BẢO VỆ CÁC TIẾN TRÌNH BẰNG CÁCH DÙNG BỘ NHỚ ẢO
Sự xuất hiện của đa chương trình (multiprogram) trong đó máy tính chạy nhiều chương trình song song với nhau, dẫn tới các đòi hỏi mới về việc bảo vệ và phân chia giữa các chương trình. Đa chương trình đưa đến khái niệm tiến trình ...
Sự xuất hiện của đa chương trình (multiprogram) trong đó máy tính chạy nhiều chương trình song song với nhau, dẫn tới các đòi hỏi mới về việc bảo vệ và phân chia giữa các chương trình.
Đa chương trình đưa đến khái niệm tiến trình (process): một tiến trình gồm có một chương trình đang thực hiện và tất cả các thông tin cần thiết để tiếp tục thực hiện chương trình này.
Trong đa chương trình, bộ xử lý và bộ nhớ trong được nhiều người sử dụng chia sẻ một cách qua lại (interactive), cùng một thời điểm, để tạo cảm giác rằng mỗi người dùng đang có một máy tính riêng. Và như thế, tại bất cứ lúc nào, phải có thể chuyển đổi từ một tiến trình này sang một tiến trình khác.
Một tiến trình phải vận hành đúng đắn, dù nó được thi hành liên tục từ đầu tới cuối, hay nó bị ngắt qua lại bởi các tiến trình khác. Trách nhiệm đảm bảo các tiến trình đều chạy đúng, được chia sẻ giữa nhà thiết kế máy tính và nhà thiết kế hệ điều hành. Nhà thiết kế máy tính phải đảm bảo bộ xử lý có thể lưu giữ trạng thái các tiến trình và phục hồi các trạng thái này, còn nhà thiết kế hệ điều hành phải đảm bảo các tiến trình không ảnh hưởng lên nhau. Hệ điều hành giải quyết vấn đề này bằng cách chia bộ nhớ trong cho các tiến trình và trạng thái của mỗi tiến trình này hiện diện trong phần bộ nhớ được chia cho nó. Điều này có nghĩa rằng các nhà thiết kế hệ điều hành phải được sự giúp sức của các nhà chế tạo máy tính để bảo vệ một tiến trình không bị ảnh hưởng bởi tiến trình khác.
Nhà thiết kế máy tính có thêm 3 trách nhiệm trong việc giúp các nhà thiết kế hệ điều hành bảo vệ các tiến trình là:
- Cung cấp hai chế độ vận hành cho biết tiến trình đang thực hiện là tiến trình của người sử dụng hay tiến trình hệ thống (của người điều hành).
- Cung cấp một tập hợp con trạng thái của bộ xử lý mà tiến trình người sử dụng có thể dùng nhưng không thể sửa đổi.
- Cung cấp các cơ chế để có thể chuyển đổi từ chế độ người dùng sang chế độ người điều hành và ngược lại.
Chúng ta đã thấy, địa chỉ mà bộ xử lý đưa ra phải được biến đổi từ địa chỉ ảo sang địa chỉ vật lý. Điều này giúp phần cứng đi xa nữa trong việc bảo vệ các tiến trình. Cách đơn giản nhất làm việc này là cho phép tiến trình người sử dụng tác động lên các bit cho phép thâm nhập vào mỗi trang hay mỗi đoạn. Khi bộ xử lý phát ra tín hiệu đọc (hay viết) và tín hiệu người dùng (hay hệ thống) thì rất dễ dàng phát hiện các việc thâm nhập trái phép bộ nhớ trước khi việc thâm nhập này gây hư hại. Các tiến trình được bảo vệ và có bảng trang riêng cho mình trỏ đến các trang tách rời nhau trong bộ nhớ.
*****