Bài văn phân tích tác phẩm "Chiếu cầu hiền" số 9 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm hay nhất
Cầu hiền vốn là chủ trương, chiến lược của nhiều quốc gia phương Đông cổ đại trong đó có Việt Nam, bởi đây là một trong những phương thức hữu hiệu nhất để kêu gọi hiền tài về phụng sự cho đất nước. Chiếu cầu hiền ra đời khoảng những năm 1788-1789, khi đất nước vừa trải qua một thời ...
Cầu hiền vốn là chủ trương, chiến lược của nhiều quốc gia phương Đông cổ đại trong đó có Việt Nam, bởi đây là một trong những phương thức hữu hiệu nhất để kêu gọi hiền tài về phụng sự cho đất nước. Chiếu cầu hiền ra đời khoảng những năm 1788-1789, khi đất nước vừa trải qua một thời kỳ loạn lạc, các nhà trí thức của triều đại cũ mang tâm lý bi quan, chán nản, bất hợp tác, tư tưởng trung quân mù quáng, không hiểu rõ triều đại mới, nên họ chọn cách trốn tránh, ở ẩn.
Trong khi đất nước lại đang có nhiều khó khăn, vương triều mới thành lập căn cơ còn chưa vững, rất cần người tài giúp nước, nhận biết được tình hình đó Nguyễn Huệ đã chủ trương ra chiếu cầu hiền nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà vốn là trí thức của triều đại cũ (Lê-Trịnh) ra giúp nước, đồng thời bình ổn chính trị, tránh những cuộc phản loạn đến từ tàn dư của triều đại cũ. Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm cận thần đắc lực của vua Quang Trung chắp bút thay.
Ngô Thì Nhậm (1746-1803), quê ở huyện Thanh Trì, Hà Nội, ông đỗ tiến sĩ vào năm 1775, sau đó vào làm quan dưới triều Lê. Đến năm 1778 triều Lê-Trịnh sụp đổ, nhận thức được quy luật chuyển giao triều đại là tất yếu, nên ông nhanh chóng đi theo triều Tây Sơn, ở đây ông rất được tin dùng và có nhiều trọng trách lớn trong triều đình.
Cũng như nhiều văn bản chính luận khác, Chiếu cầu hiền cũng có một bố cục hết sức chặt chẽ, trước tiên ở phần mở đầu tác giả nêu ra một chân lý, và chân lý ở đây chính là đạo ứng xử của người hiền tài. Rằng người hiền tài, trí thức trên đời đã được định sẵn là phải giúp vua giúp nước, nếu làm trái đạo lý muôn đời ấy là trái với thiên đạo sinh ra người hiền. Để củng cố niềm tin cho người đọc, người nghe Ngô Thì Nhậm đã hết sức khéo léo và tinh tế khi sử dụng hai hình ảnh so sánh để trình bày quy luật của mình một cách thuyết phục.
Hình ảnh thứ nhất ấy là "Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao", thứ hai ấy là ví thiên tử với "ngôi Bắc Thần", một vì sao nằm ở vị trí trung tâm bầu trời. Từ hai hình ảnh so sánh ấy Ngô Thì Nhậm muốn truyền tải một thông điệp ngầm rằng nếu sao sáng xưa nay luôn chầu về Bắc Thần thì trong mối quan hệ tương quan ấy, tất yếu rằng người hiền tài cũng phải trở thành sứ giả cho thiên tử.
Từ đó ta nhận ra được sự thông thái của tác giả khi tinh tế dùng quy luật của tự nhiên của tạo hóa để xây dựng và khẳng định quy luật giữa người hiền tài và quân vương, hướng người đọc và người nghe đến ngụ ý rằng đó đã là đạo trời không thể làm khác được. Một tác dụng thứ hai nữa là hình ảnh sao sáng chầu về Bắc Thần là những hình ảnh nằm trong sách Luận Ngữ của Khổng Tử, một thánh nhân của giới trí thức xưa, chính vì thế có sức thuyết phục mạnh mẽ với các trí thức Bắc Hà.
Sau khi khẳng định chân lý đạo ứng xử của hiền tài, Ngô Thì đi vào phân tích cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nêu lên thực trạng đất nước ta lúc bấy giờ. Đầu tiên về cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm đã dùng rất nhiều những điển tích điển cố và các hình ảnh tượng trưng để nói về cách ứng xử của sĩ phu, trí thức với triều đại mới.
Trước hết là "ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời" đó là bỏ đi ở ẩn, ví như Nguyễn Du, có người "kiêng dè không dám lên tiếng", "gõ mõ canh cửa", hành xử tích cực hơn một chút là ra làm quan, nhưng thái độ cầm chừng, giữ chức vụ thấp kém, không đóng góp gì cho đất nước. Nhưng dù có lựa chọn khác nhau nhưng điểm chung của họ cũng tựu lại ở một bi kịch "chết đuối trên cạn mà không biết".
Việc dùng nhiều điển tích, điển cố và các hình ảnh tượng trưng này có tác dụng tạo nên sự tế nhị trong phê phán, không khiến người nghe phải xấu hổ, mất lòng, đặc biệt đây lại là giới tri thức có học vấn và lòng tự trọng vô cùng cao. Hơn thế nữa các sĩ phu Bắc Hà này luôn có một tư tưởng coi thường Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải, không đủ chữ nghĩa để họ phải phụng sự, việc Ngô Thì Nhậm viết như vậy thể hiện được tầm kiến thức sâu rộng, thể hiện tài năng uyên bác của vua Quang Trung để thuyết phục các sĩ phu này.
Sau khi chỉ ra cách ứng xử và phê phán ngầm các sĩ phu Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm bắt đầu đi vào tìm hiểu nguyên nhân bằng cách đặt ra hai câu hỏi "trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng?" và "Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự chư hầu chăng?". Việc đặt ra hai câu hỏi liên tiếp theo thế lưỡng đao nhằm nhấn mạnh sắc thái phủ định, buộc người đọc phải xem xét lại cách ứng xử của mình mà ra giúp dân giúp nước cho phải đạo.
Không chỉ nêu lên cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm còn tiếp tục nêu lên những hiện trạng của đất nước để lay tỉnh các sĩ phu Bắc Hà, đánh động vào tấm lòng yêu nước thương dân, tấm lòng muốn cống hiến cho đất nước của các trí thức này.
Tác giả lần lượt chỉ ra ba cái thực trạng và đất nước đang phải đối mặt, thứ nhất là tính chất của thời đại đó buổi đầu của nền đại định, mới dẹp yên thù trong giặc ngoài, mới bắt tay vào công cuộc xây dựng nghiệp đế vương cho nên còn nhiều thiếu sót (kỷ cương triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan, dân còn mệt nhọc chưa lại sức, đức hóa của Nguyễn Huệ còn chưa kịp nhuần thấm khắp nơi), có thể nói là khó khăn chồng chất khó khăn.
Hiện trạng thứ hai được Ngô Thì Nhậm nêu lên thông qua chân lý tất yếu rằng "một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn", tương quan với đó thì "mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình". Từ đó khai mở cho các trí thức hiểu rằng một mình Nguyễn Huệ không thể đủ sức để đảm đương tất cả những công việc khó khăn, thử thách chồng chất. Và cuối cùng tác giả nêu lên một thực tế rõ ràng thiên hạ có rất nhiều người tài, cũng như lời Nguyễn Trãi trong Đại Cáo Bình Ngô rằng "Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/Song hào kiệt đời nào cũng có".
Và thông qua 3 tiền đề, 3 hiện trạng rõ ràng như thế của đất nước, từ đó đi đến một mục đích duy nhất là lay tỉnh các sĩ phu Bắc Hà, những hiền tài đang trốn tránh, cầm chừng phải thay đổi cách ứng xử của mình, giúp đỡ Nguyễn Huệ để xây dựng đất nước.
Sau những chân lý và hiện trạng của đất nước như thế thì Ngô Thì Nhậm đi đến mở ra đường lối cầu hiền và khơi gợi những viễn cảnh tốt đẹp của đất nước. Nguyễn Huệ đã mở ra những con đường rộng mở cho người hiền tài: Tất cả mọi người từ quan đến dân miễn là là có tài năng, mưu lược đều có quyền dâng sớ để tỏ bày việc nước, đóng góp hợp lý sẽ được cất nhắc, nếu viển vông thì cũng không bắt tội; thứ hai là con đường tiến cử cũng rộng mở, dễ thực hiện, cho phép quan lại tiến cử người có tài, có nghề giỏi, rồi tùy mà sử dụng, cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử.
Ngô Thì Nhậm cũng nêu lên những tương lai tốt đẹp đang mở ra, trước hết là viễn cảnh "cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh", để khích lệ động viên hiền tài, thể hiện niềm tin vào tương lai đất nước đang mở ra những cơ hội tốt đẹp cho người hiền "trời trong sáng đất thanh bình, cũng là lúc người hiền gặp hội gió mây".
Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm không chỉ thể hiện hiện chủ trương sáng suốt của nhà Tây Sơn mà còn có vai trò động viên, kêu gọi trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước, từ đó mang đến những nhận thức đúng đắn về vai trò và trách nhiệm đối với công cuộc xây dựng đất nước của mỗi một con người, không chỉ riêng gì các bậc hiền tài. Văn bản thành công bởi nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lý lẽ thuyết phục, đặc biệt tuy là văn chính luận nhưng giọng văn rất tha thiết, chân thành có sức lay động mạnh mẽ.