầu dẫn Chí Phèo trở lại cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của loài người. Có hiểu hết niềm vui hồi sinh của Chí Phèo, có hiểu hết vai trò quan trọng của Thị Nở như thế ta mới càng thấm thía nỗi cô đơn đến tuyệt vọng của Chí Phèo khi chiếc cầu kia đột ngột bị rút ván. Khi bị Thị Nở đột ngột trở mặt, Chí Phèo ban đầu chưa thể hiểu bởi anh ta đang say với nguyện ước trở lại làm người. Khi chợt hiểu ra, Chí Phèo lại vơ lấy rượu uống. Nhưng thật lạ, lúc này càng uống lại càng tỉnh. Tỉnh ra, chao ôi buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành! Hắn ôm mặt khóc rưng rức… Có lẽ, trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo chỉ có một lần khóc như thế! Người đàn ông khốn khổ đến lúc này mới được hưởng hương vị cháo hành thì chẳng thể nào quên… Không thể quay lại làm quỷ dữ nữa, Chí Phèo đành đi đến cái chết. Nhưng trước khi chết, phải trả thù kẻ thù đích thực của đời mình. Rốt cuộc một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là một Chí Phèo đang lớn tiếng đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi quyền lương thiện. Diễn tả qua trình hồi sinh rồi bị cự tuyệt quyền làm người để đi đến hành động trả thù, tự sát quyết liệt ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc về con người. Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chí Phèo là một hình tượng vô cùng độc đáo. Cuộc đời đầy đau thương, tủi hận của Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm của tầng lớp nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa không lối thoát trong xã hội cũ, của những người khổ nghèo, tăm tối dưới ách áp bức tàn bạo, xảo quyệt của giai cấp thống trị. Với hình tượng văn học điển hình bất hủ này, Nam Cao đã lớn tiếng vạch trần bản chất tàn bạo của thứ guồng máy xã hội đè nghiến, hủy hoại con người, đồng thời thể hiện một niềm tin sâu sắc vào bản tính tốt đẹp ở con người. Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài làm 3 Nam Cao là một nhà văn của hiện thực. Ngòi bút của ông luôn luôn viết để “vạch khổ”, để ca ngợi những con ngưoiừ khổ “cùng đường” nhưng có thiên chất trong sáng. Mặc dù ngòi bút tả thực ấy hoạt động trong thời gian mà người ta cho rằng là “cái mốc” cuối của văn học hiện thực. Chí phèo đã ra đời trong hoàn cảnh ấy. Như một hiện tượng đột xuất khiến ai cũng phải ngỡ ngàng, kinh ngạc. Chí Phèo là một sự bứt phá, đỉnh cao chẳng những với toàn bộ sự nghiệp văn học của Nam Cao mà còn cả đối với nền văn xuôi hiện thực lại một lần nữa chói lòa trên đài văn chương, đánh dấu thời kỳ sinh ra nó trở thành thời kỳ huy hoàng mới, đỉnh cao hơn trước đây. Phải thừa nhận rằng, Nam Cao không thể xuất sắc được thêm nữa mà ông viết, viết để xây dựng nên “Chí Phèo” một chàng trai lương thiện đồng thời cũng là một con quỷ dữ. Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã viết nên một khúc nhạc buồn, một bài ca về một cuộc đời bi kịch cứ nối tiếp bi kịch. Chí và cuộc đời Chí là đại diện của sự khổ đau đến tột cùng. Sự đau khổ ấy có lẽ đã được báo trước bởi số phận của một đứa trẻ “tứ cố vô thân”. Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị vứt bỏ trong cái lò gạch cũ, “một anh đi thả ống lương gần một cái lò gạch bỏ hoang thấy hắn trần chuồng và xám ngắt trong một cái váy đẹp”. Như vậy cha mẹ hắn đã ngoảnh mặt đi để tuổi thơ của hắn gắn liền với cái danh không cha, không mẹ, một đứa con hoang tội nghiệp. Đó cũng là một nỗi chua xót của đời người khi sống mà không biết tổ tiên, gốc rễ. Một số kiếp bị ghẻ lạnh từ khi mới lọt lòng. Chí lớn lên trong sự đùm bọc, cưu mang của nhiều người tốt bụng. Anh thả ống lương, bà góa mù, bác phó cối. Có lẽ nhờ sinh trưởng trong môi trường nông dân thuần túy mà Chí được thừa hưởng những phẩm chất tốt đẹp. Nếu biết trước được tương lai, thì có lẽ Chí đã biết rằng hai mươi năm đầu đời là hai mươi năm hạnh phúc. Hai mươi năm đã là một anh trai hiền lành, chất phát có mơ ước bình dị, giàu lòng tự trọng và vô cùng lương thiện. Cho tới khi chỗ đựa cuối cùng là bác phó cối qua đời. Chí trở thành một kẻ không nơi nương tựa, phải đi bán rẻ sức lao động cho nhà Bá Kiến. Chính trong thời gian ấy, Chí đã bị Bà Ba “để ý”, bắt “bóp chân mà cứ đòi bóp lên trên, lên trên nữa”. Khi phải làm việc sai trái ấy, chí “ vừa làm vừa run”, và anh thấy nhục nhã, ghê tởm hơn là thấy thích. Điều này lại một lần nữa khẳng định tư chất ngay thẳng của Chí. Không may cho anh, Bá Kiến đã phát hiện ra và nổi cơn ghen, rồi vô cớ đẩy Chí đi tù. Đó là mốc son quan trọng đánh dấu cuộc đời Chí đã sang trang khác. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho bọn thống trị phong kiến để dồn ép những người dân khốn khổ tới “bước đường cùng”. Những hành hạ, đòn roi của nhà tù đã biến một con người lương thiện thành một kẻ lưu manh, côn đồ, và hơn thế là một con quỷ dữ” có hình hài “nửa người, nửa ngợm”. Bằng ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã vẽ ra cho người đọc thấy chân dung, mới của Anh Chí – Chí Phèo. “Hắn về lớp này trông khác hẳn. Cái đầu trọc lốc, cái răng trắng hớn, cái mặt thì rất cơng cơng… “ Có người cho rằng “mặt mà câng câng” thì còn là mặt người, nhưng “cái mặt mà cơng cơng” thì không rõ đó là bộ mặt của con vật gì. Như vậy , Chí đã mất hẳn “nhân tính”, đâu còn là anh Chí khỏe mạnh, đẹp trai của ngày xưa. Cái mặt ấy đầy rẫy ngang dọc những vết sẹo, dấu tích của những lần ăn vạ, chém giết. Đời hắn là một cơn say dài vô tận, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, chửi nhau, chém giết, cướp bóc cũng trong lúc say. Tới đây, Chí đã thực sự là một kẻ lưu manh, côn đồ, sẵn sàng nhúng tay vào tội ác. Đau xót hơn, nhiều kẻ đã lợi dụng sự u mê của Chí, sai khiến hắn làm những việc sai trái, kể cả giết người. bàn tay hắn đã từng “đập nát bao cảnh yên vui, làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”. Chí đã bán linh hồn mình cho quỹ dữ, chỉ để lại cái thân xác khật khưỡng vì say rượu và hung hăng như con thú say máu. Chí mất hết cả nhân tính lẫn nhân tính. Nhưng Nam Cao chưa dừng ở đó, cái đặc biệt đưa Chí Phèo lên hàng “kiệt tác” là ở đó, Nam Cao đã chú ý đào sâu vào nội tâm của Chí, đào sâu tới chỗ le lói ánh sáng trong sâu thẳm của tăm tối và u mê. Chí là một con người lương thiện, giá mà con người ấy không bị bỏ rơi, giá mà Chí không bị đẩy đi tù, thì có lẽ, giờ đây Chí đã là một con người khác hoàn toàn. Chai ôi! Có thể dễ dàng thấy được ấn tượng mạnh mẽ mà người đọc cảm nhận được đó là “tiếng chửi” mở đầu cho thiên truyện. Khó mà nói lên hết sự tài tình của Nam Cao khi cố ý dẫn dắt cho “tiếng chửi” mở đầu cả một tác phẩm lớn như thế. Nhưng đó cùng là một thủ pháp nghệ thuật trong cách nét của Nam Cao. Nhà văn để nhân vật xuất hiện trong tâm trạng điển hình nhất. Vừa gây sự tò mò cho người đọc, vừa làm nổi bật tư tưởng của tác phẩm. “Chí phèo vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi, bắt đầu hắn chửi trời, có hề gì trời có của riêng nhà nào, rồi hắn chửi đời, đời là tất cả nhưng chẳng là riêng ai, rồi hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại, nhưng mọi người ai cũng như rằng chắc nó trừ mình ra, tức mình hắn chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, nhưng cũng không ai đáp lại, thế có khổ cho hắn không. Cuối cùng hắn chửi đứa chết mẹ nào để ra thân hắn. Phải chăng đó chỉ là những câu chửi bâng quơ. Không, không phải vậy! làm sao những câu chửi bâng quơ lại văn vẻ, thứ tự như thế. Tiếng chửi chính là phản ứng của y trước cuộc đời, thể hiện tâm trạng đầy bức bối, bi kịch của Chí. Chửi là để giải thoát sự tan nát, đau đớn. Đó là tâm trạng bất mãn cao độ của một con người đã bị làng xóm, xã hội gạt ra khỏi cộng đồng. Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía “nông nổi” khốn khổ của thân phận. Đó là “nông nỗi” không có người nào chịu chửi lại hắn. Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Hoặc cũng có thể là bởi họ không chấp hay không muốn dây với một thằng say rượu, một kẻ lưu mạnh, mọt thằng cốcùng liều thân như Chí. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng là lũ vọng có ai đó chửi lại. Tiếng chửi là khao khát liên tục được phát đi nhưng chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Sự lạnh lùng đến nhẫn tâm của xã hội loài người đã khiến cho tâm hồn hóa đá của Chí Phèo cũng phải bật khóc. Chưa nói đến giao tiếp bình thường, chỉ chửi thôi, cách giao tiếp thô bỉ, hạ đẳng nhất người ta cũng không bằng lòng với chí. Họ đâu còn coi chí là người, trong mắt họ, Chí chỉ là một con vật ghê tởm, đáng sợ, cần phải tránh xa, với họ Chí không xứng đáng được nghe một câu chửi. Chỉ còn lại một mình Chí trong sa mạc cô đơn: “Hắn chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Tiếng chửi bộc lộ sự bế tắc, cô đơn tột cùng của chí, đồng thời thể hiện đỉnh cao của tấn bi kịch, bị từ chối quyền làm người của Chí. “Vạch khổ” cho ngưoiừ nông dân, Nam Cao không chọn những đề tài đã xưa cũ, mà chọn cho mình một con đường riêng, mọt phương diện riêng. Người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải là ở chỗ, tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một con số không tròn trĩnh. Không cha không mẹ, không họ hàng, thân thích, không tấc đất, cắm dùi, cả đời chưa từng được chăm sóc bởi bàn tay người đàn bà… mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rách nát bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phỉa sống kiếp sống tối tăm, thú vật. Phát hiện mới mẻ, độc đáo của Nam Cao còn cho chúng ta hiểu rằng: Cướp đi người khác bất cứ thứ gì cũng là tội ác, nhưng cướp đi con người hạnh phúc, ước mơ, bản chất lương thiện là tội ác dã man nhất, dã man hơn cả tội giết người. Với chí Phèo, Nam Cao thực sự đã vượt trội hơn so với “Đàn anh Tắt Đèn – Ngô Tất Tố; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan cũng khó mà so bì được với “Chí Phèo”, Bởi chăng, nếu Chị Dậu chỉ mất chó, mất con, thì Chí mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Nếu chị Dậu chỉ chật vật, bôn ba vì sưu thuế, thì Chí mất cả quyền làm người. Nếu Chị Dậu tuy khổ cực nhưng vẫn còn được hàm xóm, láng giềng yêu quý, giúp đỡ thì Chí mãi mãi cô đơn vì bị hắt hủi. Chỉ vậy thôi, ta đã thấy “Chí Phèo” quả là “đứa con tinh thần” đắt giá, một hình tượng trên cả ngàn hình tượng. Nam cao là một thiên tài! Nhân Vật Chí Phèo được ví như một con sông. Khô cạn. Cả cụoc đời con người ấy cũng trống rỗng, khô cạn như con sông ấy. Nhưng Nam Cao đã đem mưa đến, tưới mát cho tâm hồn Chí, dòng sông kia lại tràn đầy và Chí hồi sinh như những hạt giống nảy mầm. Đó là cuộc hội ngộ của Chí Phèo với Thị Nở. Thị Nở là một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn, mãi đến ba mươi tuổi vẫn ế chồng, tính cách thì dở hơi, lại có dòng dõi ma hủi. Ở người đàn bà này, hội tụ mọi sự bất hạnh của người phụ nữ. Vậy mà khi họ ăn nằm với nhau, mọi sự đã thay đổi. Đây là mốc son thứ hai thay đổi cuộc đời Chí. Sau cuộc gặp gỡ, Chí Phèo bị ốm rồi được thị Nở chăm sóc. Lần đầu tiên, từ những ngày ở tù về, Chí thấy mình hoàn toàn tỉnh táo và cũng là lần đầu tiên anh nghe và nhận ra những âm thanh quen thuộc của cuộc sống đời thường : “Tiếng anh chài gò thuyền đuổi cá”, “tiếng chim hót trong lành”, “tiếng người nói xôn xao”.. và “lòng hắn mơ hồ buồn”. Chí như vừa mới được sinh ra, tâm hồn Chí còn non nớt như một đứa trẻ, lần đầu biết nghe, lần đầu biết cảm nhận và bộc lộ xúc cảm. Đây là một tâm trạng rất lạ của Chí, đã nhiều năm trôi qua, hắn lần đầu tỉnh táo để nghĩ về cuộc đời mình, rồi chua xót nhận ra, đã có một thời xa xăm; hắn đã từng mơ ước “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, có tiền thì mua con lợn, khá giả thì tậu dăm ba sào ruộng….”. Người ta mơ ước được giàu sang, phú quý, Chí chỉ có một mơ ước thật bình dị, giản đơn là được làm một ngưoiừ lương thiện, có một mái ấm đơn xơ nhưng đó cũng là mơ ước không thển ào trở thành hiện thực. Hắn căm ghét quá khứ, căm ghét vợ chồng Bá Kiến, căm ghét thành kiến xã hội. Chí xót xa vì hối hận cho quãng đường đầy bất hạnh và gây nhiều tội ác của mình. Từ trong sâu thẳm ý thức, Chí vẫn không ngừng hi vọng. Và sự xuất hiện của Thị Nở như ánh sáng của ngọn đèn, chiếu vào cuộc đời tối tăm, giằng giặc của CHí. Thị như cây cầu nối, như bàn tay đưa ra cứu vớt cuộc đời anh. Thị nở mở dường cho anh men theo bờ vực thẳm dể trở lại làm người. Tiếng gọi của tình yêu cũng là tiếng gọi của đời lương thiện. Chí mong ngóng Thị Nở và khao khát cùng thị xây dựng một gia đình. Hình ảnh “bát cháo hành” là thuốc giải độc cho cuộc đời Chí, và hiện thân của tình yêu thương, là hương vị của tình yêu, tình người và tình đời. Chí ngạc nhiên, rồi cảm động (thấy mắt hình như ươn ướt), nỗi bâng khuâng vui buồn lẫn lộn, và nhất là anh thấy ăn năn “Bởi đầy là lần đầu tiên trong đời, hắn được người ta cho…”. Hắn cảm nhận được sự quan tâm chăm sóc của Thị Nở, một sự chăm sóc tuy còn vụng về nhưng rất đỗi yêu thương, chân thành. Hương thơm bát cháo hành đã tẩy rửa những ô nhục, đã bóc trần sạch sẽ cái mặt nạ quỷ dữ và đưa Chí trở lại làm người. Bát Cháo hành đã đánh thức phần người tốt đẹp còn sót lại trong Chí và con quỷ dữ đã chấp nhận từ bỏ bóng tối để bước ra và vươn lên trong anh sáng. Chí bỗng khao khát, khao khát mãnh liệt cuộc đời lương thiện. Đó cũng là chi tiết thể hiện tình cảm chứa chan, nhân đạo của nhà văn, đối với nhân vật của mình. Cái biệt tài của Nam Cao là ở chỗ Cách xử lý tình huồng, co dãn dung lượng truyện, để từng câu, từng chữ, không thừa, không thiếu, biến hóa khéo léo, linh hoạt. Đây cũng chính là lời giải thích cho việc ông cân bằng câu văn ra sao. Nam Cao chỉ dành hai mươi năm đầu đời của Chí vẻn vẹn vài ba câu văn ngắn ngủi, trong khi ông dành nửa tác phẩm để viết về năm ngày cuối đời của Chí. Năm ngày hạnh phúc ngắn ngủi và mong manh. Dù sao thì Chí cũng đã có năm ngày để hạnh phúc, năm ngày để sống thực sự lương thiện. Không say, không chửi, không cần quấy, không cướp bóc, không ăn vạ.. Nhưng chỉ biết làm gì đây trước thành kiến xã hội? Liệu những con người trước đây vốn sợ hắn và xa lánh hắn có chấp nhận hắn trở về? Tác giả đã chú ý tới nhân vật bà cô Thị Nở, đại diện cho định kiến xã hội tàn ác đã phủ nhận sự tồn tại của Chí và quyết liệt ngăn cản hạnh phúc của cô cháu gái. Điều đó đã khiến Chí suy nghĩ rất nhiều, hiểu ra rất nhiều và cõi lòng anh tan nát. Anh đã cố gắng níu kéo, nhưng tình yêu đã ngoảnh mặt đi, cự tuyệt, từ chối anh. Tất cả đã sụp đổ, Chí Phèo nơi vào tình thế tuyệt vọng, đau đớn, vật vã trong bi kịch tinh thần của một con người sinh ra là người mà không được làm người. Nhà văn đã miêu tả một lần uống rượu đặc biệt nhất trong cuộc đời Chí. Chí lại lôi rượu ra uống, hắn lại càng thấy tỉnh, hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Đó là hương vị khó phai mờ nhất trong cuộc đời anh. Chính vì thế, nó lại càng gợi nhắc đến nỗi đau bị cự tuyệt những lời lẽ chua chát, cay đắng của Bà cô Thị Nở. Hắn bưng mặt khóc rưng rức, một kẻ sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, đâm chém người khác mà lại biết khóc. Có thể nói khi tỉnh rượu Chí Phép đồng thời ngộ ra hai sự thật: Một là anh muốn làm người lương thiện, hai là anh không thể trở thành người lương thiện được nữa, và cách giải quyết cuối cùng chỉ có thể là cái chết. Đúng là một sự thật nghiệt ngã, phũ phàng. Đau xót thay Chí càng muốn vươn lên sống thì cái chết lại càng tới gần. Chí quyết định xách dao đi trả thủ. Hình tượng của Chí ngày càng trở nên to lớn, to lớn trước hết về khao khát, và to lớn sau cùng là sự quyết liệt trong hành động trả thù Bá Kiến – cụ tiên chi của làng Vũ Đại. Nếu soi sét kỹ tác phẩm, ta sẽ thấy rằng giữa Chí Phèo và Bá Kiến có một sợi dây giằng buộc vô hình. Đâu phải tình cờ mà vừa ra tù hôm trước, hôm sau Chí đã xách vỏ chai “tới nhà Bá Kiến.”, “gọi tận tên tục ra mà chửi” . Cũng đâu phải ngẫu nhiên khi mỗi lần uống say, Chí lại lảm nhảm tới nhà cụ Bá để “đòi nợ”. Càng không phải ngẫu nhiên khi Chí lăm lăm cây dao định tới nhà Thị Nở “để đâm chết nhà nó” thì lại xông vào nhà Bá Kiến. Rõ ràng, khi ở tù về, mặc dù đã biến chất, và hoàn toàn bại liệt về ý thức, trở thành công cụ của bọn cường hào. Nhưng trong đáy khối óc dày đặc u tối ấy, vẫn âm ỉ mối thù giai cấp với kẻ đã cướp đi của hắn quyền làm người và phẩm giá người. Giữa Chí Phèo và Bá Kiến vẫn còn nguyên “món nợ” chưa thanh toán. Vì vậy trong mối quan hệ này vẫn chất chứa những mối nguy hiểm khó lường Chí Phèo đứng trước mặt Bá Kiến nói rõ ràng “Tao không cần tiền!” Tao muốn làm người lương thiện… Ai cho tao lương thiện… Làm sao để mất các dấu sẹo trên mặt này?…” Những câu hỏi dồn dập, như chất chứa bao cùng quẫn, căm phẫn, tuyệt vọng, bế tắc. Đồng thời thể hiện khát khao cháy bỏng của người dân cùng khốn khổ được sống lương thiện. Bi kịch của người dân cùng khốn khổ được sống lương thiện. Bi kịch của Chí Phèo đã lên đến đỉnh điểm và đòi hỏi phải được giải quyết. Lưỡi dao rung lên sáng loáng là hành động cương quyết lấy máu rửa thù. Lão cáo già lọc lõi Bá Kiến phải chết, để đền tội cho những tội ác dã man mà hắn đã gây ra. Nhưng ngay sau đó, Chính nhân vật đáng thương của Nam Cao lại tự sát. Để Chí Phèo chết, Nam Cao đã xây dựng nên một tình huống thật hợp lí. Khi mà ý thức nhân phẩm trở lại, Chí đã nhất quyết không bằng lòng tiếp tục sống cuộc sống thú vật. Nên anh đã chọn cách giải quyết là cái chết để bảo toàn phẩm giá và thiên lương. Chí Phèo chết ngay trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện. Cái chết của Chí Phèo biểu nhiên không làm xúc động những người dân làng Vũ Đại, nhưng nó lại để lại trong lòng chúng ta, những ai biết yêu thương và trân trọng con ngưoiừ một nỗi buồn thật ghê gớm. Cái chết ấy đã kết thúc một cuộc đời, đặt dấu chấm hết cho một bi kịch số phận và là âm hưởng cứ dư mãi trong lòng bạn đọc. Thực ra, khi viết về Chí Phèo, Nam Cao còn muốn bao quát hóa hình tượng nhân vật này thành cả một tầng lớp nhân dân lao động bị dồn ép, đè nén bởi các thế lực, thống trị tàn ác. Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu, là hình tượng điển hình cho người nông dân trước cách mạng tháng tám. Những xung độ giai cấp, những mâu thuẫn trong lòng xã hội ở Chí Phèo tuy không sôi sục như ở Tắt Đèn, nhưng đó là bầu không khí u ám có tính tia chớp lóe lên báo hiệu trước cơn bão đang về. Các kết cục của Chí cũng cho thấy khi người nông dân khốn khổ bị đẩy tới chỗ cùng thì có thể trở nên đáng sợ như thế nào. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã cảm thấy tính khốc liệt của mối xung đột giai cấp ở nông thôn, không có gì có thể xoa dịu. Càng nén xuống thì càng dễ bùng nổ, và khi nó nổ bùng thì thật đáng sợ cho bọn thống trị. Tính điển hình của hình tượng nhân vật Chí Phèo còn ở điểm “từ sự bóc lột của Bá Kiến với Chí Phèo mở rộng ra là sự tước đọat, tra tấn của bè lũ thống trị lên những con người thấp cổ, bé họng “kêu trời không thấu, kêu đất không thương”. Nam Cao đã sắp đặt tất cả để một khi một người vùng lên thì tất cả sẽ cùng lên theo đó. Tác phẩm “Chí Phèo” đã trở thành “đệ nhất kiệt tác”, “bó đuốc” đi đầu của làng văn học hiện thực không chỉ nhờ nội dung, tư tưởng nhân sinh của nó mà còn nhờ các đóng góp của nghệ thuật. Nam Cao đã thành công về mặt xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật mang tính điển hình, sắc nét, vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa có cả tính độc đáo, gây ấn tượng mạnh. Đặc biệt thành công ở nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Một phong cách nghệ thuật rất riêng của Nam Cao đó là chủ tâm tự nhưng vẫn rất logic, chặt chẽ. Kết cấu vòng tròn thể hiện tính quy luật về hiện tượng Chí Phèo, khiến ý nghĩa của tác phẩm thêm sâu sắc, hấp dẫn, nhiều tình tiết bất ngờ gay cấn, kịch tính. Ngôn ngữ sống động, gần gũi. Giọng điệu, cách trần thuật biến hóa có sự đan xen lẫn nhau. Cả hai mặt nội dung và nghệ thuật đều rất hoàn hảo, điều này tạo nên một tác phẩm có một không hai trong kho tàng văn học Việt Nam. Nam Cao xứng đáng là một trong năm tác giả đã bước đi trên đài danh vọng được mọi người yêu kính và ghi nhớ. Cho tới tận bây giờ, câu nói “Ai cho tao lương thiện” vẫn ám ảnh người đọc bởi lẽ thống thiết, bi ai, đầy day dứt và chua xót. Có lẽ nếu ai đã từng đọc “Chí Phèo” vẫn suốt đời sẽ không bao giờ quên một anh Chí Phèo say khướt vừa đi, vừa chửi cũng như sẽ không thể quên một hình tượng nhân vật làm chấn động cả giới văn học một thời. Từ khóa tìm kiếm:nhân vật của Nam Cao dù bị hủy diệt cả nhân hình lẫn nhân tính nhưng Nam Cao vẫn phát hiện và khẳng định phẩm chất tốt đẹp lẻ loi trong họ Anh ( chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trênđề văn bài viết số 3 lớp 11 chi pheobai viet so 3 hk1 chi pheochỉ còn lại một mình chí phèo trong sa mạc cô đơn nguyễn hoành khungcuộc gặp gỡ với thị nở đã lóe sáng lên như một tia chớp trong chuỗi ngày dằng dặc bi tình của chí phèo chính thức yêu thương và sự chăm sóc ân cần của thị nở đã đánh thức dậy chất người lương thiện cố hữu trong chí phèo anh ( chị ) hãy phân thích làm sángcuộc gặp gỡ với thị nở đã lóe sáng lên như một tia chớp trong chuỗi ngày dằng dặc bi tình của chí phèo chính thức yêu thương và sự chăm sóc ân cần của thị nở đã đánh thức dậy chất người lương thiện cố hữu trong chí phèo anh ( chị ) hãy phân tích làm sáng Bài viết liên quanGiải thích ý nghĩa câu nói của nhà triết học Hi Lạp, Dê-nông (346 – 264 TCN) nói với một người bẻm mép: “Chúng ta có hai tai và một miệng để nghe nhiều hơn và nói ít hơn” – Bài tập làm văn số 4 lớp 11Phân tích bút pháp lãng mạn trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Bài tập làm văn số 4 lớp 11Phân tích nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Bài tập làm văn số 4 lớp 11Bài tập trắc nghiệm GDCD lớp 12 Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật (phần 1)Bài tập trắc nghiệm Hóa học lớp 10 Bài 28: Bài thực hành số 3: Tính chất hóa học của brom và iotBài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 11 Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng (phần 1)Bài tập trắc nghiệm Hóa học lớp 11 Bài 35: Benzen và đồng đẳng. Một số hiđrocacbon thơmKể lại một giấc mơ, trong đó em gặp lại người thân cách xa lâu ngày – Bài tập làm văn số 2 lớp 9

Xem nhanh nội dung

Chí Phèo của Nam Cao – một nhân vật điển hình – Bài làm 1

Thuở bé tôi đã ngủ say bên cuốn Nghìn lẻ một đêm, đã nằm trong giấc mơ có bàn tay cô Tấm. Và lớn lên khi đã hiểu đôi chút về cuộc đời, tôi biết thấu hiểu nỗi đau của nàng Kiều, của Chí Phèo rồi sự cực khổ của số phận chị Dậu. Tất cả những hình tượng điển hình của một thời đại, một số phận đó in dấu mãi trong tôi và trong lòng người đọc. Những nàng Kiều, Chí Phèo hay chị Dậu tôi nghe như quen lắm, gần gũi lắm và cũng lạ lắm, xa cách lắm. Bởi vì họ là nhân vật trong văn chương, mà lại là một điển hình. Có phải điển hình như nhà phê bình văn học Nga Bê-ê-lin-xki viết: “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu nổi bật của tính mới mẻ trong sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói được rằng: Tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết không? Văn học là mĩ học của ngôn từ. Văn học làm đẹp trái tim, tâm hồn con người. Nó khai thác những tình cảm phong phú của con người. Đó là những cảm xúc tế nhị hay mãnh liệt của con người vươn tới tự do, dân chủ, vươn tới thế giới của tình thương.

Văn học nghệ thuật hướng tự do, hạnh phúc và nhân phẩm của con người. Nhà văn thể hiện tất cả điều đó thông qua hình tượng. Và tác phẩm nào cũng thế, đều có hình tượng. Hình tượng đó là những gì sinh động nhất, cụ thể nhất, trực giác nhất, nơi đó tác giả gởi một thông điệp tinh thần, tình cảm, một cách nhìn nhận hiện thực… được thể hiện bằng ngôn từ….và ngôn ngữ vốn dĩ là một cơ thể sống phức tạp, vận động, nhiều thanh âm, nhiều màu sắc, mỗi tiếng, mỗi từ khi được nhà văn dùng để xây dựng hình tượng chúng đều có những lớp nghĩa mới, những giá trị mới… Điều đó chứng tỏ hình tượng rất đa dạng. Nó thể hiện tài năng của nhà văn nói lên được phẩm chất và thành tựu xuất sắc của văn học, nó phản ánh một xã hội. Điển hình? Không phải nhà văn nào cũng làm được điều đó.

Xây dựng hình tượng văn học thì dễ dàng, song để đưa sản phẩm tinh thần của mình lên ngang mức điển hình phải đi lên từ một hình tượng độc đáo, phải tác động vào tâm trí người đọc những làn sóng tình cảm nhiều, rộng, có khi vô bờ bến, nó vang dội trong nhiều thế kỉ. Rõ ràng hơn điển hình chính là khái quát. Khái quát đến mức có thể làm ta liên tưởng đến cái tương tự ở ngoài đời. Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Thuý Kiều, không chỉ thế, Kiều đã trở thành nhân vật điển hình trong văn học. Nhân vật này đã ăn sâu vào tiềm thức người đọc đến độ người ta có thể hình dung tên Kiều để chỉ một số người có hoàn cảnh như thế trong xã hội. Có khi người ta dùng tên Tú Bà hay Sở Khanh để chỉ bọn người sống bằng những nghề đưa người cửa trước, rước người cửa sau và lũ chải chuốt, dịu dàng chuyên quyến ru đàn bà, con gái nhẹ dạ. Trong đời sống ta thường gặp những khái niệm điển hình: học sinh điển hình, một gia đình điển hình cho khu phố về nề nếp giáo dục con cái… Chúng có nghĩa là những cái bình thường nhất, thường xảy ra nhất, lặp đi lặp lại nhiều nhất, tiêu biểu nhất, lí tưởng nhất của một người nào đó, một điều gì hoặc một môi trường nhất định.

Song điển hình nghệ thuật không hoàn toàn giống hệt điển hình xã hội. Về bản chất, điển hình không phải là cá biệt nhưng lại là cái cá biệt, là một cá tính xác định, độc đáo riêng biệt khác nhau, có ở nhân vật này mà không có ở nhân vật khác. Đó chính là người lạ theo cách nói của Bê-ê-lin-xki. Chí Phèo là nông dân. Một anh lực điền hiền lành như đất, thế nhưng từ bốn bức tường lao lí ra cuộc đời Chí đã trở thành con quỷ của làng Vũ Đại. Chí cứ mãi chìm đắm trong những cơn say, và ngủ trong lúc say, dường như chưa bao giờ Chí tỉnh cả. Và cứ mỗi lần có con ma men trong người, Chí lại rạch mặt ăn vạ, và cứ hễ rượu xong là hắn chửi.

Tiếng chửi của Chí từ trang sách cứ âm vang trong người đọc mãi, hoàn toàn không giống với tiếng bước chân chạy thình thịch lo âu tất tưởi của chị Dậu. Chị Dậu là nông dân. Chị cũng là một nông dân nghèo nàn không khác gì anh Chí. Chị cũng bị áp bức. Chị cũng mang bao điều đau khổ. Song, cùng đứng trước hiện thực như nhau, nhưng mỗi nhà văn lại có một điểm nhìn khác nhau, mỗi nhà văn lại có một nhãn quan khác nhau. Sự thật lồ lộ trước mắt có thể là ai cũng nhìn thấy nhưng khi vào tác phẩm, qua lăng kính chủ quan của nhà văn, nó trở thành một tấm ảnh với nhiều góc độ, nhiều gam màu khác biệt. Chị Dậu khác Chí Phèo, Chí Phèo phản kháng lại xã hội bằng con đường lưu manh hóa. Còn chị Dậu thì âm thầm chịu đựng, chạy ngược chạy xuôi lo từng hào nhỏ để đóng thuế cho chồng, cho em chồng.

Nếu Nam Cao xây dựng một nhân vật điển hình của người nông dân bế tắc đi đến con đường gần như mất hẳn nhân tính, thì ngược lại, Ngô Tất Tố lại xây dựng một chị Dậu ngời ngời phẩm chất cao đẹp của phụ nữ Việt Nam với những nỗi lo và suốt đời vất vả…

Về hình thức, nói như trên không có nghĩa là điển hình văn học rất trừu tượng mà trước tiên nó rất sống động và cụ thể. Bên cạnh cái lạ thì nó chính là cái quen biết. Điển hình trong văn học thể hiện chủ yếu ở hai khía cạnh chính là sản phẩm được nhào nặn từ hoàn cảnh cụ thể điển hình cho nên nó rất sống động và gần gũi.

Chính vì sự sống động nên rất thực, rất quen, Chí Phèo rất cá biệt, cá biệt từ tính cách đến hành động… Chí Phèo vừa là con quỷ dữ trong mái nhà tranh với thú vui vườn ruộng. Chí Phèo vừa là cục sáp trong bàn tay nóng của bọn thống trị vừa là một nô lệ thức tỉnh. Và chính nhờ những cá tính cá biệt đó mà Chí trở thành điển hình của người dân thuộc địa tủi nhục, bần cùng. Đọc Chí Phèo, ta như đang lật lại từng trang sử tâm hồn Việt Nam tràn ngập niềm đau khổ. Môi trường hay hoàn cảnh là cái khuôn để nhà văn đúc nên những nhân vật.

Nhân vật điển hình thể hiện những cái chung phổ biến đối với môi trường. Một nhân vật điển hình phải nằm trong hoàn cảnh điển hình, cụ thể. Những nhân vật không thể không có số phận, những bước đi lệch khỏi hoàn cảnh ấy, môi trường ấy. Tất cả là những tinh tú quay quanh mặt trời. Có thể có những nhân vật thăng hoa từ nguyên mẫu có thực trong đời sống cụ thể, môi trường cụ thể. Cũng có thể có những nhân vật đi lên từ hiện thực qua trí tưởng tưởng của nhà văn. Nhưng dù đi lên từ đâu, thì nhân vật điển hình cũng có nghĩa tiêu biểu cho cuộc sống đó, môi trường đó. Hạy đúng hơn là hoàn cảnh điển hình tạo ra nhân vật điển hình. Chí Phèo sống trong hoàn cảnh xã hội cực kì thảm hại, sống trong hoàn cảnh điển hình nhất của thời kì dân tộc chìm sâu trong máu và nước mắt. Một môi trường hỗn loạn như Nam Cao từng viết quần ngư tranh thực và Chí là đại diện đau đớn nhất của môi trường ấy. Là một anh làm thuê hiền lành an phận, Chí thật sự trở thành miếng mồi ngon cho bọn cường hào ác bá và từ con người bình thường Chí trở thành một con quỷ, một con thú độc hình nhân.

Rõ ràng tính cách của Chí không thể thoát ra được những quy luật chung của môi trường mà anh đang sống. Bản thân Chí bước trên con đường tha hóa, không phải để lại những dấu vết đầu tiên, mà anh bước đi là anh giẫm lên những dấu chân của những kẻ như Năm Thọ, Binh Chức phải cầm dao để sống, để buộc Chí phải rơi từng giọt máu, bán dần nhân phẩm để mưu sinh, để đè bẹp cái khát khao lương thiện của Chí bằng những chuỗi dài say rượu triền miên. Ánh trăng thiên nhiên đã một phần trả lại tính người cho Chí, ánh trăng dịu dàng đã cho Chí Phèo tìm lại ánh sáng đó, đó là cho Chí một Thị Nở. Đối với người khác, Thị Nở dở hơi còn đối với Chí, thị cũng là người phụ nữ tuyệt vời, là người đầu tiên không biết xa lánh, ghê tởm Chí. Và chính bát cháo hành đầy tình người của Thị Nở đã khơi dậy ngọn lửa thiện – nhân vốn ẩn tàng trong con người Chí thuở nào bừng lên. Chí tìm lại được chính mình. Hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ đã tạo nên Chí và Chí tiêu biểu cho hoàn cảnh xã hội đó, đ

0