Thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng thương Mại
Những vấn đề cơ bản về dự án đầu tư. Lí thuyết phát triển đã chỉ ra rằng: khả năng phát triển của một quốc gia được hình thành bởi các nguồn lực về vốn, công nghệ, lao động và tài nguyên thiên nhiên là hệ thống có mối ...
Những vấn đề cơ bản về dự án đầu tư.
Lí thuyết phát triển đã chỉ ra rằng: khả năng phát triển của một quốc gia được hình thành bởi các nguồn lực về vốn, công nghệ, lao động và tài nguyên thiên nhiên là hệ thống có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau rất chặt chẽ được biểu hiện bởi phương trình:
D =f(C,T,L,R)
D: khả năng phát triển của một quốc gia
C:khả năng về vốn
T: công nghệ
L:lao động
R: tài nguyên thiên nhiên
Rõ ràng để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh hay rộng là phát triển kinh tế xã hội thì nhất thiết phải có hoạt động đầu tư.
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt các kết quả đó. Các kết qủa ở đây chính là vốn, chất xám, tài nguyên thiên nhiên, thời gian …và lợi ích dự kiến có thể lượng hoá được (tức là đo được hiệu quả bằng tiền như sự tăng lên của sản lượng, lợi nhuận …) mà cũng có thể không lượng hoá được (như sự phát triển trong các lĩnh vực giáo dục, quốc phòng, giải quyết các vấn đề xã hội …). Đối với các doanh nghiệp hiểu đơn giản đâùu tư là việc bỏ vốn kinh doanh để mong thu được lợi nhuận trong tương lai.Trên quan điểm xã hội thì đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển từ đó thu được các hiệu qủa kinh tế xã hội vì mục tiêu phát triển quốc gia. Song dù đứng trên góc độ nào đi chăng nữa, chúng ta đều nhìn thấy tầm quan trọng của hoạt động đầu tư, đặc điểm và sự phức tạp về mặt kĩ thuật, hậu quả và hiệu quả tài chính, kinh tế xã hội của hạot động đầu tư đòi hỏi để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị cẩn thận và nghiêm túc. Sự chuẩn bị này được thể hiện ở việc soạn thảo các dự án. Có nghĩa là mọi công cuộc đầu tư phải được thực hiện theo dự án thì mới đạt hiệu qủa mong muốn. Vậy dự án đầu tư là gì? Dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với các mục tiêu phương pháp và phương tiện cụ thể để đạt được trạng thái mong muốn. Dự án đầu tư được xem xét ở nhiều góc độ:
Về hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động về chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Và đây cũng là phương tiện mà các chủ đầu tư sử dụng để thuyết phục nhằm nhận được sự ủng hộ cũng như tài trợ về mặt tài chính, từ phía chính phủ, các tổ chức chính phủ,các tổ chức tài chính.
Trên góc độ quản lí, dự án đầu tư là một công cụ quản lí việc sử dụng, vốn vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế – xã hội trong một thời gian dài. Còn đứng trên phương diện kế hoạch, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh,phát triển kinh tế xã hội làm tiền đề cho quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung.
Như vậy dù đứng trên góc độ nào thì một dự án đầu tư cũng phải mang tính cụ thể và có mục tiêu rõ ràng, tức là phải thể hiện được các nội dung chính sau:
*Mục tiêu của dự án: Thường ở hai cấp mục tiêu
Mục tiêu trực tiếp: Là mục tiêu cụ thể mà dự án phải đạt được trong khuân khổ nhất định và khoảng thời gian nhất định.
Mục tiêu phát triển: Là mục tiêu mà dự án góp phần thực hiện, mục tiêu phát triển được xác định trong kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của vùng. Đạt được mục tiêu trực tiếp chính là tiền đề góp phần đạt được mục tiêu phát triển.
*Kết quả của dự án: Là những đầu ra cụ thể được tạo ra từ các hoạt động của dự án. Kết quả là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu trực tiếp của dự án.
*Các hoạt động của dự án: Là những công việc do dự án tiến hành nhằm chuyển hoá những nguồn lực thành các kết quả của dự án. Mỗi hoạt động của dự án đều mang lại kết quả tương ứng.
*Nguồn lực cho dự án: Đầu vào cần thiết để tiến hành dự án.
- Phân loại dự án đầu tư
Để tiện cho việc theo dõi, quản lí dự án, người ta tiến hành phân loại dự án đầu tư. Việc phân loại có thể dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau như:
- Theo quy mô: dự án lớn, vừa, nhỏ.
- Theo phạm vi: trong nước quốc tế.
- Theo thời gian: ngắn, trung, dài hạn, nhưng thường các dự án là trung dài hạn.
- Theo nội dung và theo tính chất loại trừ. Với dự án của doanh nghiệp thường quan tâm đến hai cách phân loaị cuối.
Theo nội dung có:
Dự án đầu tư mới: thường là những dự án rất lớn, liên quan tới những khoản đầu tư mới, nhằm tạo ra những sản phẩm mới, độc lập với quá trình sản xuất cũ
Dự án đầu tư mở rộng: nhằm tăng năng lực sản xuất để hình thành nhà máy, phân xưởng mới, dây chuyền sản xuất mới với mục đích cung cấp thêm những sản phẩm cùng loại cho thị trường.
Dự án đầu tư nâng cấp (chiều sâu) liên quan đến việc thay đổi công nghệ, tạo ra một công nghệ mới cao hơn trong cùng một tổ chức cũ
Theo tính chất loại trừ:
Các dự án độc lập (không có tính loại trừ) thì việc thực hiện dự án này không liên quan đến việc chấp nhận hay bác bỏ dự án kia. Các dự án được coi là phụ thuộc khi chấp nhận dự án này có nghĩa là bác bỏ dự án kia bởi những giới hạn về nguồn lực hoặc sự liên quan có tác động lẫn nhau về công nghệ, môi trường …Tuy nhiên tính độc lập hay phụ thuộc của một dự án. Ví dụ một dự án đối với doanh nghiệp (nguồn lực giới hạn) là phụ thuộc (nếu thực hiện thì sẽ loaị bỏ dự án khác). Nhưng đối với Ngân hàng thì vấn đề đó không cần đặt ra bởi khả năng cho vay lớn, không vì cho vay một dự án này mà loại trừ cho vay đối với dự án khác.
Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư dù thuộc loại nào cũng phải trải qua các giai đoạn nhất định (còn gọi là chu kì của dự án đầu tư). Có nhiều góc độ tiếp cận chu kì dự án. Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần tự nhưng không biệt lập mà đan xen gối đầu cho nhau, bổ xung cho nhau nhằm nâng cao dần độ chính xác của các kết quả nghiên cứu ở các bước tiếp theo.
Nếu xét từ góc độ đầu tư để xem xét chu kì như là các giai đoạn đầu tư thì một dự án phải trải qua ba giai đoạn:
Chuẩn bị đầu tư: Trong giai đoạn này người ta phải tiến hành các công việc cụ thể như: nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ chọn dự án, nghiên cứu khả thi (lập dự án, luận chứng kinh tế kĩ thuật) đánh giá và quyết định (thẩm định dự án)
Thực hiện đầu tư: Gồm các công việc sau: Hoàn tất các thủ tục để triển khai thực hiện đầu tư, thiết kế và lập dự toán thi công xây lắp công trình, chạy thử và nghiệm thu sử dụng.
Vận hành kết quả đầu tư: Sử dụng các mức công suất khác nhau qua các năm cuối cùng thanh lí và đánh giá.
Trong ba giai đoạn trên đây, giai đoạn đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau. Mà trong đó thẩm định dự án đầu tư là khâu không thể thiếu được trong chu kì của một dự án đầu tư. Trước hết là đối với chủ đầu tư để có một quyết định vững chắc cho việc ra quyết định đầu tư.
Do đặc điểm của dự án đầu tư có sự phức tạp về mặt kĩ thuật, thời gian đầu tư tương đối dài nên khi tiến hành đầu tư thì Ngân hàng cần phải xem xét cẩn thận và nghiêm túc để tránh những sai lầm không đáng có xảy ra.
Thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định và sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư
Khi tiến hành cho vay vốn, Ngân hàng thường phải đối mặt với vô số những rủi ro. Vì một dự án thường kéo dài trong nhiều năm, đòi hỏi một lượng vốn lớn và bị chi phối bởi nhiều yếu tố mà trong tương lai có thể sẽ biến động khó lường. Những con số tính toán cũng như những nhận định đưa ra trong dự án (khi lập dự án) chỉ là những dự kiến, bởi vậy chứa đựng ít nhiều tính chủ quan của người lập dự án. Người lập dự án ở đây có thể là chủ đầu tư, hoặc các cơ quan tư vấn được thuê lập dự án, cơ sở các ý đồ kinh doanh và mong muốn của dự án. Các nhà soạn thảo thường đứng trên gốc độ hẹp để nhìn nhặn các vấn đề của dự án. Có thể không tính toán đến các vấn đề có liên quan và đôi khi bỏ qua một số các yếu tố hoặc làm cho dự án trở nên khả thi hơn một cách cố ý nhằm đạt được sự ủng hộ, tài trợ của các bên có liên quan. Rõ ràng chủ đầu tư thẩm định dự án trước hết vì quyền lợi của mình song họ đứng trên quan điểm riêng.
Do vậy để tồn tại, đặc biệt là trong điều kiện của nền kinh tế thị trường với đặc điểm là tự do cạnh tranh và tính cạnh tranh lại rất cao, thì Ngân hàng cũng như các pháp nhân khác trong nền kinh tế phải tự tìm kiếm các phương cách, giải pháp cho riêng mình để ngăn ngừa các rủi ro có thể nẩy sinh. Thẩm định dự án đầu tư trong công tác hoạt động của Ngân hàng chính là một trong những biện pháp cơ bản nhằm phòng ngừa rủi ro trong quá trình cho vay vốn đầu tư tại Ngân hàng. Như vậy trên góc độ người tài trợ, các Ngân hàng tổ chức tài chính đánh giá dự án chủ yếu trên phương diện khả thi, hiệu quả tài chính và xem xét khả năng thu nợ của Ngân hàng. Với các cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền thẩm định dự án được xem xét và đánh giá trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế xã hội của đất nước.
Một cách tổng quát ta có thể đưa ra khái niệm về thẩm định dự án đầu tư như sau:
Thẩm định dự án đầu tư là qúa trình phân tích, đánh giá toàn diện các khía cạnh của một dự án đầu tư để ra các quyết định đầu tư cho phép đầu tư hoặc tài trợ
Thực tế người thẩm định dự án sẽ tiến hành kiểm tra phân tích đánh giá từng phần và toàn bộ các mặt, các vấn đề có trong bản nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi (thường chỉ với bản nghiên cứu khả thi – hay còn gọi là luận chứng kinh tế kĩ thuật) trong mối quan hệ mật thiết với doanh nghiệp chủ dự án và các giả thiết về môi trường trong đó dự án sẽ hoạt động. Thẩm định dự án có ý nghĩa thể hiện ở việc giúp các dự án tốt không bị bác bỏ và dự án tồi không được chấp nhận. Tuy nhiên nhận định “tốt”“tồi “, “khả thi “, “hiệu quả”… ở khía cạnh nào đó còn phụ thuộc vào góc độ của người thẩm định và khi đó họ sẽ đạt được những mục tiêu nhất định khi tiến hành thẩm định.
NHTM với tư cách là “Bà đỡ “về mặt tài chính cho các dự án sản xuất đầu tư thường xuyên thực hiện công tác đầu tư. Việc thẩm định này ngoài mục tiêu đánh giá hiệu quả của dự án còn nhằm xác định rõ hành lang an toàn cho các nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng cho các dự án. Vì vậy hiểu về sự cần thiết phải thẩm định dự án là một việc không thể thiếu được
Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư
Về phía nhà đầu tư
Thông thường, khi xảy ra quyết định đầu tư một dự án, chủ đầu tử phải cân nhắc giữa nhiều sự lựa chọn khác nhau, nghĩa là nhiều dự án khác nhau trong cùng một giai đoạn. Mặt khác, tuy nắm vững những vấn đề, những chi tiết kỹ thuật… của dự án nhưng đôi khi khả năng thu thập nắm bắt những thông tin mới của doanh nghiệp bị hạn chế, nhất là đối với xu thế kinh tế, chính trị, xã hội mới. Điều đó làm giảm tính chính xác trong phán đoán của họ.
Công tác thẩm định dự án đầu tư sẽ đi sâu vào làm rõ các vấn đề này, giúp doanh nghiệp lựa chọn phương án tốt nhất mang lại hiệu quả cao nhất hoặc đưa ra những ý kiến xác đáng gợi ý cho chủ đầu tư để dự án có tính khả thi cao hơn.
Về phía Ngân hàng
Việc cho vay trải qua ba giai đoạn:
• Xem xét trước khi cho vay
• Thực hiện cho vay
• Thu gốc thu lãi
Ba giai đoạn này là một quá trình gắn bó chặt chẽ, mỗi giai đoạn có một ý nghĩa nhất định ảnh hưởng đến chất lượng của một khoản vay.
Để có một khoản vay chất lượng là điều mong muốn và mục tiêu hoạt động của NHTM. Nhưng nó là một điều cực kỳ khó khăn và NHTM vẫn thất bại khi cho vay vì thực tế vận động xã hội và thị trường luôn tồn tại không cân xứng về thông tin đầy đủ về nhau, do đó dẫn đến những hiểu biết sai lệch. Giữa NHTM và người vay cũng xảy ra tình trạng như vậy. Ngân hàng không có những thông tin đầy đủ về khách hàng dẫn đến Ngân hàng có thể thực hiện những khoản cho vay sai lầm. Đứng trước những rủi ro đó thì NHTM phải luôn cân nhắc đắn đo, xem xét và bằng những nghiệp vụ phải xác định những khách hàng tốt, khoản xin vay có chất lượng khi quyết định cho vay hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra.
Do vậy trong ba giai đoạn trên, việc xem xét trước khi cho vay (bao gồm quá trình thẩm định tín dụng dự án đầu tư của Ngân hàng) có ý nghĩa cực kì quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, kết quả các khoản vay và các hoạt của giai đoạn sau. Giai đoạn này được Ngân hàng tiến hành rất kĩ lưỡng với nhiều phương pháp nghiệp vụ đặc thù để đảm bảo, an toàn chất lượng.
Hơn nữa, với chức năng quản lí và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, hoạt động Ngân hàng có tính chất đặc thù riêng mà các ngành khác không có được. Như đã nói ở trên, so với kinh doanh của các ngành kinh tế khác thì hoạt động Ngân hàng có nhiều rủi ro hơn cả. Nhất là trong nền kinh tế thị trường, ngành Ngân hàng phải huy động và tạo mọi nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi thành phần kinh tế. Việc Ngân hàng cho vay không thể không cần biết doanh nghiệp sử dụng vốn làm gì, quan niệm đơn giản là chỉ cần trả nợ, hoàn toàn là một quan niệm sai lầm và thụ động. Theo quan niệm kinh doanh hiện nay thì Ngân hàng và doanh nghiệp là bạn hàng. Mà đã là bạn hàng của nhau thì khi xác lập quan hệ phải tìm hiểu và thăm dò lẫn nhau, đặt ra cho nhau những điều kiện đảm bảo lợi ích cho cả đôi bên. Chính vì vậy, mà NHTM trước khi quyết định cho vay phải luôn đối mặt với hàng loạt câu hỏi khác nhau:
Cho ai vay?
Vay như thế nào?
Cho vay trong thời gian bao lâu?
Quản lí các khoản vay như thế nào? Thu gốc và lãi ra sao?
Bên cạnh đó một nguồn vốn quan trọng được Ngân hàng sử dụng cho vay là tiền gửi của khách hàng. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển thì bên cạnh mục tiêu lợi nhuận, Ngân hàng còn phải đảm bảo an toàn và thanh khoản tức là phải hoạt động có trách nhiệm với những đồng tiền của khách hàng và phải thoả mãn bất cứ một nhu cầu rút tiền nào của khách hàng vào bất cứ thời điểm nào.
Đây là bài toán phức tạp mà Ngân hàng cần phải tìm lời giải đáp.
Quá trình tìm lời giải đúng cho bài toán này chính là công tác thẩm định các khoản cho vay.
Trong quan hệ tín dụng, vấn đè cơ bản mà Ngân hàng phải quan tâm để đưa ra một quyết định cho vay là hiệu quả và an toàn vốn của Ngân hàng.
Nói đến dự án đầu tư là nói đến một số lượng vốn lớn và thời gian dài, do vậy quyết định đầu tư sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự thuận lợi và phát triển của Ngân hàng. Tuy nhiên không phải dự án nào cần vốn Ngân hàng cũng đáp ứng. Ngân hàng chỉ cho vay đối với những dự án có khả thi, tính đựơc khả năng sinh lời của dự án… Muốn vậy Ngân hàng sẽ yêu cầu người xin vay lập và nộp vào Ngân hàng dự án đầu tư trên cơ sở dự án đầu tư cùng với các nguồn thông tin khác, Ngân hàng sẽ tiến hành tổng hợp và thẩm định dự án để đưa ra quyết định về tính khả thi của dự án.
Chính vì vậy việc thẩm định đúng đắn dự án đầu tư có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với các tổ chức tín dụng nó thể hiện:
Giúp các tổ chức tín dụng nhìn nhận một cách lôgíc tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ cũng như hiện tại, dự án xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, trên cơ sở đánh giá chính xác đối tượng được đầu tư để có đối sách thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp để xem xét xu hướng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế. Đây là căn cứ đánh giá cơ cấu chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh tế khả năng thu nợ, những rủi ro có thể xảy ra của dự án và lập kế hoạch cung cấp tín dụng theo từng đối tượng cho vay cũng như theo từng đối tượng bỏ vốn.
Thế nhưng muốn xem xét hiệu quả thực sự cho hoạt động tín dụng thì Ngân hàng không chỉ cần dừng lại ở giai đoạn kiểm tra trước mà phải tiếp tục kiểm tra trong, sau quá trình cho vay, đảm bảo vốn của Ngân hàng được sử dụng đúng mục đích, đem lai hiệu quả thực sự.
Về phía xã hội và các cơ quan hữu quan
Chúng ta biết rằng vấn đề thiếu vốn đang rất phổ biến ở nước ta. Trong điều kiện hiện nay cơ sở hạ tầng còn rất nghèo nàn, lạc hậu như hiện nay thì việc đầu tư là rất cần thiết. Tuy nhiên, với nguồn vốn hạn hẹp, số lượng các dự án đầu tư lại rất lớn thì quyết định vốn cho dự án nào là rất quan trọng và khó khăn muốn có quyết định này người ta phải tiến hành kiểm tra, thẩm định dự án, so sánh các dự án với nhau để lựa chọn được đầu tư là dự án mang lại hiệu quả cao nhất cho xã hội. Hiệu quả được nhắc đến ở đây không chỉ đơn thuần là hiệu quả kinh tế mà nó bao hàm cả hiệu quả xã hội khác như giải quyết công ăn việc làm, tăng ngân sách tiết kiệm ngoại tệ, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế đặc biệt là vấn đề bảo vệ môi trường.
Công tác thẩm định dự án đầu tư sẽ giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá chính xác sự cần thiết và sự phù hợp của dự án trên tất cả các phương diện: mục tiêu, quy hoạch, quy mô và hiệu quả.
Tóm lại, vài nét nêu trên đã phần nào khắc hoạ được vai trò của công tác thẩm định dự án đầu tư. Chúng ta phải thừa nhận rằng đây là một công việc hết sức quan trọng. Nó có vai trò trên cả tầm vĩ mô(xã hội) và tầm vi mô (Ngân hàng, doanh nghiệp). Bởi lẽ nếu làm tốt công tác thẩm định không những đem lại hiệu quả cao cho hoạt động tín dụng, bảo đảm an toàn vốn cho Ngân hàng mà khi nhìn vào đó, các Ngân hàng, tổ chức tài chính, các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ an tâm hơn khi lựa chọn đầu tư vào Việt Nam thông qua các Ngân hàng trong nước, đặc biệt là NHTM quốc doanh. Chính các yếu tố đó đòi hỏi Ngân hàng phải tiếp tục đổi mới và không ngừng nâng cao quy trình thẩm định dự án đầu tư.
Qui trình và nội dung thẩm định dự án đầu tư
Để đạt được hiệu quả cao trong công tác thẩm định, các dự án đầu tư cần được nghiên cứu phân tích và kiểm tra một cách khoa học, theo các kinh nghiệm quản lý thực tế và theo một trình tự nhất định. Tuy nhiên cũng cần nhận thức rằng cácn bộ thẩm định không làm lại toàn bộ công tác của người lập dự án, tìm hiểu những nhược điểm, tồn tại của dự án để từ đó có quyết định về việc nên bỏ vốn đầu tư hay không hoặc đề suất những nội dung cần bổ sung, điều chỉnh đối với dự án trước khi tiến hành thẩm định. Quá trình thẩm định dự án đầu tư bao giờ cũng phải được tiến hành theo một trình tự nhất định gồm 2 bước: thẩm định sơ bộ và thẩm định chính.
Bước thẩm định sơ bộ.
- Khi tiếp nhận hồ sơ, cán bộ tín dụng phải kiểm tra tính hợp pháp và tính đầy đủ của hồ sơ dự án để có thể yêu caauf chủ đầu tư bổ xung hoàn, tất kịp thời.
- Sau đó cán bộ tìm hiểu uy tín người lập dự án, nếu là đơn vị thiết kế thì cần tìm hiểu kinh nghiệm của họ trong việc luận chứng kinh tế của các dự án cùng loại, còn đối với các doanh nghiệp sản suất thì phải xem họ có phải là những nhà sản suất có uy tín và thành công trên thị trường hay không ?
- Tiếp theo cán bộ tín dụng sẽ tiến hành tiến hành tiếp xúc với chủ dự án và các đơn vị giúp việc của họ để tìm ra động lực thúc đẩy doanh nghiệp đề xuất dự án.
- Cuối cùng, cán bộ sẽ xem xét hiện trường và hiện trạng của doanh nghiệp, từ đó đối chiếu và kiểm tra số liệu tình hình tài chính, tình hình sản suất kinh doanh ghi trong hồ sơ dự án để có những điều chỉnh kịp thời (nếu cần).
Bước thẩm định chính thức.
A.Thẩm định về doanh nghiệp vay vốn.
Mục đích của việc Ngân hàng thẩm định doanh nghiệp vay vốn là để xem xét chủ đầu tư có nguyện vọng cũng như khả năng trả nợ cho Ngân hàng hay không khi thẩm định chủ đầu tư cần xem xét những vấn đề sau. Xem xét nguyện vọng của chủ đầu tư. Nguyện vọng của chủ đầu tư có chính đáng không ?
Xem xét về cách pháp nhân của chủ đầu tư như: quyết định thành lập, giấy phép kinh doanh, quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng, biên bản bầu hội đồng quản trị, điều lệ hoạt động… Để biết chủ doanh nghiệp có khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật hay không.
Phân tích về uy tín của chủ đầu tư. Uy tín của chủ đầu tư rất quan trọng về những người chủ đầu tư có uy tín lớn họ sẵn sàng tìm đủ mọi cách để trả nợ Ngân hàng. Các quan hệ của chủ đầu tư đã và đang có với các doanh nghiệp khác, với các Ngân hàng khác và với Ngân hàng mình.
Khi đánh giá những vấn đề này, cần phải tiến hành một cách chính xác nếu đánh giá sai đối tượng khách hàng thì sẽ làm giảm những khách hàng có mối quan hệ tốt với Ngân hàng hoặc Ngân hàng sẽ không thu hồi được khoản nợ vay khi cho khách hàng làm ăn không có hiệu quả vay.
*Đánh gía tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Qua các số liệu thống kê, báo cáo quyết toán hàng năm của doanh nghiệp(ít nhất là 3 năm trở về đây) cán bộ tín dụng phải đưa ra nhận xét về các mặt sau:
Quan hệ vay vốn và uy tín của doanh nghiệp trong những năm gần đây.
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh có ổn định lâu dài được không? (Về lợi nhuận, doanh số bán, mức tăng lợi nhuận hành năm? Tình hình kiểm soát còn nợ).
Chiều hướng phát triển của doanh nghiệp như thế nào (Đi lên hay đi xuống) nguyên nhân? Vốn kinh doanh có đảm bảo và tăng trưởng không? Tình hình sử dụng tài sản của doanh nghiệp như thế nào? Khó khăn hiện nay doanh nghiệp?
Đặc biệt đối với sản phẩm doanh nghiệp lựa chọn đầu tư trong dự án cần phải đánh giá kỹ qui mô sản xuất, chất lượng sản phẩm, khả năng tiêu thụ mức độ cạnh tranh.
Cuối cùng Ngân hàng tiến hành phân tích năng lực tài chính của chủ đầu tư nhằm thấy được khả năng tự cân đối các nguồn tiền có thể sử dụng để chi trả khi cần thiết.
*Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp:
Căn cứ vào các văn bản, số liệu về tình hình sản xuất và tài chính của doanh nghiệp như quyết toán tài chính, định kỳ được duyệt, bảng tổng kết tài sản, báo cáo lỗ lãi, biên bản kiểm kê và trích nộp khấu hao, các số liệu về tình hình tài chính khác để xây dựng được khả năng của doanh nghiệp như: Vốn kinh doanh có đảm bảo và tăng trưởng hay không? Quản lý tài sản(tình hình xử dụng tài sản cố định,tài sản lưu động như thế nào? tình hình kho tàng, máy móc, nhà xưởng, thiết bị ra sao?) Phân tích hiệu qủa tài chính: xác định cá hiệu qủa về tài chính, khả năng thanh toán, hiệu qủa kinh doanh, tình hình thực hiện ngân sách…
Sau đây là nhưng chỉ tiêu cụ thể mà cán bộ tín dụng cần phải thẩm định.
+Khả năng tự cân đối về tài chính của doanh nghiệp để đáp ứng các khoản nợ phải thông qua các chỉ tiêu: hệ số tài trợ và năng lực đi vay.
Trong đó: Nguồn vốn hiện có của doanh nghiệp là vốn tự có.
Tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng bao gồm tổng tài sản nợ của doanh nghiệp.
Hệ số tài trợ kỳ này mà lớn hơn kỳ trước và lớn hơn 0,5 là tốt. Nó thể hiện doanh nghiệp có sự tự chủ cao về tài chính.
Năng lực đi vay: Là khả năng xin vay vốn của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng tự chủ tài chính cao thường có năng lực đi vay vốn.
+Khả năng thanh toán của doanh nghiệp: Là lượng tiền có thể có để chi trả các khoản nợ bao gồm: nợ vay Ngân hàng, nợ khách hàng, nợ cán bộ công nhân viên. Trong một thời điểm nhất định. Khả năng thanh toán liên quan tới tổng số vốn có thể có bao gồm: Tiền mặt,vốn vay hoặc những tài sản có thể bán thu tiền ngay một cách dễ dàng để thanh toán các khoản nợ cấp bách.
Khả năng thanh toán được phản ánh trên báo cáo tài chính và bản dự kiến luân chuyển tiền mặt. Nó được đánh giá dựa trên 3 chỉ tiêu: Khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán nhanh, và khả năng thanh toán cuối cùng. Đây là nhóm chỉ tiêu tập trung sự chú ý nhiều nhất của Ngân hàng. Bởi vì thông qua đó, Ngân hàng có thể biết được số tiền doanh nghiệp dùng để thanh toán và số tiền doanh nghiệp phải thanh toán.
+ Khả năng thanh toán chung: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tình hình về khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Trong đó:
Số tiền để thanh toán gồm vốn bằng tiền và các khoản có thể chuyển hoá thành tiền (các khoản phải thu, thành phẩm, hàng hoá tồn kho đã loại trừ các khoản nợ khó đòi và hàng hoá ứ đọng chậm luân chuyển, kém, mất phẩm chất)
Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán gồm các khoản phải trả người bán, người mua, các khoản phải trả công nhân, các khoản nợ Ngân hàng, nợ các tổ chức kinh tế, các khoản phải trả khác.
Các hệ số hơn 1 là bình thường và càng cao càng tốt. Nếu nhỏ hơn một là khả năng thanh toán yếu và càng nhỏ càng yếu. Riêng hệ số khả năng thanh toán nhanh lớn hơn 0.5 là tốt.
Nếu hệ số này nhỏ hơn 1 thì tình hình tài chính của doanh nghiệp rất xấu.
- Các chỉ tiêu về sinh lãi: Ngoài các chỉ tiêu đã được xem xét trong bảng kết quả sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp, chúng ta cần quan tâm một số chỉ tiêu sau:
Đây là chỉ tiêu để đánh gía xem doanh nghiệp bỏ ra 1 đồng tài sản có sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Các doanh nghiệp thường dùng chỉ tiêu này để so sánh với chi phí vốn(lãi tiền vay) khi xem xét cơ cấu của mình để sử dụng nguồn vay có lợi hơn hay kinh doanh vốn tự có lợi hơn.
Đây là chỉ tiêu để doanh nghiệp đánh giá khả năng kinh doanh khi bỏ ra một đồng tài sản có sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Bên cạnh việc đánh gía khả năng tự cân đối tài chính và khả năng tự thanh toán, việc xác định công nợ đòi hỏi sự thẩm định của cán bộ tín dụng: Cán bộ tín dụng phải xem xét và đánh giá tình hình quan hệ thẩm định, tình hình thanh toán với người mua, người bán và tình hình thực hện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của đơn vị xin vay vốn để từ đó đánh giá tính trung thực và hiệu quả kinh doanh của khách hàng, uy tín trong quan hệ thanh toán.
Thẩm định và phân tích chu đáo phần trên đây sẽ góp phần đảm bảo cơ sở vững chắc để dự án được đầu tư có hiệu quả và đơn vị có khả năng trả nợ Ngân hàng theo cam kết. Bản thẩm định này chính là cơ sở để cán bộ thẩm định tiếp tục thẩm định vào phần quan trọng nhất. Thẩm định dự án đầu tư. Nếu ở phần này Ngân hàng không hài lòng về tư cách của người xin vay thì Ngân hàng sẽ không đánh giá tiếp các yếu tố còn lại.
B Thẩm định dự án đầu tư.
Mỗi dự án là một mắt xích quan trọng chương trình phát triển của vùng hay lãnh thổ. Mặt khác, việc một dự án được đầu tư sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường, cụ thể là tác động đến cung cầu hàng hoá, tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu khác. Vì vậy việc thẩm định dự án là rất quan trọng.
Cán bộ tín dụng cần phải thẩm định những nội dung sau.
Thị trường ở đây bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra cho sản phẩm của dự án. Với thị trường đầu vào, cần kiểm tra phân tích khả năng cung cấp nguyên vật liệu cho dự án (chính, phụ trong và ngoài nước). Đối với những nguyên vật liệu mang tính thời vụ, cần tính toán dự trữ hợp lý để đảm bảo cung cấp thường xuyên tránh lãng phí không nên quá phụ thuộc vào một nhà cung cấp để tránh bị ép giá. Cũng cần xem xét nguồn cung cấp, điện, nước, lao động… Nói tóm lại theo yêu cầu của dự án, xác định các nhân tố ảnh hưởng (ví dụ tính thời vụ, điều kiện giao thông …), trên cơ sở đó chỉ ra được sự đảm bảo và phù hợp hay không của các phương án, xử lý nhân tố đó. Bên cạnh đó, thẩm định thị trường tiêu thụ sản phẩm dịch vụ cũng phải được thực hiện một cách chặt chẽ, khoa học bởi đây là khâu hết sức quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới sự thành bại của dự án.
Cần phân tích đánh giá quan hệ cung cầu về sản phẩm dịch vụ đầu ra của dự án tại thời điểm hiện tại và tương lai, xác định thị trường chủ yếu của sản phẩm, so sánh giá thành sản phẩm, giá bán sản phẩm của dự án cới giá cả thị trường hiện nay, tương lai dự báo những biến động về giá cả thị trường trong nước, ngoài nước … Nghiên cứu khả năng tiêu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian qua, các hợp đồng tiêu thụ, bao nhiêu sản phẩm cùng các văn bản giao dịch về sản phẩm như đơn đặt hàng biên bản đàm phán…
Nhằm đánh giá khả năng tiêu thụ sản phẩm dự án cũng như các nhân tố tác động, trên cơ sở quyết định quy mô đầu tư, lựa chọn thiết bị, công xuất thích hợp
Phân tích dự đoán thị trường là công việc hết sức phức tạp nhưng quan trọng. Để có được những đánh giá toàn diện, chính xác về khía cạnh này cần phải thu nhập đầy đủ thông tin, có sự kết hợp, tình hình thực tế với số liệu thống kê cũng như các chính sách của nhà nước, ngành và địa phương về các vấn đề liên quan.
Phân tích quy mô dự án công nghệ, trang thiết bị nhằm thấy được sự phù hợp của dự án với sự tiêu thụ sản phẩm cũng như sử dụng trang thiết bị hợp lý. Đánh giá tính hữu hiệu của thiết kế dự án. Để có thể có đầu ra như dự kiến, những yếu tố rủi ro, bất định trong thiết kế dự án và cách giải quyết hoạch quản lý, kiểm tra tính hợp lý của nội dung, tiến độ các hạng mục trong xây dựng cơ bản…
Đây là một công việc phức tạp đòi hỏi phải có các chuyên viên kỹ thuật chuyên sâu về từng khía cạnh kỹ thuật của dự án.Thẩm dịnh mặt này nhằm trả lời câu hỏi liệu dự án có thể thực hiện về mặt kỹ thuật hay không? Mức độ công nghệ kỹ thuật trong việc đạt được mục tiêu dự kiến về sản phẩm dịch vụ.
Đây là công việc cần thiết bởi chúng ta hiểu rõ tầm quan trọng của công tác tổ chức, quản lý trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào, với dự án đầu tư, nó tác động đến tiến độ thực hiện dự án và kiểm soát quy mô, phạm vi dự án… Điều đó đòi hỏi phải kiểm tra, xem xét về số lượng, chất lượng lao động xem có thể đáp ứng cho việc vận hành có hiệu quả không, đánh giá tính hợp lý của bộ máy quản lý hành chính, hệ thống phòng ban, phân xưởng.
Thẩm định về mặt lựa chọn địa điểm xây dựng dự án: để xem xét địa điểm xây dựng xem địa điểm xây dựng dự án có thuận tiện hay không?
Đây là một nội dung mà các cơ quan quản lý nhà nước rất quan tâm, xem xét lợi ích mà dự án mang lại cho nền kinh tế và tìm cách tối đa hoá lợi ích đó. Nguyên tắc thẩm định cũng giống như thẩm định tài chính, đó là so sánh giữa lợi ích và chi phí của dự án. Song điểm khác biệt ở đây là quan niệm về lợi ích và chi phí trên góc độ xã hội: lợi ích và những đóng góp thực sự của dự án vào phúc lợi chung của quốc gia, chi phí là những khoản tiêu hao nguồn lực thực sự của nền kinh tế. Do đó khi lấy những chi tiêu từ thẩm định tài chính phải có những điều chỉnh nhất định về giá tính toán, về thuế… Bên cạnh đó phải đánh giá một cách đầy đủ, ngiêm túc tác động của môi trường – xem mức độ gây ô nhiễm môi trường có thể chấp nhận được hay không và khả năng, giải pháp cải thiện nhằm hướng tới một sự phát triển bền vững.
Thẩm định tài chính nhằm đánh giá khả năng sinh lời để nhằm đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của dự án, thông qua việc tổng hợp các biến số tài chính kĩ thuật đã được tính toán trong phần thẩm định trước để đưa ra những số liệu đầu vào cho việc tính toán hiệu quả kinh tế xã hội.
Sau 5 bước thẩm định trên Ngân hàng sẽ đi vào thẩm diịnh tài chính dự án đầu tư với các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất:
+Xác định tổng nhu cầu về vốn đầu tư bao gồm về vốn cố định và vốn lưu động.
+Xác định phần vốn mà Ngân hàng cần tài trợ.
+ Xác định tiến độ cần bỏ vốn.
Khi một dự án đầu tư mang đến Ngân hàng xin vay vốn thì dự án đầu tư đó đã được nhều cấp, ngành phê duyệt. Tổng vốn đầu tư được xác định. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn tiến hành xem xét laịi trên cơ sở những kết quả thẩm định khác của Ngân hàng. Điều này rất quan trọng vì vốn đầu tư sẽ giúp cho các dự án thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả dự án đầu tư.Vốn đầu tư thiếu sẽ gây khó khăn cho hoạt động đầu tư.
Ngược lại thừa vốn đầu tư sẽ gây lãng phí vốn làm giảm hiệu qủa của dự án. Tổng vốn đầu tư được xác định trên tổng các chi phí:
Chi phí lập dự án.
- Chi phí thuê gia sư tư vấn soạn thảo.
- Chi phí mua thông tin, tài liệu.
- Chi phí khảo sát thăm dò.
- Chi phí hành chính.
- Chi phí đầu tư tài sản cố định.
- Chi phí xây dựng nhà xưởng.
- Chi phí mua máy móc.
- Chi phí lắp đặt, vận hành chạy thử.
-Chi phí thuê chuyên gia, công nghệ.
Chi phí tài sản lưu động.
Trên cơ sở vốn đầu tư đó Ngân hàng xem xét các nguồn tài trợ cho dự án đầu tư.Một dự án đầu tư có hai nguồn cung cấp chính:
- Nguồn bên trong do chủ dự án cung cấp.
- Nguồn bên ngoài:
+Từ nhà nước.
+Từ NHTM.
+Từ các nguồn khác.
Ngân hàng xem xét, xác định số vốn đầu tư cho vay và một điều quan trọng nữa NHTM phải xem xét lại tiến độ bỏ vốn theo tiến độ thi công xây lắp… có đúng lịch trình đã đề ra hay không?Và Ngân hàng cũng sẽ xây dựng được một lịch trình cho vay của mình phù hợp với yêu cầu và tiến độ bỏ vốn của dự án.
Thứ hai: Kiểm tra xây dựng doanh thu và lợi nhuận của dự án.
Thẩm định tính chính xác, hợp lí, hợp lệ của bảng dự trù tài chính. Cơ sở để xem xét là dựa trên nội dung của luận chứng tài chính kinh tế kĩ thuật, dựa trên các chỉ tiêu, định mức kinh tế kĩ thuật của ngành đó do nhà nước ban hành hoặc các cơ quan chứ năng công bố và dựa trên các kết quả thẩm định các mặt thị trường, kĩ thuật tổ chức kinh tế kĩ thuật của ngành Ngân hàng để thẩm định chính xác, hợp lí của bảng bảng dự trù tài chính.
+Xem xét tính toán các bảng tài chính.
+Bảng dự trù chi phí sản xuất năm.
+Bảng dự trù doanh thu lỗ lãi.
+Bảng dự trù cân đối kế toán.
+Bảng dự trù cân đối thu chi.
Các bảng này là cơ sở cho NHTM thực hiện các phân tích tài chính và tính toán các luồng tiền nên được xem xét kĩ lưỡng, hợp lí, chính xác.
Vấn đề xem xét và đánh giá cơ cấu nguồn vốn là hợp lí hay không còn tuỳ thuộc vào tính chất và điều kiện thực tế của dự án. Hơn nó còn chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi hiệu quả của khả năng trả nợ của dự án.
Thứ ba: Đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư.
Để đánh giá hiệu qủa tài chính dự án đầu tư về lí thuyết cũng như thực tế, người ta thườngphải sử dụng các phương pháp (hay các chỉ tiêu sau đây).
Giá trị hiện tại ròng (NPV:Net Present Value)
Giá trị hiện tại ròng của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại các nguồn thu nhập ròng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư.
Công thức tính:
B i-Ci:Luồng tiền ròng năm i Bi: Luồng tiền dự kiến năm i
r : Tỷ lệ chiết khấu Ci: Chi phí đầu tư năm i
n : Số năm tính từ thời điểm đầu tư cho đến khi kết thúc dự án
Những năm đầu của dự án (Bi-Ci) mang dấu âm.
ý nghĩa của NPV chính là đo lường phần giá trị tăng thêm dự tính mà dự án đem lại cho nhà đầu tư với mức độ rủi ro cụ thể của dự án… Việc xác minh chính xác tỷ lệ chiết khấu của mỗi dự án đầu tư là khó khăn. người ta có thể lấy bằng với lãi suất đầu vào, đầu ra thị trên trường… Nhưng thông thường là chi phí bình quân của vốn. Tuỳ từng trường hợp, người ta còn xem về biến động lãi suất trên thị trường, và khả năng giới hạn về vốn của chủ đầu tư khi thực hiện dự án…
Sử dụng chỉ tiêu NPV để đánh giá dự án đầu tư theo nguyên tắc:
Nếu các dự án đầu tư thì tuỳ thuộc theo quy mô nguồn vốn, các dự án có NPV≥0 đều được chọn (Sở dĩ dự án NPV=0 vẫn có thể chọn vì khi đó có nghĩa là các luồng tiêu thụ của dự án vừa đủ để hoàn vốn đầu tư và cung cấp một tỷ lệ lãi suât yêu cầu cho khoản vốn đó). Ngược lại NPV< 0 ⇒ bác bỏ dự án
Nếu các dự án loại trừ nhau thì dự án nào có NPV≥ 0 và lớn nhất thì được chọn.
Sử dụng phương pháp NPV để đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư có ưu nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Phương này tính toán dựa trên cơ sở dòng tiền có chiết khấu (tức là hiện tại hoá dòng tiền) là hợp lý vì tiền có giá trị theo thời gian.
Lựa chọn dự án theo chỉ tiêu NPV là thích hợp vì nó cho phép chọn dự án nào có làm tối đa hoá sự giàu có của chủ đầu tư.
Phương pháp này ngầm giả định rằng tỷ lệ lãi suất mà tại các luồng có tiền có thể được tái đầu tư là chi phí sử dụng vốn, nó là giả định thích hợp nhất.
Nhược điểm:
Phụ thuộc nhiều vào tỷ lệ chiết khấu r được lựa chọn. Cụ thể: r càng nhỏ ⇒NPV càng lớn và ngược lại. Trong khi đó, việc xác định đúng r là rất khó khăn.
Chỉ phản ánh được quy mô sinh lời (số tương đối: hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra là bao nhiêu).
Với các dự án có thời gian khác nhau, dùng NPV để lựa chọn dự án là không có ý nghĩa. Muốn so sánh được, phải giả định rằng dự án có thời gian ngắn hơn sẽ được đầu tư bổ sung với số liệu lặp lại như cũ để sao cho các dự án có thời gian bằng nhau. Thời kỳ phân tích dự án là bội số chung nhỏ nhất của các thời gian dự án. Đây là việc tính toán phức tạp mất thời gian.
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR: Internal Rate of Return)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án. Về mặt kỹ thuật tính toán, IRR của một dự án đầu tư là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó NPV=0 tức là thu nhập ròng hiện tại đúng bằng giá trị hiện tại của vốn đầu tư
Như vậy ta có công thức:
{}
∑ i = 0 n B i − C i 1 + IRR = 0 size 12{ Sum cSub { size 8{i=0} } cSup { size 8{n} } { { { { size 24{B} } rSub { size 8{i} } - { size 24{C} } rSub { size 8{i} } } over {1+ ital "IRR"} } } =0} {}
ý nghĩa của chỉ tiêu IRR: IRR đối với dự án chính là tỉ lệ sinh lời càn thiết của dự án. IRR được coi bằng mức lãi suất tiền vay cao nhất mà nhà đầu tư có thể chấp nhận mà không bị thua thiệt nếu toàn bộ số tiền đầu tư cho dự án đều là vốn vay (cả gốc và lãi cộng dồn) được trả bằng nguồn tiền thu được từ dự án mỗi khi chúng phát sinh.
Người ta sử dụng hai cách:
Tính trực tiếp: Đầu tiên chọn 1 lãi suất chiết khấu bất kì, tính NPV. Nếu NPV>0, tiếp tục nâng mức lãi suất chiết khấu và ngược lại. Lặp lại cách làm trên cho tới khi NPV= 0 hoặc gần bằng 0, khi đó mức lãi suất này bằng IRR của dự án đầu tư.
Phương pháp nội suy tuyến tính: thường được sử dụng. Đầu tiên chọn 2 mức lãi suất chiết khấu sao cho: Với r1 ⇒có NPV1> 0
Với r2⇒ có NPV2< 0
áp dụng công thức:
IRR
- 1 Mở Các tệp tin dữ liệu
- 2 Tìm hiểu đặc điểm xã hội của những phụ nữ triệt sản
- 3 Sự cần thiết phải nâng cao năng suất lao động trong doanh nghiệp
- 4 Qúa trình hoạch định chiến lược
- 5 biến đổi hệ tọa độ quan sát (hệ quan sát)
- 6 Phương pháp kiểm toán chứng từ
- 7 Trùng đế giày
- 8 Khối liệu đặc trưng và phân loại
- 9 Sự cần thiết và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường
- 10 Tổ chức các hoạt động dịch vụ đẩy mạnh bán hàng