Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chè
Đây là điều kiện tiên quyết vì công nghệ dù có hiện đại đến đâu cũng không thể tạo ra sản phẩm tốt từ những nguyên liệu tồi. Chất lượng chè búp tơi được quyết định bởi các yếu tố: Có nhiều giống chè nhưng một số ...
Đây là điều kiện tiên quyết vì công nghệ dù có hiện đại đến đâu cũng không thể tạo ra sản phẩm tốt từ những nguyên liệu tồi. Chất lượng chè búp tơi được quyết định bởi các yếu tố:
Có nhiều giống chè nhưng một số giống chính đã chiếm phần lớn diện tích. Phía Bắc trồng phổ biến 3 giống: Chè Shan ở vùng cao, chè Trung du và PH1 ở vùng thấp. Ngoài ra còn có các giống mới khác như: LĐP1, LĐP2, TR777, Vân Xương, Bát Tiên, Ngọc Thuý, Yabukita và 17 giống của Nhật đang khảo nghiệm, chiếm diện tích chưa đáng kể. Phía Nam có các giống Shan, Ấn Độ, TB11, TB14. Trong các giống trên, giống Trung du chiếm diện tích lớn nhất ( 59% tổng diện tích ), sau đó đến giống Shan ( 27,3% ) còn lại là PH1 và các giống khác. Chỉ có giống Shan cho chất lượng khá, còn lại các giống Trung du và PH1 cho năng suất khá nhưng chất lượng không cao, vị chè hơi đắng, hơng kém thơm. Trong những năm qua, Viện nghiên cứu chè đã có nhiều cố gắng trong việc nhập nội thuần hoá, chọn lọc cá thể và lai tạo giống nhằm tạo ra một tập đoàn giống tốt và phong phú, tuy nhiên công tác này diễn ra còn chậm. Có thể nói giống chè ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chè xuất khẩu, hiện nay chúng ta vẫn chưa có nhiều giống chè có năng suất và chất lượng cao ngoại trừ chè Shan.
Đầu t cho trồng và chăm sóc chè đều thấp so với yêu cầu trung bình, đầu tư cho trồng là 6 - 7 triệu đồng/ ha đạt 40%, và cho chăm sóc là 3 - 3,5 triệu đồng/ ha đạt 80%. Ở những vùng nghèo, tỉ lệ này còn thấp hơn, thậm chí có vườn chè nhiều năm không được bón phân. Quy trình kỹ thuật chưa được thực hiện nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Bón phân chưa đủ, thiếu cân đối, nặng về phân đạm thiếu hữu cơ và vi lượng. Cơ cấu phân bón nh vậy không những làm nghèo đất, kiệt quệ cây chè, mà còn làm tăng vị đắng chát, giảm hơng thơm của sản phẩm. Cá biệt, một số đơn vị áp dụng công thức bón phân cân đối đã tạo nên chất lợng chè rất đặc trng nh Mộc Châu, Thanh Niên. Đặc biệt, vấn đề nghiêm trọng đáng báo động hiện nay là việc sử dụng thuốc trừ sâu tuỳ tiện, không đúng liều lợng, chủng loại và quy trình. Hậu quả là d lợng thuốc trừ sâu trong sản phẩm vợt quá mức cho phép; qua kiểm tra sản phẩm của 5 đơn vị với 15 mẫu, đã phát hiện 4 mẫu ( 26% ) của 3 đơn vị có d lợng thuốc trừ sâu cao.
Có thể coi thu hái là khâu cuối cùng trong công đoạn sản xuất nông nghiệp, sản phẩm của công đoạn này là những búp chè tơi sẽ đợc dùng làm nguyên liệu cho các công đoạn sau. Để đảm bảo chất lợng, việc hái chè phải tuân thủ nguyên tắc “một tôm hai lá” nghĩa là chỉ hái 1 búp và 2 lá non nhất. Trong những năm gần đây, việc hái chè và thu mua chè búp tơi không theo tiêu chuẩn đã diễn ra trong hầu khắp cả nớc, điển hình là ở những vùng buôn bán chè sôi động nh Yên Bái, Phú Thọ, Lâm Đồng. Ở những vùng này, vào thời điểm chính vụ, nhiều đơn vị không mua đợc chè B, thậm chí cả chè C nếu xét đúng tiêu chuẩn. Nhiều nơi không có khái niệm chè A, B. Chè hái quá già ( 5 - 7 lá ) và lẫn loại đã gây trở ngại cho quá trình chế biến, thiết bị chóng h hỏng và tất cả dẫn đến chất lợng thấp, hàng kém sức cạnh tranh.
Khi búp chè đã hái ra khỏi cây thì dù muốn dù không công đoạn chế biến cũng đã đợc bắt đầu, đó là quá trình héo. Từ đây, búp chè đã phải tham gia vào quá trình với những đòi hỏi khắt khe về thời gian và điều kiện bảo quản. Chính vì vậy, vận chuyển chè búp tơi có ảnh hởng rất lớn tới chất lợng sản phẩm. Hiện nay, khâu vận chuyển còn có nhiều nhợc điểm: thứ nhất, số lần cân nhận, thu mua và vận chuyển trong ngày ít, thờng chỉ 2 lần/ ngày ( so với Ấn Độ là 4 - 6 lần/ ngày ), nên chè thờng bị lèn chặt ở sọt hái trong thời gian dài, dẫn đến bị ngốt, nhất là vào mùa hè. Thứ hai, khoảng cách vận chuyển xa làm kéo dài thời gian vận chuyển. Thứ ba, không có xe chuyên dùng chở chè và không thực hiện đúng quy trình vận chuyển cũng dễ gây ôi ngốt dập nát.