24/02/2018, 19:51

Cảm nhận về đoạn trích Việt Bắc

Đề bài: Bài làm – Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Các chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, tháng 7-1954, Hiệp định Genever về ...

Đề bài:

Bài làm

– Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Các chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, tháng 7-1954, Hiệp định Genever về Đông Dương được kí kết. Hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được mở ra. Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ cân cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Và TốHữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc trong khoảng thời gian này.

Bài thơ là khúc hát tâm tình của con người Việt Nam trong kháng chiến thể hiện nghĩa tình thắm thiết với Việt Bắc – quê hương cách mạng, với đất nước và nhân dân, với cuộc kháng chiến nay đã trở thành kỷ niệm khiến niềm vui trong hiện tại luôn gắn kết với nghĩa tình trong quá khứ và niềm tin ở tương lai

Với hai nhân vật trữ tình là người đi – kẻ ở, bài thơ được kết cấu theo hình thức đối đáp tựa như những câu hát giao duyên trong ca dao xưa. Bốn câu đầu: Là khúc dạo đầu ân tình thủy chung và niềm nhớ thương đầy trăn trở của người ở lại với người ra đi câu hỏi láy lại da diết:

“Mình về mình có nhớ ta
… Mình về mình có nhớ không?”

“Mình” và “ta” là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong ca dao xưa, là lối xưng hô bình dị, thương mến vô cùng của tình yêu đôi lứa, trở thành những câu hỏi xao xuyến của nghĩa tình cách mạng, thể hiện nỗi nhớ nhung của người ở lại với người về xuôi. Thời gian mà “ta” và “mình” từng gắn bó, chia ngọt sẻ bùi với “biết bao nhiêu tình”, biết bao ân sâu nghĩa nặng.

Nếu câu hỏi thứ nhất “mình về mình có nhớ ta” làm xao xuyến lòng người bởi sự phảng phất giọng điệu những câu ca về tình yêu, thì câu hỏi thứ hai “mình về mình có nhớ không” lại khiến con người phải trăn trở rất nhiều

“Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Ý thơ còn đem đến những suy ngẫm sâu xa về nghĩa tình đạo lý, về cội nguồn chung thủy, về nét đẹp trong đời sống tư tưởng của một dân tộc luôn nhắc nhau “uống nước nhớ nguồn”.

“Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm”

Với những câu hỏi tu từ da diết, những hình thức điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, những cách vận dụng tinh tế và sáng tạo ca dao tục ngữ dân gian…, đoạn thơ đầu đã thể hiện ân tình sâu nặng của đồng bào miền Bắc với bộ đội, cán bộ kháng chiến trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến. Miêu tả cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến, nhớ nhung của người đi kẻ ở:

Tiếng ai tha thiết bên cồn 
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi 
Áo chàm đưa buổi phân ly 
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… "

Câu thơ đầu nhắc tới “tiếng ai tha thiết bên cồn” cho thấy những nhớ nhung xao xuyến, những day dứt trăn trở trong lòng người ở lại gửi gắm trong 4 câu thơ trên đã được người ra đi thấu hiểu cảm nhận.Sự đăng đối trong 2 vế câu thơ đã góp phần thể hiện sự đăng đối, đồng điệu trong cảm xúc của con người. “Bâng khuâng” là từ láy gợi ra những trạng thái cảm xúc mơ hồ khó tả bởi sự đan xen buồn vui, luyến tiếc nhớ nhung. “Bồn chồn” là tâm trạng thấp thỏm nôn nao khiến con người không yên.

“Áo chàm đưa buổi phân ly” là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân Việt Bắc nghèo khổ, nghĩa tình. Sắc áo chàm có thể nhòa mờ trong khói sương rừng núi nhưng sẽ vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của người về xuôi. Hình ảnh hoán dụ về chiếc áo chàm vừa gợi ra trang phục đặc trưng của người dân Việt Bắc, vừa khắc họa tính cách mộc mạc và tấm lòng son sắt của họ với cách mạng, với kháng chiến. Câu thơ đã đồng thời cho thấy cả sự xót xa và niềm cảm phục đầy thương mến của những người ra đi với đồng bào Việt Bắc:

"Mình đi, có nhớ những ngày 
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? 
Mình về, có nhớ chiến khu 
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? 
Mình về, rừng núi nhớ ai 
Trám bùi để rụng, măng mai để già 
Mình đi, có nhớ những nhà 
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son 
Mình về, còn nhớ núi non 
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh 
Mình đi, mình có nhớ mình 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? "

Đoạn thơ gồm sáu câu hỏi của người ở lại với người ra đi, những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi giờ phút chia tay đang đến gần. Nhạc điệu trữ tình ấy đã góp phần thể hiện tinh tế nỗi vấn vương, xao xuyến nghẹn ngào.

Trong những lời nhắc nhở tha thiết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc đã hiện lên thật sống động từ những khắc nghiệt của thiên nhiên với “mưa nguồn, suối lũ, lau xám, mây mù…” tới cuộc sống kháng chiến gian khổ thiếu thốn với “miếng cơm chấm muối”, từ những trang sử hào hùng “khi kháng Nhật, thuở Việt minh” tới những sự kiện trọng đại của cách mạng và kháng chiến nơi “Tân Trào, Hồng Thái…”Khi Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, khi người dân Việt Bắc một lòng đi theo cách mạng thì những sự kiện lớn lao của cách mạng sẽ trở thành sự quan tâm thiêng liêng. 

Nhớ về nhân dân Việt Bắc đã chia ngọt sẻ bùi,đùm bọc trở che cho cách mạng,kháng chiến và cuộc kháng chiến tươi vui lạc quan. Đoạn thơ dành cho người về xuôi:

“Ta với mình, mình với ta
… Chày đêm nện cối đều đều suối xa”

Tố Hữu đã để lại cho người về xuôi trả lời nhiều hơn. Vì suốt 15 năm thiết tha mặn nồng ấy, trong trái tim của người sắp phải xa cách chất chứa biết bao nỗi nhớ về những kỉ niệm kháng chiến, về “Quê hương Cách mạng dựng nên cộng hoà”. “Bao nhiêu” được so sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa khi ta đã sống ở đó rồi, lúc ra đi ta cảm thấy trái tim cứ dào lên biết bao nỗi vấn vương, thương nhớ, nhớ cả những vật vô tri tầm thường nhất

Hình ảnh thơ thật mộc mạc, chân thực mà giản dị như chính bản thân cuộc sống vậy. Ở đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay máu xương, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày: “củ sắn lùi”, “bát cơm”, chiếc chăn vỏ cây xù xì, thô nhám. Nhưng trong bối cảnh lúc bấy giờ, chúng là hiện thân của sự sống, của tình nghĩa. Quả là của chẳng đáng bao nhiêu, nhưng tình thì rất nặng. Hiểu như vậy, chúng ta càng thấm thía cái đẹp nhất của đời này là tình nghĩa của con người, sự san sẻ cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ; nghĩa tình càng đẹp hơn trong cuộc sống gian nan, thiếu thốn, càng thấm thía trong khó khăn, thử thách.

Từ những hình ảnh khắc hoạ chân thực cuốc sống đời thường nơi bản nhỏ, mạch thơ chuyển sang mô tả cuộc sống kháng chiến và Cách mạng gian khổ mà vui tươi, lạc quan:

“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi rừng
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”

Trong tiếng “ca vang núi rừng ấy”, có tiếng mõ trâu tìm về bản tận rừng sâu và có cả tiếng “đều đều” của chày giã gạo từ cối xa vọng lại tạo thành một bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc. Tất cả làm nên một bài ca trong trẻo, tươi vui mà không một cuộc sống gian nan khổ ải nào có thể dập tắt được. 

Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, cũng là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng, cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Bài thơ đã thể hiện những nét tiêu biểu nhất trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.

Minh

0