Bài văn phân tích tác phẩm "Dọn về làng" số 5 - 5 Bài văn phân tích tác phẩm "Dọn về làng" của Nông Quốc Chấn hay nhất
Đọc bài văn Dọn về làng, người đọc như cảm nhận được không khí hào hùng của dân tộc sau ngày chiến thắng. Bài thơ được sáng tác trong chiến dịch Biên giới Thu – Đông 1950, thể hiện khí thế hào hùng của dân tộc và là một món ăn tinh thần tiếp thêm sức mạnh vô biên cho dân tộc, góp ...
Đọc bài văn Dọn về làng, người đọc như cảm nhận được không khí hào hùng của dân tộc sau ngày chiến thắng. Bài thơ được sáng tác trong chiến dịch Biên giới Thu – Đông 1950, thể hiện khí thế hào hùng của dân tộc và là một món ăn tinh thần tiếp thêm sức mạnh vô biên cho dân tộc, góp phần vào thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta.
Bài thơ Dọn về làng được sáng tác trong chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950, là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nông Quốc Chấn. Nguyên tác bằng tiếng Tày, sau đó được tác giả dịch ra tiếng phổ thông theo thể thơ tự do. Năm 1951, tại Đại hội liên hoan thanh niên và học sinh thế giới tại Béc-lin, bài thơ đã được tặng giải Nhì, đã được dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu trên tạp chí Châu Âu.
Bài thơ đã mang đến một luồng sinh khí mới, một cuộc sống tươi đẹp cho đồng bào giữa lúc chiến tranh ác liệt. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tương phản giữa quá khứ đau thương với niềm vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn dậy của quê hương và của đồng bào các dân tộc Cao - Bắc- - Lạng. Ngay từ những câu mở đầu của bài thơ, tác giả đã cho người đọc hình dung chiến thắng huy hoàng của quân ta và sự thất bại ê chề của quân giặc:
"Mẹ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi".
Trong chiến dịch Biên giới quân ta đã dành được những thắng lợi hết sức vẻ vang. Gọng kím đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh chiếm đồn Đông Khê, tiêu diệt hai binh đoàn Sác-tông và Lơ-pa, hàng ngàn giặc Tây "bị chết bị bắt sống". Hai so sánh "Người đông như kiến, súng đầy như củi" đã nói lên thật hay sức mạng và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta thuở ấy.
Trong niềm vui hân hoan chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ, đau thương dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn. Trên bước đường trở về làng cũ để "sủa nhà phát cỏ", để "Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai", đứa con bồi hồi nhớ lại:
"Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi".
Trong những ngày loạn lạc, phải tản cư ra vùng không có giặc, người con ấy đã phải quên đi những lễ tết lâu đời. Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc phải "quên" đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải qua bao cay đắng vì phải chạy giặc triền miên: "Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi".
Khi đã đánh tan quân giặc, người dân sẽ không phải chứng kiến những cảnh đau thương đó nưa, nhung quên sao được những kỉ niêm thương đau một thời gian khổ với bao thiên tai, địch họa. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán sụp, cửa nát, vắt bám đầy chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao thảm cảnh:
"Súng nổ kìa! Giặc Tây lại đến lùng,
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi
Nớ vơ hết áo quần trong túi..."
Qua những ngòi bút miêu tả của tác giả cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng bào dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp được tái hiện lại. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không gian nghệ thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống và cảm động. Cảnh người mẹ chạy giặc, vừa địu con, vẫy em, vừa "Tay dắt bà, vai đeo đầy tay nảy - Bà lòa mắt không biết lối bước đi". Cảnh người cha bị giặc bắt, "Cha chửi Việt Gian, cha đánh lại Tây" rồi bị giặc giết một cách dã man:
"Súng liền nổ ngay cùng một loạt,
Cha ngã xuống nằm trên mặt đất".
Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt:
"Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi chôn cất
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo liệm thân cho bố,
Mẹ con ẵm cha đi nằm ở chân rừng
Máu đầy tay, nước mắt tràn đầy..."
Trong chiến tranh ác liệt, những cái chết diễn ra thường xuyên và dù họ quyết tử cho tổ quốc, cho nhân dân, nhưng những người ở lại vẫn rất đau lòng. Tất cả những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng thét căm thù uất hận vang lên:
"Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn.
Băm xương thịt mày, tao mới hả".
Đoạn thơ thể hiện được ý chí đánh giặc kiên cường của dân tộc, quân giặc dù có hung tàn đến đâu nhưng không thể khuất phục được nhân dân, không làm nhụt chí khí sôi sục của dân tộc. Những tháng ngày đau khổ đã qua đi, thay vào đó là niềm vui giải phóng, quê hương được hồi sinh, sức sống của dân tộc trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ. Có bao âm thanh giữa không gian rộng lớn Cao - Bắc - Lạng.
Có tiếng "cười vang", tiếng "người nói", tiếng cười con trẻ "ríu rít" cắp sách đến trường. Có tiếng ô tô "kêu vang", có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao hình ảnh náo nức đáng yêu:
"Hôm nay, Cao - Bắc - Lạng cười vang,
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng.
Người nói cỏ lay trong rừng rậm
Cuốc đất, dọn cỏ mẹ khuyên con".
Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả nhắc lại sáu lần chữ "không" (Không biết lối đi, cha không biết nói rồi, không ai chống gậy khi bà cụ qua đời, không biết nơi tìm, không ván không người đưa cha đi chôn cất) để phản ánh bao nỗi đau đè nặng lòng người, thì ở hai đoạn, điệp ngữ "không" bốn lần xuất hiện để làm nổi bật hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình đứng thẳng dậy của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao - Bắc - Lạng. Đó là sự hồi sinh sự sống sau những tháng ngày tăm tối. Cuộc sống tươi đẹp, ấm lo thực sự đã trở lại với người dân nơi đây:
"-Từ nay không ngập cỏ lối đi
- Hổ không dám đến để con trong vườn chuối.
- Quả trong vườn không lo tự chín, tự rụng
- Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng".
Những câu thơ cuối bài thơ là lời chào mẹ của người con trước khi lên đường đi đánh giặc. Lời chào đó đã gắn với lời hứa quyết tâm chiến thắng quân giặc đem lại sự bình yên cho dân tộc và trở về phụng dưỡng người mẹ già của mình.
"Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,
Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ".
Bài thơ đã để lại cho chúng ta nhiều cảm xúc, làm tái hiện lại khí thế hào hùng của dân tộc trong ngày chiến thắng, những mất mát đau thương mà dân tộc đã trải qua và sự quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ quê hương đất nước của nhân dân. Bài thơ sẽ sống mãi trong lòng người đọc, như một liều thuốc tiếp thêm sức mạnh cho lòng yêu nước của dân tộc.