Bài văn phân tích tác phẩm "Bắt sấu rừng U Minh Hạ" số 9 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Bắt sấu rừng U Minh Hạ" của Sơn Nam
Nhắc đến Sơn Nam, người đọc hầu như ai cũng nghĩ đến một nhà khảo cứu sâu sắc, một nhà văn đầy tâm huyết về miền đất cực nam của tổ quốc. Hầu như tất cả các tác phẩm của ông đều tập trung vào đề tài này. Riêng về sáng tác văn học, tác phẩm đặc sắc nhất và tiêu biểu nhất của Sơn ...
Nhắc đến Sơn Nam, người đọc hầu như ai cũng nghĩ đến một nhà khảo cứu sâu sắc, một nhà văn đầy tâm huyết về miền đất cực nam của tổ quốc. Hầu như tất cả các tác phẩm của ông đều tập trung vào đề tài này.
Riêng về sáng tác văn học, tác phẩm đặc sắc nhất và tiêu biểu nhất của Sơn Nam chính là tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, trong đó, bắt sấu rừng u minh hạ là một trong các truyện ngắn nổi bật hơn cả của ông. Trên từng trang viết, Năm Hên, ông già bắt sấu, nhân vật chính của truyện đã hiện lên khá sinh động và lôi cuốn người đọc.
Rừng U Minh Hạ là một khu vực thiên nhiên còn hoang dại: Muỗi vắt nhiều hơn cỏ. Chướng khí mù như sương” (Thay lời tựa Hương rừng Cà Mau). Nơi mà những người dân miền cực nam Tổ Quốc đang khai khẩn và sinh sống. Từng ngày, từng giờ họ sẵn sàng đấu tranh với thiên nhiên và thú dữ để bảo tồn sự sống của mình.
Những con người “trên phá Sơn Lâm, dưới đâm Hà Bá”. Này đã có công làm cho mảnh đất nơi đây phì nhiêu, màu mỡ bằng cách bón vào lòng đất mới mồ hôi và xương máu của chính mình. Trong cuộc đấu tranh khắc nghiệt đầy sinh tử ấy đã xuất hiện không ít những con người đôn hậu, thật thà nhưng đầy mưu lược và dũng cảm Năm Hên Ông già bắt sấu trong truyện này đúng là một con người như thế.
Mang đậm nét tính cách của người nông dân Nam bộ trong buổi đầu tìm đất mới để sinh cơ lập nghiệp, ông Năm Hên, trước hết là một con người thật thà đôn hậu. Tuy là cung cách xuất hiện của ông rất lạ: Trong xuồng vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu. Từ sớm đến chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát”.
Lại nữa, bài hát của ông nghe sao mà “ảo não rùng rợn” như thể đang ru dỗ cho một linh hồn oan khuất nào đó. Nhưng khi thấy bà con có vẻ nghi ngờ, thiếu tin tưởng về cách bắt xấu bằng tay không của mình, ông Năm Hên đã thật thà bộc bạch: Tôi đây không tài giỏi chi hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thị họ nói là bùa phép để kiếm tiền. Là một người thật thà, đôn hậu, ông Năm Hên hành động vì nghĩa, không màng lợi lộc riêng tư cho mình.
Ông tâm sự: “Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt nỗi không màng thứ phú quí đó..”, Người đọc hiểu ra, khi mới đến đây xưng tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp, ông đã cải chính cách gọi về sự hành nghề của mình là bắt sấu chớ không phải câu sấu là thể hiện sự ẩn giấu một niềm tự hào thầm kín về công việc của mình, một công việc hoàn toàn vì nghĩa.
Thấy việc cần làm là làm, thấy người hoạn nạn là không ngại hiểm nguy ra sức giúp đỡ chẳng chút tính toán thiệt hơn. “Không màng thứ phú quí đó, đúng như lời nói ông già bắt sấu. Hình ảnh của ông không khỏi gợi chúng ta liên tưởng đến ông Ngư, ông Tiều, ông quán trong truyện Lục Vân tiên của Nguyễn Đình chiểu, như con người luôn ngời sáng một tinh thần hành động vì nhân nghĩa.
“Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng…
Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ”
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây”
Do bộc bạch hết sức chân thành về gia cảnh và động cơ nghề nghiệp của mình, ông Năm Hên đã tạo được niềm tin bước đầu của dân làng. Câu nói của ông lúc đầu: “Tôi đây không tài giỏi chi hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít” là câu nói khiêm tốn, thực tế cho thấy ông là người đầy mưu trí.
Cách bắt sấu của ông được Tư Hoạch kể lại quả thật là tài tình: Lửa châm vô sậy, đế, cóc kèn xung quanh bắt cháy xuống đám sậy để trong ao. Chập sau bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hòi nãy… Ông đút vô miệng sấu một khúc mốp.
Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhà ra cũng không được và: Ông Năm Hên xách cây mác, nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp mình…
Nghe chuyện nầy có người đã nhận xét: “Thực là bậc thánh của xứ nầy rồi! Mưu kế như vậy thực quả cao cường”. Cũng qua lời tường thuật lại chuyện bắt sấu một cách khá cặn kẽ của Tư Hoạch, ai cũng thấy rõ ông Năm Hên là người rất dũng cảm. Phải dũng cảm mới giữ vững được thái độ bình tĩnh trước lời sấu dữ mà chẳng chút nao lòng sợ sấu há miệng hung hăng đòi táp (ổng).
Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Chính nhờ lòng dũng cảm, bình tĩnh, nên ông Năm Hên đã đánh gục được đàn sấu ăn thịt người. Bốn mươi lăm con cá sấu bị ông thòng cổ cho người xuôi sông chở về. Loài “thủy quái ấy” ngoan ngoãn phục tùng cứ như là được thuần dưỡng rồi vậy. Với lòng dũng cảm, ông đã thực sự là chủ nhân của vùng đất rừng hoang dại này.
Chính môi trường sống khắc nghiệt đã khiến con người phải mài sắc mưu mẹo và tài trí của mình để sinh tồn. Trở lại tính cách của hình tượng ông già “bắt sấu rừng U Minh Hạ” này, ta thấy ông còn là một con người mang tâm sự u uất. Hãy nghe ông bày tỏ gia cảnh: Cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi…. Anh bị sấu ở Ngã Ba Đình bắt mất. Đây là một tổn thất lớn lao đối với ông. Bởi vậy ông thề quyết tâm trả thu cho anh mình.
Mười hai năm trôi qua kể từ ngày đó mối thù ấy vẫn không nguôi. Cảnh sấu xuất hiện ở rừng nhiều như trái mù u chín rụng lúc này được gợi lên trong lòng ông một nỗi đau nhức nhối tâm can, một nỗi cực lòng như chính ông đã chân thành bộc bạch với dân làng. Tâm sự đó, ông gửi vào lời hát:
“Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Đầu bãi cuối gành
Hùm tha, sấu bắt
Bởi vì thắt ngặt
Manh áo chén cơm
U Minh đỏ ngòm
Rừng tràm xanh biết!
Ta thương ta ta tiếc
Lập đàn giải oan….”
Thấy nhà văn miêu tả giọng hát của ông ảo não, rùng rợn, “Tiếng như khóc lóc nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ bi ải” người đọc đủ hiểu. Lại nữa nội dung bài hát buồn thảm. Đó không chỉ là lời tiếc thương của ông đói với người anh xấu số của mình mà đó còn là tiếng chiêu hồn tưởng nhớ đến, gọi về biết bao mảnh hồn người xa xứ vì “thắt ngặt manh áo chén cơm”. Giữa cảnh “U Minh Hạ đỏ ngòm, rừng tràm xanh biếc” đã phải thiệt mạng do “hùm tha, sấu bắt”…
Người đọc càng thêm thông cảm ông, một con người sống tinh thần phong phú sâu sắc nên không bận lòng đến cuộc sống vật chất. Vì thế mà hành trang trên đường đi bắt sấu dữ cứu giúp dân lành của ông thật đơn sơ: Trong xuồng có vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu.
Đặc biệt, tâm sự u uất của người thợ già chuyên bắt sấu nầy thể hiện rõ nét qua hình ảnh thảm thương đầy bí ẩn của ông ở đoạn cuối truyện, sau khi bắt được đàn sấu: áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay. Cứ tưởng như ông đang nhập đồng. Phải chăng ông thay mặt cho dân làng ở đây hát lên lời “Cầu siêu” cho biết bao oan hồn uổng tử đã vất vưởng lang than nơi “đầu bãi, cuối gành” buổi nào đã từng bỏ mạng vì cá sấu trong cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn bao đời nay cho cư dân ở đây”.
Như thế, thông qua lời nói, hành động, thể hiện nội tâm nhân vật, đặc biệt là chỉ bằng vài chi tiết đơn sơ, nhà văn Sơn Nam đã thể hiện được tính cách nhân vật chính, ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở rừng u Minh Hạ này một cách sinh động với sắc thái Nam bộ rõ nét là thật thà, đôn hậu đầy mưu trí và đặc biệt trọng nghĩa khinh tài.
Chúng ta đã đọc nhiều tác phẩm văn học từ sau Cách mạng tháng Tám, khắc họa khá thực, cụ thể và sinh động hình tượng người nông dân Nam bộ. Đó là những con người ít nhiều có dáng dấp tinh thần vị nghĩa của Lục Vân Tiên: thật thà, đôn hậu rất mực trung thành với chính nghĩa, với lí tưởng, với cách mạng, dũng cảm bất khuất trước kẻ thù.
Với nhân vật ông Năm Hên nói riêng, và truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ nói chung của nhà văn Sơn Nam, chúng ta được hiểu thêm một vẻ đẹp của người Nông dân Nam Bộ trong buổi đầu đi tìm đất mới, khai phá đất rừng hoang dại để mưu cầu sự sống còn. Dù mưu trí và dũng cảm đến đâu họ cũng không tránh khỏi biết bao gian lao nguy hiểm, nhiều lúc phải gặp cả những mất mát đau xót. Ngày nay được sống trên mảnh đất yêu thương này, đâu lẽ chúng ta quên lãng công đức của bao lớp tiền nhân…