Thông tin

Số điện thoại

Email

Website

Địa chỉ

Cao Bá Quát 高伯适

Cao Bá Quát 高伯适 (1809?-1855) tự Chu Thần 周臣, sinh tại Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, mất giữa trận tiền Quốc Oai trong cuộc khởi nghĩa chống triều đình thời Tự Đức... Tự Đức tru di ba họ Cao Bá Quát, thu hồi tiêu huỷ văn chương ông. Nhưng ông được lòng dân bảo vệ: một rừng truyền thuyết ca ngợi tài thơ, lòng dũng cảm, trí thông minh và tinh thần thương dân yêu nước của ông. Tác phẩm của ông còn được lưu đến nay là 1353 bài thơ, 21 bài văn xuôi, một số bài ca trù và khá nhiều câu đối. Thập tải luân giao cầu cổ kiếm Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Mười năm giao thiệp tìm gươm báu Một đời chỉ cúi trước hoa mai) Đôi câu đối ấy đã thâu tóm khá đầy đủ hoài bão và phẩm chất Cao Bá Quát. Lúc trẻ Cao Bá Quát cũng như trăm nghìn sỹ tử khác mong học giỏi đỗ cao để giúp đời. Trong thơ thấy rõ cái hăng hái thường tình ấy: “Trên đường công danh đã mấy ai nhàn/ Mũ lọng nhộn nhịp ta cũng đi đây” . Nhưng cũng nhận ra ngay trong cơn hăng hái trên đường đi thi ấy cái khí phách khác thường của ông: Sóng biển trào lên như đầu bạc lô nhô Gió giận dữ đánh chìm cả những chiếc thuyền to Chớp giật sấm ran ai nấy đều xanh mắt, Giữa cảnh, con chim hải âu vẫn nhởn nhơ Sau này trong truyền thuyết về Cao nhiều giai thoại cũng vẽ nên sự bình thản của ông giữa gian lao như hải âu giữa bão: “Một chiếc cùm lim chân có đế/ Ba vòng xích sắt bước thì vương” . Khí phách ấy bắt nguồn từ chất tâm hồn của Cao Bá Quát. Tâm hồn ấy cao rộng. Qua núi Dục Thuý: “Ta muốn trèo lên đỉnh núi cao ngất kia/ Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước” . Tâm hồn ấy giàu năng lực bên trong, chấp nhận cái khó của đường đời: Bãi cát dài, bãi cát dài! Bước một bước lại như lùi một bước. Trong tình cảnh oan khốc bị giam cầm, tra tấn chỉ vì tội sửa vào bài thi cho một thí sinh có tài vô ý phạm trường quy, ông tỉnh táo và can đảm coi việc mình làm là việc thiện, mà việc thiện thì ở hoàn cảnh nào cũng nên làm. Ông coi công lý thời ấy như cái máy làm nhục người (Bài thơ tả cái cùm). Ông nhìn thẳng vào chiếc roi da đang quật nhoang nhoáng vào người mình, ông tả nó và tả chính tâm trạng mình, như một cuộc đọ sức. Cái việc tả chính xác với các chi tiết nghiêm lạnh cho thấy ai vững hơn ai: Roi quất nhoang nhoáng bay đi liệng lại như ánh chớp. Lúc giơ lên như hai con thuồng luồng quật vào bờ ao lở Lúc ngừng như nước lạnh đổ vào nồi nước sôi (...) Ở nơi góc đài những giọt sương trong cũng vì ta mà bay lên Roi song rủ xuống thôi không hăng như trước nữa Chắp tay đứng, ruột mềm quặn lại như cuốn vào ngón tay được. Ông nhìn sông dài như lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh. Ông hỏi hoa sen ngươi có hồng bằng mặt rượu của ta không? Ông thấy núi như chiếc chén xà cừ của khách say. Khí phách, tài tử như Cao Bá Quát lại là người thắm thiết tình cảm, đặc biệt tình cảm gia đình. Ông có những câu thơ thương vợ thương con tình cảm chân thực, ngôn ngữ mộc mạc, hình như ông không muốn vẻ đẹp của tài thơ làm mờ đi nét thực của cảm xúc. Một số truyền thuyết muốn nhấn mạnh khí phách Cao Bá Quát đã mô tả ông có tính cách ngang tàng khinh bạc, coi nhẹ tình cảm, e không đúng. Cao Bá Quát khí phách nhưng đa cảm, đó là sự phong phú của tâm hồn ông. Thương xót người thân và thương xót mọi người nghèo khổ, bị ức hiếp. Hãy nghe ông mời một người đói cùng ăn: “Than ôi hãy ngừng lệ/ Một bữa ta tạm mời/ Đời người như quán trọ/ Ung dung nào mấy ai/ Thong thả đừng nuốt vội/ No ứ dễ hại người” . Cao Bá Quát đã thấy nguồn gốc nỗi khổ ấy, không dễ nói thẳng ra, nhưng ông đã tìm cách nói: Nghe nói xe Rồng vừa ngự tới Cung vua sẵn đó lại cung vua Tâm sự nhà nho Cao Bá Quát rối bời: “Tâm sự và tóc có chi phải so sánh vắn dài/ Đến lúc đã rối bời thì cùng rối bời như nhau” . Rối bời vì ái quốc thì không thể trung quân. Cuối đời, những bài thơ Cao Bá Quát càng nặng trĩu nội tâm. Không chỉ buồn thương, mà có buồn thương cũng không chỉ vì thân danh mình lận đận. Hoài bão của con người một đời chỉ cúi trước hoa mai rộng xa hơn nhiều. Trước cảnh đời ngang trái ấy ông không thể làm tấm bia không chữ: “Thế sự hà kham một tự bi” . Ông phải có thái độ, nhưng thái độ ấy không thể nói trong thơ. Ông như cái hạt sen ôm tấm lòng đắng ngắt chỉ mình mình biết: “Liên tử hữu tâm tri độc khổ” . Đêm xuân đọc sách mà như đối thoại với người xưa ( “Bùi ngùi xuân này ngồi đối diện với người xưa” ) mà như giao lưu với vũ trụ ( “Dưới có người không ngủ/ Trên có vì sao muốn rơi” ). Trong bài Tiễn Nguyễn Trúc Khê ra nhận chức tại phủ Thường Tín, ý chí hành động của Cao Bá Quát đã rõ, sau khi nhắc đến Chu An, Nguyễn Trãi, ông viết: Khách nam nhi chẳng vì thế thái Đem thân ra đỡ lấy cương thường Năm 1853 Cao Bá Quát đã trở thành một trong những người lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương. Bối cảnh lịch sử chưa đủ chín để cuộc khởi nghĩa thành công. Nhưng Cao Bá Quát đã trở thành hình tượng sáng chói của lớp nhà thơ hoạt động, từ thơ mà thành chiến sỹ, lấy máu để diễn tả cao nhất cảm xúc của chính mình. Cao Bá Quát 高伯适 (1809?-1855) tự Chu Thần 周臣, sinh tại Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, mất giữa trận tiền Quốc Oai trong cuộc khởi nghĩa chống triều đình thời Tự Đức... Tự Đức tru di ba họ Cao Bá Quát, thu hồi tiêu huỷ văn chương ông. Nhưng ông được lòng dân bảo vệ: một rừng truyền thuyết ca ngợi tài thơ, lòng dũng cảm, trí thông minh và tinh thần thương dân yêu nước của ông. Tác phẩm của ông còn được lưu đến nay là 1353 bài thơ, 21 bài văn xuôi, một số bài ca trù và khá nhiều câu đối. Thập tải luân giao cầu cổ kiếm Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Mười năm giao thiệp tìm gươm báu Một đời chỉ cúi trước hoa mai) Đôi câu đối ấy đã thâu tóm khá đầy đủ hoài bão và phẩm chất Cao Bá Quát. Lúc trẻ Cao Bá Quát cũng như trăm nghìn sỹ tử khác mong học giỏi đỗ cao để giúp đời. Trong thơ thấy rõ c… Thơ chữ Hán Thơ chữ Nôm

Cao Bá Quát 高伯适 (1809?-1855) tự Chu Thần 周臣, sinh tại Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, mất giữa trận tiền Quốc Oai trong cuộc khởi nghĩa chống triều đình thời Tự Đức... Tự Đức tru di ba họ Cao Bá Quát, thu hồi tiêu huỷ văn chương ông. Nhưng ông được lòng dân bảo vệ: một rừng truyền thuyết ca ngợi tài thơ, lòng dũng cảm, trí thông minh và tinh thần thương dân yêu nước của ông. Tác phẩm của ông còn được lưu đến nay là 1353 bài thơ, 21 bài văn xuôi, một số bài ca trù và khá nhiều câu đối.
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Mười năm giao thiệp tìm gươm báu
Một đời chỉ cúi trước hoa mai)
Đôi câu đối ấy đã thâu tóm khá đầy đủ hoài bão và phẩm chất Cao Bá Quát. Lúc trẻ Cao Bá Quát cũng như trăm nghìn sỹ tử khác mong học giỏi đỗ cao để giúp đời. Trong thơ thấy rõ cái hăng hái thường tình ấy: “Trên đường công danh đã mấy ai nhàn/ Mũ lọng nhộn nhịp ta cũng đi đây”. Nhưng cũng nhận ra ngay trong cơn hăng hái trên đường đi thi ấy cái khí phách khác thường của ông:
Sóng biển trào lên như đầu bạc lô nhô
Gió giận dữ đánh chìm cả những chiếc thuyền to
Chớp giật sấm ran ai nấy đều xanh mắt,
Giữa cảnh, con chim hải âu vẫn nhởn nhơ
Sau này trong truyền thuyết về Cao nhiều giai thoại cũng vẽ nên sự bình thản của ông giữa gian lao như hải âu giữa bão: “Một chiếc cùm lim chân có đế/ Ba vòng xích sắt bước thì vương”.

Khí phách ấy bắt nguồn từ chất tâm hồn của Cao Bá Quát. Tâm hồn ấy cao rộng. Qua núi Dục Thuý: “Ta muốn trèo lên đỉnh núi cao ngất kia/ Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước”. Tâm hồn ấy giàu năng lực bên trong, chấp nhận cái khó của đường đời:
Bãi cát dài, bãi cát dài!
Bước một bước lại như lùi một bước.
Trong tình cảnh oan khốc bị giam cầm, tra tấn chỉ vì tội sửa vào bài thi cho một thí sinh có tài vô ý phạm trường quy, ông tỉnh táo và can đảm coi việc mình làm là việc thiện, mà việc thiện thì ở hoàn cảnh nào cũng nên làm. Ông coi công lý thời ấy như cái máy làm nhục người (Bài thơ tả cái cùm). Ông nhìn thẳng vào chiếc roi da đang quật nhoang nhoáng vào người mình, ông tả nó và tả chính tâm trạng mình, như một cuộc đọ sức. Cái việc tả chính xác với các chi tiết nghiêm lạnh cho thấy ai vững hơn ai:
Roi quất nhoang nhoáng bay đi liệng lại như ánh chớp.
Lúc giơ lên như hai con thuồng luồng quật vào bờ ao lở
Lúc ngừng như nước lạnh đổ vào nồi nước sôi (...)
Ở nơi góc đài những giọt sương trong cũng vì ta mà bay lên
Roi song rủ xuống thôi không hăng như trước nữa
Chắp tay đứng, ruột mềm quặn lại như cuốn vào ngón tay được.
Ông nhìn sông dài như lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh. Ông hỏi hoa sen ngươi có hồng bằng mặt rượu của ta không? Ông thấy núi như chiếc chén xà cừ của khách say. Khí phách, tài tử như Cao Bá Quát lại là người thắm thiết tình cảm, đặc biệt tình cảm gia đình. Ông có những câu thơ thương vợ thương con tình cảm chân thực, ngôn ngữ mộc mạc, hình như ông không muốn vẻ đẹp của tài thơ làm mờ đi nét thực của cảm xúc. Một số truyền thuyết muốn nhấn mạnh khí phách Cao Bá Quát đã mô tả ông có tính cách ngang tàng khinh bạc, coi nhẹ tình cảm, e không đúng. Cao Bá Quát khí phách nhưng đa cảm, đó là sự phong phú của tâm hồn ông. Thương xót người thân và thương xót mọi người nghèo khổ, bị ức hiếp. Hãy nghe ông mời một người đói cùng ăn: “Than ôi hãy ngừng lệ/ Một bữa ta tạm mời/ Đời người như quán trọ/ Ung dung nào mấy ai/ Thong thả đừng nuốt vội/ No ứ dễ hại người”. Cao Bá Quát đã thấy nguồn gốc nỗi khổ ấy, không dễ nói thẳng ra, nhưng ông đã tìm cách nói:
Nghe nói xe Rồng vừa ngự tới
Cung vua sẵn đó lại cung vua
Tâm sự nhà nho Cao Bá Quát rối bời: “Tâm sự và tóc có chi phải so sánh vắn dài/ Đến lúc đã rối bời thì cùng rối bời như nhau”. Rối bời vì ái quốc thì không thể trung quân.

Cuối đời, những bài thơ Cao Bá Quát càng nặng trĩu nội tâm. Không chỉ buồn thương, mà có buồn thương cũng không chỉ vì thân danh mình lận đận. Hoài bão của con người một đời chỉ cúi trước hoa mai rộng xa hơn nhiều. Trước cảnh đời ngang trái ấy ông không thể làm tấm bia không chữ: “Thế sự hà kham một tự bi”. Ông phải có thái độ, nhưng thái độ ấy không thể nói trong thơ. Ông như cái hạt sen ôm tấm lòng đắng ngắt chỉ mình mình biết: “Liên tử hữu tâm tri độc khổ”. Đêm xuân đọc sách mà như đối thoại với người xưa (“Bùi ngùi xuân này ngồi đối diện với người xưa”) mà như giao lưu với vũ trụ (“Dưới có người không ngủ/ Trên có vì sao muốn rơi”). Trong bài Tiễn Nguyễn Trúc Khê ra nhận chức tại phủ Thường Tín, ý chí hành động của Cao Bá Quát đã rõ, sau khi nhắc đến Chu An, Nguyễn Trãi, ông viết:
Khách nam nhi chẳng vì thế thái
Đem thân ra đỡ lấy cương thường
Năm 1853 Cao Bá Quát đã trở thành một trong những người lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương. Bối cảnh lịch sử chưa đủ chín để cuộc khởi nghĩa thành công. Nhưng Cao Bá Quát đã trở thành hình tượng sáng chói của lớp nhà thơ hoạt động, từ thơ mà thành chiến sỹ, lấy máu để diễn tả cao nhất cảm xúc của chính mình.
Cao Bá Quát 高伯适 (1809?-1855) tự Chu Thần 周臣, sinh tại Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, mất giữa trận tiền Quốc Oai trong cuộc khởi nghĩa chống triều đình thời Tự Đức... Tự Đức tru di ba họ Cao Bá Quát, thu hồi tiêu huỷ văn chương ông. Nhưng ông được lòng dân bảo vệ: một rừng truyền thuyết ca ngợi tài thơ, lòng dũng cảm, trí thông minh và tinh thần thương dân yêu nước của ông. Tác phẩm của ông còn được lưu đến nay là 1353 bài thơ, 21 bài văn xuôi, một số bài ca trù và khá nhiều câu đối.
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Mười năm giao thiệp tìm gươm báu
Một đời chỉ cúi trước hoa mai)
Đôi câu đối ấy đã thâu tóm khá đầy đủ hoài bão và phẩm chất Cao Bá Quát. Lúc trẻ Cao Bá Quát cũng như trăm nghìn sỹ tử khác mong học giỏi đỗ cao để giúp đời. Trong thơ thấy rõ c…

Thơ chữ Hán

Thơ chữ Nôm

Bài liên quan

Cao Tiêu Hoàng Ngọc Tiêu

Cao Tiêu (1929-2012) tên thật là Hoàng Ngọc Tiêu, sinh tại xã Dưỡng Thông, huyện Kiến Xương, Thái Bình. Ông cùng gia đình di cư vào Nam năm 1954. Ông học khoá 4 trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt rồi tham gia quân đội. Từ năm 1968 đến năm 1975 ông cũng là chủ nhiệm nguyệt san Tiền phong và bán nguyệt san ...

Cao Xuân Sơn

Cao Xuân Sơn sinh năm 1961, quê gốc xóm Phúc Thọ, thôn Vạn Thọ, xã Nhân Bình, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông vốn là giáo viên văn, dạy học ở Đồng Nai. Từ 1991 ông về TP. Hồ Chí Minh làm báo rồi làm sách. Là Trưởng Ban đại diện phía Nam Tạp chí Thanh Niên, chủ biên nguyệt san chuyên đề Tuổi trẻ sống ...

Chân Không thiền sư 真空禪師, Vương Hải Thiềm

Chân Không thiền sư 真空禪師 (1046–1100) tên thật là Vương Hải Thiềm 王海蟾, người làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, mồ côi sớm, nhưng ham học. Năm 18 tuổi, đến nghe giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Tịnh Lự, núi Đông Cứu, bắt đầu tỏ ngộ, đến tu ở núi Từ Sơn, nghiên cứu Thiền học. Được vua Lý Nhân Tông vời vào cung ...

Chu Trầm Nguyên Minh Phạm Minh Tâm

Chu Trầm Nguyên Minh tên thật là Phạm Minh Tâm, nguyên quán ở Phổ Cường, Đức Phổ, Quảng Ngãi. Ông sinh năm 1943 tại làng Phú Bình, Hàm Liêm, Hàm Thuận, Bình Thuận (ngoại ô Phan Thiết). Gia đình ông có sáu anh chị em, nhà thơ là con thứ năm. Cha ông là cán bộ Việt Minh, chết trong kháng chiến chống ...

Đạm Phương Đồng Canh, Đạm Phương nữ sử

Đạm Phương (1881-1948) tên hồi nhỏ là Công nữ Đồng Canh, khi viết báo lấy hiệu là Đạm Phương nữ sử, sinh tại làng An Cựu, huyện Hương Thuỷ, thành phố Huế, gọi vua Minh Mạng bằng ông nội, lấy chồng là Nguyễn Khoa Tùng, có con trai là Hải Triều Nguyễn Khoa Văn. Bà viết thơ, văn xuôi đăng trên các báo ...

Diệu Nhân ni sư 妙因尼師

Diệu Nhân ni sư 妙因尼師 (1041–1113) tên thật là Lý Ngọc Kiều 李玉嬌, người hương Phù Đổng huyện Tiên Du, là con gái đầu của Phụng càn vương, được vua Lý Thánh Tông (1054-1072) nuôi dạy ở trong cung từ nhỏ. Khi đến tuổi trưởng thành, vua đem gả cho người họ Lê làm châu mục châu Chân Đăng. Chồng chết, bà ...

Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy

Đằng Phương (1924-1990) tên thật là Nguyễn Ngọc Huy, sinh năm 1924 tại Chợ Lớn, Đông Dương thuộc Pháp. Nguyên quán của ông thuộc làng Mỹ Lộc, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hoà. Thuở nhỏ, ông theo học bậc tiểu học ở trường xã Mỹ Lộc rồi sau đó là trường quận Tân Uyên. Đến bậc Trung học, ông theo học tại ...

Dương Thúc Hạp 楊叔合

Dương Thúc Hạp 楊叔合 (1835-1920) hiệu là Ngọc Hiên 玉軒, người xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông thi đỗ Cử nhân năm Kỷ Mão, niên hiệu Tự Đức 32 (1879) đời vua Lê Dực Tông và thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Giáp Thân, niên hiệu Kiến Phúc 1 (1884) đời vua Nguyễn Giản Tông. Ông ...

Cao Bá Nhạ

Cao Bá Nhạ (?-?) người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông là con Cao Bá Đạt và là cháu Cao Bá Quát. Hiện chưa biết Cao Bá Nhạ có đỗ đạt và làm quan không, chỉ biết ông là người giỏi việc văn chương. Năm 1855, sau khi cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do chú ruột của ...

Cao Ngọc Lễ 高玉礼

Cao Ngọc Lễ 高玉礼 (?-?) hiệu 憔子 là quan nhà Nguyễn và là cộng sự của thực dân Pháp trong lịch sử Việt Nam. Ông là người xã Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Ông vừa là cháu gọi Tống Duy Tân bằng cậu, vừa là học trò của vị tiến sĩ này. Trước đây, khi vua Hàm Nghi chạy ra Cam Lộ (Quảng Trị) ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...