Chất lượng tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngân hàng
Hoạt động tín dụng là một hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì thế vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề quan trọng, sống còn đối với tất cả các Ngân ...
Hoạt động tín dụng là một hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì thế vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề quan trọng, sống còn đối với tất cả các Ngân hàng. Tuy vậy để đưa ra một khái niêm đúng về chất lượng tín dụng không phải là dễ, bởi lẽ mỗi khái niệm đưa ra đòi hỏi phải chỉ ra nó xuất phát từ đâu trên quan điểm nào. Như ta đã biết mỗi quan điểm khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau về chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng theo quan điểm của khách hàng.
Khách hàng là đối tượng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ tín dụng vì nó là một nguồn tài trợ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Mục tiêu của họ là tối đa hoá giá trị tài sản của mình hay nói cụ thể hơn là tối đa hoá giá trị sử dụng của khoản vốn vay. Chính vì thế với khách hàng để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng cái họ quan tâm đầu tiên là lãi suất, kỳ hạn, quy mô, phương thức giải ngân và phương thức thu nợ của khoản tín dụng mà ngân hàng cung cấp có thoả mãn nhu cầu của họ hay không, làm sao để các thủ tục được giải quyết một cách nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí hợp lý. Nếu tất cả các yếu tố này đều đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì khoản tín dụng đó được coi là có chất lượng tốt và ngược lại.
Do đó theo quan điểm của khách hàng thì chất lượng tín dụng là: Sự thoả mãn nhu cầu của họ về khoản tín dụng trên các phương diện, lãi suất, quy mô, thời hạn, phương thức giải ngân, phương thức thu nợ...
Chất lượng tín dụng theo quan điểm của ngân hàng.
Cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế Ngân hàng cũng phải hoạt động kinh doanh làm sao để đem lại càng nhiều thu nhập cho chủ sở hữu thì càng tốt. Nhưng điều rất khác của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp khác là Ngân hàng thương mại là đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với 3 nghiệp vụ cơ bản: Nhận gửi, cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Vì thế theo quan điểm của Ngân hàng thì chất lượng tín dụng với các yếu tố cấu thành cơ bản đó là mức độ an toàn của tín dụng và khả năng sinh lời do hoạt động tín dụng mang lại.
Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận hay mối quan hệ giữa an toàn và khả năng sinh lời là mối quan hệ biện chứng. Mối quan tâm hàng đầu của tất cả các nhà đầu tư là phải cân nhắc giữa mức độ an toàn và khả năng sinh lời. Về nguyên tắc đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận thì mức độ rủi ro của lĩnh vực đầu tư càng cao thì sẽ có khả năng sinh lợi càng cao và ngược lại.
Hơn nữa hoạt động của ngân hàng là hoạt động chứa nhiều rủi ro bởi lẽ số tiền ngân hàng cho vay có tới hơn 50% là nguồn vốn ngoài vốn chủ sở hữu. Vì thế nếu như Ngân hàng không cân nhắc thận trọng thì sẽ lâm vào tình trạng “ Mất khả năng thanh toán “.
Đối với Ngân hàng, một khoản tín dụng có khả năng sinh lời cao khi khoản tín dụng đó đến hạn thanh toán thì sẽ hoàn trả đầy đủ vốn gốc và lãi. Do đó theo quan điểm của Ngân hàng chất lượng tín dụng được hiểu là: Chất lượng tín dụng là một thuật ngữ phản ánh mức độ an toàn và khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng Ngân hàng.
Chất lượng tín dụng theo quan điểm của xã hội.
Thông qua các khoản tín dụng mà Ngân hàng cung cấp cho các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế, các hoạt động như tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển theo chiều sâu...sẽ được tiến hành và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy đứng trên quan điểm của xã hội để đánh giá chất lượng tín dụng thì chất lượng tín dụng là: Sự đáp ứng cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà các khoản tín dụng của Ngân hàng đem lại.
Ngân hàng là ngành dịch vụ đã có lịch sử tồn tại và phát triển hàng trăm năm. Nó là ngành mang lại cho giới Ngân hàng siêu lợi nhuận song đồng thời nó cũng là ngành chịu nhiều rủi ro. Một trong những rủi ro đáng sợ đối với Ngân hàng là rủi ro tín dụng và nó cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của Ngân hàng, bằng chứng là đã xảy ra những cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới... Có thể nói bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng có thể lâm và tình trạng đó, vì thế vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ đối là cần thiết đối với Ngân hàng, với khách hàng mà còn đối với toàn xã hội nữa.
Về phía Ngân hàng: Ngân hàng thương mại giống như các nhà kinh doanh: bỏ vốn của mình ra và mong muốn thu được lợi nhuận và thu hồi vốn. Như vậy đảm bảo chất lượng cho các khoản vay và cho vay bản thân nó đối với Ngân hàng đã là một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay không còn là cái bóng của Ngân hàng Trung Ương mà đã và đang dần trở thành một chủ thể kinh doanh độc lập, tự kiếm lợi nhuận lời ăn lỗ chịu, chịu trách nhiệm với khách hàng, với Ngân hàng Trung Ương. Do vậy mà Ngân hàng không thể không cần đến sự an toàn với các khoản vay.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ để chuyển sang một nền kinh tế thị trường. Bản thân mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chưa thoát khỏi tư tưởng bao cấp, tư duy về nền kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế, do đó việc làm ăn của các doanh nghiệp có nguy cơ dẫn đến rủi ro là rất lớn. Vì thế để nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng không chỉ là người cung cấp vốn cho các doanh nghiệp mà Ngân hàng còn phải là người hiểu rõ hơn ai hết về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, có như thế thì Ngân hàng mới mở rộng được các dịch vụ của mình như dịch vụ tư vấn...giúp doanh nghiệp tránh khỏi được những rủi ro không đáng có.
Như vậy, có thể thấy mục tiêu nâng cao chất lượng cho vay là điều kiện tối ưu cần thiết cho mỗi Ngân hàng, nó vừa là yếu tố không những đảm bảo cho Ngân hàng duy trì hoạt động mà còn giúp Ngân hàng phát triển. Nếu đi ngược lại mục tiêu trên, Ngân hàng sẽ đi đến chỗ tự huỷ diệt chính mình.
Về phía nhà đầu tư: Khách hàng của Ngân hàng có hai loại: Người gửi tiền và người vay tiền. Người gửi tiền thì họ quan tâm đến khả năng thanh toán của Ngân hàng mà khả năng thanh toán của Ngân hàng lại có mối quan hệ mật thiết với chất lượng của các khoản tín dụng vì vậy đối với họ nâng cao chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến những khoản tiền gửi của họ vào Ngân hàng. Người vay tiền là người trực tiếp sử dụng giá trị sử dụng của các khoản vốn vay Ngân hàng, mà đối với họ chất lượng tín dụng chính là sự thoả mãn của họ về khoản tín dụng đó. Cuối cùng phải làm sao cho khoản tín dụng đó đem lại lợi nhuận cho họ để họ có thể trang trải chi phí và có lãi. Bởi thế bản thân người vay tiền coi vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết và ngày càng phải được nâng cao.
Nếu xét trên quan điểm toàn xã hội thì vấn đề chất lượng tín dụng cũng là vấn đề cần thiết. Bởi một đồng vốn của Ngân hàng cho vay nó là đầu mối trong tất cả các mối quan hệ kinh tế, nếu người sử dụng vốn đó hiệu quả thì cũng đồng nghĩa với việc nó co hiệu quả đối với Ngân hàng và xã hội bởi nó sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đóng góp phát triển các công trình phúc lợi xã hội. Hơn nữa sự xụp đổ của hệ thống Ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nó có thể làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái trầm trọng và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ xã hội. Do đó vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng cũng được cả xã hội quan tâm.
Nhân tố khách quan.
- Môi trường kinh tế xã hội.
Nói đến môi trường kinh tế xã hội là nói đến tổng thể nền kinh tế quốc gia và thế giới. Như ta đã biết mọi thành phần kinh tế đều hoạt động trong xã hội. Vì thế môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của Ngân hàng.
Một nền kinh tế ổn định sẽ dẫn đến một chính sách tín dụng tự do so với một nền kinh tế lệ thuộc vào các biến động thời vụ và chu kỳ. Các khoản ký thác trong nền kinh tế không ổn định thường chao đảo biến động mạnh so với các khoản ký thác trong một nền kinh tế ổn định. Nhiều người vay đã làm ăn phát đạt trong những giai đoạn thịnh vượng nhưng trong giai đoạn suy thoái vốn có thể bị tiêu tan, lợi nhuận có thể bị giảm sút, từ đó có thể gây nên tình trạng Ngân hàng không thu hồi được vốn. Một yếu tố hiển nhiên ảnh hưởng đến chính sách tín dụng của Ngân hàng là đường lối chủ trương cuả Quốc gia, địa phương. Lý do chủ yếu để Ngân hàng được tồn tại là nhằm phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng xã hội. Về mặt lý luận các Ngân hàng chỉ cho người nào vay nếu đưa ra được yêu cầu xin vay hợp lệ, hợp pháp và lành mạnh về kinh tế, phù hợp với chủ trương của Nhà nước.
Mức độ phát triển kinh tế của địa phương quy định quy mô và khối lượng đầu tư tín dụng. Nếu đầu tư tín dụng vượt quá khối lượng cần thiết, không phù hợp với sự phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Nhiều Ngân hàng thương mại do nóng vội mở rộng đầu tư, nâng cao dư nợ, đẩy tỷ lệ tăng trưởng tín dụng vượt quá mức tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đều phải trả giá cho sự nóng vội.
- Môi trường pháp lý.
Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn ổn định và phát triển thì cũng cần có một hành lang pháp lý thích hợp, hành lang pháp lý chính là bàn tay hữu hình của Nhà nước tác động vào nền kinh tế nhằm hướng nền kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu, chế độ của mình. Hoạt động Ngân hàng là một trong những hoạt động kinh tế trong tổng thể nền kinh tế vì vậy nó cũng chịu ảnh hưởng của hệ thống Pháp luật nhất là Luật các tổ chức tín dụng. Nói đến môi trường pháp lý là nói đến tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, tính thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí.
Việc hoàn chỉnh cơ chế, thể hiện tín dụng của ngành đúng với Luật Ngân hàng, phù hợp với thực tiễn là một điều quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng.
Hiện nay nước ta có nhiều bộ luật, tuy nhiên vẫn còn có nhiều bất cập chưa sát với thực tế gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện như vậy việc vận dụng thực thi các bộ luật đã có như thế nào để có thể tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động Ngân hàng là vấn đề có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng.
- Trình độ quản lý, năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân vay vốn.
Trong khi các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng và quản lý vốn của mình thì Ngân hàng sử dụng vốn của mình dưới hình thức gián tiếp: Đó là giao vốn cho doanh nghiệp không được trực tiếp quản lý vốn của mình mà thông qua hình thức giám sát doanh nghiệp vay vốn. Do vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng chịu nhiều chi phối từ bản thân hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn.
Chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay xấu, tương lai phát triển của doanh nghiệp ở mức nào? Dự án, phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có đủ khả năng tồn tại và phát triển được trong cuộc cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường hay không? Điều này có ý nghĩa quyết định cho số phận món vay. Nếu doanh nghiệp kinh doanh trên đà phát triển có hiệu quả thì vốn vay Ngân hàng chắc chắn sẽ được hoàn trả đúng hạn cho Ngân hàng cả gốc và lãi.
Mức độ chuyển biến về nhận thức quan điểm tâm lý của ban lãnh đạo doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường ra sao? Họ có đầy đủ ý thức và trách nhiệm trả nợ đối với khoản vay hay vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp trông chờ nguồn vốn được cấp , được ưu đãi... Trình độ quản trị điều hành ở mức độ nào? Đã đáp ứng được mức độ nào trong điều kiện kinh tế hiện thời. Một doanh nghiệp trở nên hưng thịnh phát triển trong khi một doanh nghiệp khác làm ăn thua lỗ suy xụp . Sự khác biệt này có nguyên nhân xuất phát từ trình độ, chất lượng quản lý.
Như vậy có thể nói việc quản lý sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả, đảm bảo trả nợ Ngân hàng và có lợi nhuận cho doanh nghiệp là điều rất cần thiết đối với các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có trình độ quản lý tốt, năng lực sản xuất kinh doanh tốt, bảo tồn và phát triển vốn vay thì chất lượng đầu tư tín dụng của Ngân hàng sẽ cao và ngược lại.
Nhân tố chủ quan của Ngân hàng.
Năng lực, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ của Ngân hàng trong cơ chế thị trường có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng món vay của Ngân hàng.
Chúng ta đứng trước một thực trạng chung là xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Xu thế này ngày càng hình thành rõ rệt mà nét nổi bật là nền kinh tế quốc tế thị trường đang trở thành một không gian trung cho tất cả các nước. Các thị trường tài chính ở phạm vi hoạt động dường như không biên giới, vừa tạo điều kiện có cơ hội mới cho Ngân hàng vừa làm sâu sắc thêm quá trình cạnh tranh, đặt Ngân hàng trước những thách thức mới. Bởi vậy nếu Ngân hàng nào không nhận thức được điều này, không tự đổi mới, tìm cách tạo dựng và phát triển thế mạnh riêng của mình, có hướng đi và chính sách tín dụng thích hợp thì sẽ khó lòng tồn tại và phát triển, trong đó chiến lược con người giữ vai trò chủ đạo.
Thực tế cho thấy rằng, nếu Ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhanh, nhạy, sáng tạo trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của Ngân hàng thì Ngân hàng đó có thể đứng vững và phát triển, ngày càng có uy tín. Trong khi đó có những cán bộ tín dụng gian dối trong thẩm định tín dụng của Ngân hàng đánh giá sai tài sản thế chấp, lơ là sự giám sát đối với các doanh nghiệp để Ngân hàng gặp rủi ro.
Bên cạnh đó các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch hoạ, cơ chế chính sách, khách hàng gặp khó khăn dẫn tới thua lỗ... thì bản thân Ngân hàng phải chịu trách nhiệm chính cho hiện tượng chất lượng tín dụng bị giảm. Trong đó vai trò của cán bộ tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các món vay, bởi họ chính là người trực tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, đề suất cho vay và theo dõi quản lý thu nợ của khách hàng. Chính vì vậy cán bộ tín dụng là người, nguồn lực quan trọng nhất của các Ngân hàng khi tìm nguyên nhân nợ quá hạn, các khoản vay không thu hồi được.
Như vậy, để có một khoản vay tốt thì cần phải có nhiều điều. Ngoài một báo cáo tài chình vững mạnh cần có đội ngũ cán bộ tín dụng vững về kỹ thuật nghiệp vụ, trực giác nhạy bén sắc sảo. Thông qua việc đào tạo và lựa chọn những cán bộ có năng lực, thiết lập một cơ chế tổ chức thích hợp thì các Ngân hàng bắt đầu một quá trình cải thiện chất lượng tín dụng, giảm thiểu các rủi ro để ngày một nâng cao uy tín của mình trong xã hội.
Nhóm chỉ tiêu định tính.
Nhóm chỉ tiêu này nhằm đánh giá tình hinh, quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng của Ngân hàng.
Khi cho vay vốn Ngân hàng phải tuân thủ 3 nguyên tăc đó là:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
- Vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương.
- Vốn vay phải được hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết.
Ba nguyên tắc tín dụng trên hình thành một quy luật nội tại của tín dụng. Trên thực tế cho thấy, một khi cả ba nguyên tắc ấy, hoặc một trong ba nguyên tắc ấy bị coi nhẹ, hoặc quá nhấn mạnh nguyên tắc này xem nhẹ nguyên tăc kia sẽ dẫn đến tình trạng khách hàng mất khả năng thanh toán, phá sản, đổ bể một dự án, một doanh nghiệp, một Ngân hàng. Khi nói đến chất lượng tín dụng chúng ta phải xem xét đến chất lượng tuân thủ nghiêm ngặt cả ba nguyên tắc trên.
Nhóm chỉ tiêu định lượng.
Tỷ lệ nợ quá hạn.
Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của Ngân hàng thương mại tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quí hoặc cuối năm.
Nguyên tắc quan trọng nhất của cho vay là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng cho vay. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó sẽ vi phạm nguyên tắc cho vay quan trọng nhất của Ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề , có khả năng mất vốn lớn, có nghĩa là tính an toàn thấp.
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là một tất yếu, có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro gồm cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do khách hàng vay không có khả năng trả nợ được, hoặc không muốn trả nợ. Nguyên nhân chủ quan là do sự yếu kém của bản thân Ngân hàng thương mại. Do đó nợ quá hạn của Ngân hàng thương mại luôn tồn tại, rất khó tránh khỏi. Nhưng nếu Ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn hay tỷ lệ nợ quá hạn quá cao sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh, sẽ có nguy cơ mất vốn, dễ dẫn đến mất khả năng thanh toán , thậm chí làm phá sản một Ngân hàng. Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là chất lượng cho vay thấp. Chỉ tiêu này thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất lượng cho vay của Ngân hàng thương mại. Phân tích chất lượng thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn cần chú ý như sau:
- Nợ quá hạn theo nguyên nhân.
- Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế có tài sản thế chấp hay không có tài sản thế chấp, có khả năng thu hồi hay không có khả năng thu hồi.
- Nợ quá hạn theo thời gian: Nợ quá hạn dưới 180 ngày, nợ quá hạn trên 180 ngày.
Giải quyết nợ quá hạn là môt quan tâm thường trực của tất cả các Ngân hàng thương mại và có nhiều vấn đề cần phải làm, song việc quan trọng nhất là chất lượng cho vay.
- Hiệu suất sử dụng vốn vay.
Chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng cho vay được bao nhiêu trên một đồng vốn huy động. Do Ngân hàng phải trả lãi cho các khoản tiền mà Ngân hàng đi vay nên Ngân hàng cần tận dụng hết sức các khoản vốn huy động để tạo ra lợi nhuận bù đắp chi phí và có lãi. Mục đích của Ngân hàng là làm sao tạo ra được nhiều khoản tín dụng lành mạnh và có hiệu quả, góp phần mở rộng và tăng cường sự ổn định hoạt động của Ngân hàng.
- Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích.
Một trong những nguyên tắc vay vốn Ngân hàng là phải sử dụng vốn đúng mục đích như đã thoả thuận. Nếu như sử dụng vốn sai mục đích thì điều đó chứng tỏ có hành vi lừa dối Ngân hàng và khoản cho vay này có nguy cơ mất khả năng hoàn trả cao. Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích càng cao thì chất lượng cho vay bị đánh giá càng thấp và ngược laị.
- Chỉ tiêu lợi nhuận.
Như đã đề cập, lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của Ngân hàng. Vì vậy lợi nhuận tăng hàng năm, điều đó chứng tỏ chất lượng cho vay đã được tăng lên hoặc Ngân hàng thương mại đã mở rộng công tác cho vay. Chỉ tiêu này cũng chỉ là chỉ tiêu tương đối vì như ta biết lợi nhuận được thu từ nhiều nguồn và nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Chính sách thu nhập, chi phí của Chính phủ, chính sách lãi suất, chính sách khách hàng...
Vì vậy mỗi chỉ tiêu đưa ra phải được xem xét trong mối quan hệ với tất cả các chỉ tiêu khác, có như vậy mới đánh giá được chất lượng tín dụng và có phương án để nâng cao chất lượng tín dụng.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội là một Chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Chi nhánh hoạt động trên địa bàn Gia Lâm tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Chi nhánh đã đưa ra tiêu chuẩn chất lượng trong một quy trình tín dụng ngắn hạn riêng cho mình dựa trên lý thuyết tổng quát và các văn bản pháp luật liên quan.
( Tiêu chuẩn chất lượng của quy trình tín dụng ngắn hạn trang bên ).
Tiêu chuẩn chất lượng của quy trình tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội.