Bài văn phân tích phẩm Đời thừa của Nam Cao cực hay
ĐỀ: Phân tích truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao. ''Nam Cao phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương, xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương...'' BÀI LÀM Truyện ngắn Đời thừa viết năm 1943. Có thể xem Đời thừa, về mặt chủ đề, góp phần chuẩn bị ...
ĐỀ: Phân tích truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao. ''Nam Cao phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương, xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương...''
BÀI LÀM
Truyện ngắn Đời thừa viết năm 1943. Có thể xem Đời thừa, về mặt chủ đề, góp phần chuẩn bị trực tiếp cho tiểu thuyết sống mòn cửa nhà văn hoàn thành vào năm sau đó, năm 1944. Không phải ngẫu nhiên mà cả hai tác phẩm đều có tính chất tự truyện và nhan đề đều bộc lộ một tâm trạng, một tư tưởng sáng tạo gần gũi nhau.
ĐỜI thừa viết về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ là một con người trung thực, yêu thương vợ con, rất có trách nhiệm đối với gia đình, là một con người cầm bút có suy nghĩa đúng đắn, nghiêm túc về nghề nghiệp, có hoài bão xây dựng được một tác phẩm thật có giá trị ‘sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời ‘, thậm chí có thể được trao giải Nobel. Nhưng trong thực tế, Hộ phải chịu bao nhiêu buồn lo, cực
nhục trong cuộc sống. Hộ phải làm quần quật nhưng vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi sống gia đình, chạy chữa thuôc men cho một bầy con nhỏ quặt quẹo, đau ốm luôn. Là một người đàn ông, một người-chồng, một người cha có tinh thần tự trọng, Hộ rất khổ tâm trước cảnh nhà tung thiếu, nhất là nhìn thấy Từ, vợ mình, người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ với người tình cũ, đến với mình đầy ân nghĩa, lại phải chịu đựng, lầm lũi, vất vả quá. Lúng túng, khổ tâm vì chuyện gia đình, Hộ không mấý khi ngồi viết văn một cách thanh thản, thực hiện được những đưa mình ưa thích, mong muôn. Và bất chấp động cơ, ý nghĩa tốt đẹp, Hộ phải viết một cách cẩu thả, bôi bác, để kiếm tiền, tạo ra những sản phẩm mà mỗi lần đọc lại ‘hắn đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng mình như một thằng khốn nạn‘. Những sự dằn vặt trong gia đình vì nghèo, vì cảnh vợ con nheo nhóc, thêm sự bất mãn, sự xấu hổ trong việc viết văn mà Hộ thiết tha và đặt bao nhiêu hy vọng, càng ngày càng biến Hộ thành một người bẩn tính, thô bạo, bất cần. Hộ mắng chửi vợ con, say rượu liên miên. Nhưng mỗi khi tỉnh lại, Hộ lại buồn bã, hôi hận, càng thương vợ thương con và tự trách mình.
Qua tác phẩm của Nam Cao, ta thấy những người tốt, những người có mơ ước hoài bão, những người lao động trung thực, cần cù, sao mà khổ quá, khô cả về vật chất và tinh thần!
Trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng Hộ là một nhà văn, Hộ càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, không lối thoát, một bi kịch thật sự, Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh: biết không phải như vậy. Chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình, gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khố.
Nhân vật chính trong tác phẩm là một nhà văn. Cho nên trong tác phẩm, thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật, Nam Cao đã đề cập trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm, đó là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương.
HỘ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ. Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất, dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngầm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Văn chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Một lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc được một đoạn văn hay:
‘ Này, Từ ạ... Nghĩ cho kĩ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi lam cái thân tôi khổ, tôi mè văn quá nên mới khổ. ấy thè, mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận lợi đồi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đối. Tôi cho ràng: những khi dược dọc một doạn văn như doạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu củng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên
hạ lại có người tài đến thế? ‘
Theo Hộ, một tác phẩm thật có giá trị, tác phẩm Hộ mong viết được trong cả một đời nhà văn của mình, không thể chỉ có giá trị địa phương thôi, không chỉ tả được cái bề ngoài của xã Hội, mà ‘Phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn ‘.
Chắc chắn đó cũng là mong ước, là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn chương. Văn chương không chỉ là nghề mà còn là nghiệp, một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương, về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức, là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người. Văn chương là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài. Tác dụng cao quý của văn chương là nhản đạo hóa xã Hội và cuộc sống, làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau.
Nam Cao phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương, xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: ‘Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì củng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là dê tiện ‘. Nam Cao cũng khẳng định rất rõ rằng viết văn, làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo không ngừng, mang đến cho người đọc một cái gì lạ, một cái gì đó mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết: ‘Văn chương không can đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có! ‘
Đó là một quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Nhà văn, nghệ sĩ tất nhiên phải biết ‘hành nghề ‘, phải am hiểu về kĩ thuật, phải ‘khéo tay ‘ ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó, chẳng hạn như điêu khắc, biếu diễn âm nhạc v.v... Nhưng nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói, không phải là người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn, theo ‘đơn đặt hàng‘ của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là ‘Thôi thúc bên trong ‘ là tình cảm, tư tướng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành tranh... Chỉ có thứ văn chương ‘gan ruột ‘, không viết ra không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.
Hơn nữa, trong lĩnh vực văn chương chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu sắc mới, ‘khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gi chưa có ‘. Không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới, không có được một cách nhìn mới, tiếng nói mới, thì cũng không thể nào có được chỗ đứng thật sự .trong thế giới nghệ thuật.
Theo Nam Cao, những người cầm bút chỉ viết về những cái vô vị, nhạt
nhẽo, gợi những tình cảm nông cạn, ‘diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bàng phảng và quá ư dễ dãi ‘, chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương, là những kẻ vô ích, những người thừa. Trong tác phẩm, Nam Cao đã dùng các khái niệm người thừa, dời thừa theo một nghĩa xác định. Thừa là không có ích, không cần thiết cho con người, xã Hội. Chỉ có những người trung thực, những người có suy nghĩ đúng và có yêu cầu cao về giá trị của con người trong cuộc sống, về sự sáng tạo đích thực, mới biết thế nào là thừa, mới dám nhận và xót xa về tình trạng thừa của mình. Người thừa, đời thừa là một nhận thức, một tiếng kêu về sự vô vị, bế tắc trong cuộc sống.
Chủ đề này Nam Cao đã nêu ra dưới dạng này, dạng khác trong nhiều truyện ngắn của mình, đặc biệt là sau này đã khai thác một cách rộng hơn, sâu hơn trong tiểu thuyết Sống mòn.
Những nhân vật của Nam Cao, đặc biệt là những nhân vật trí thức, thường sống nhiều với nội tậm. Đề’ trình bày đời sống bên trong của nhân vật, có khi tác giả trực tiếp dùng biện pháp miêu tả tâm lí, nhưng lại hay để cho nhân vặt tự bộc lộ, tự nói với mình, ‘độc thoại bên trong ‘. Trong Đời thừa, Nam Cao cũng kết hợp hai biện pháp: miêu tả những hành động cử chỉ của nhân vật, quan hệ, lời ăn tiếng nói của nhân vật, đồng thời để nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình (độc thoại bên trong). Chính do vậy mà tác phẩm mang nhiều tính chất trữ tình, nhiều đoạn vần thật sự làm xúc động người đọc, vì những suy nạhĩ chân thành, vì những nỗi đau đời của nhân vật và của chính tác giả. ở chiều sâu của Đời thừa, có một chất thơ từ niềm khát kháo cái đẹp, khát khao cuộc sống trong đó .con người biết thương yêu nhau và có thể sống một cách xứng đáng, có ý nghĩa. Nam Cao hay nói đến Tsêkhôp, mong viết đựợc như Tsêkhôp. ở Nam Cao có chất thơ, chất trữ tình, có nỗi buồn, tình yêu thương xót xa đối với con người như ở Tsêkhôp. Và, cũng như Tsêkhôp, Nam Cao cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.
Những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua, lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường, những ý nghĩa cao quý và tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút, cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói; nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống , nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa. Tác phẩm của Nam Cao luôn luôn khiến người ta chú ý hơn, nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở xung quanh và ở chính mình, sông có ý thức hơn, nhân ái hơn, kéo con người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác, tự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta ‘bất an‘ như một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương.
Đời thừa có một kết câu rất tự nhiên. Thực chất đây là một loại truyện không có cốt truyện. Sự việc hầu như không có gì. Nhà văn có nói qua về quá khứ bất hạnh của Từ, về quá trình Hộ và Từ quen biết nhau và nên vợ nên chồng, về một buổi gặp gỡ giữa Hộ và các bạn làng văn; nhưng tập trung chủ yếu vào suy nghĩ và nỗi khố tâm của Hộ vì không được thực hiện nguyện vọng thiết tha của đời mình là viết văn, hoàn thành những tác phẩm thật có giá trị như mình mong ước và tin rằng có khả năng làm được. Lẽ ra phải dồn hết tâm lực cho văn chương, cống hiến cho sự nghiệp cao quỷ đã lựa chọn tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình, thì ÍIỘ lại tất tưởi lo kiếm sống, luôn luôn bị quấy rầy bởi cảnh gia đình nheo nhóc, túng quẫn; do đó mà con người cũng trở nên thô bỉ, hèn kém, mộng tưởng ban đầu cũng tàn lụi dần. Tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo, vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và bên kia là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình vất vả, thiêu thôn hàng ngày. Đặc sắc và chiều sâu cứa tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ, ở chất lượng những suy nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương.
Có thể nói nhân vật trong Đời thừa là một nhân vật tâm trạng. Chất thơ, chất trữ tình bàng bạc khắp tác phẩm do đấy mà ra.
Chiều sâu và sự mới mẻ của chủ đề, chất lượng, suy nghĩ, chất thơ và chất trữ tình đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho Đời thừa, cũng như cho nhiều tác phẩm khác của Nam Cao có cấu tạo một cách tự nhiên, khiến người đọc có thể trở lại nhiều lần với truyện ngắn của ông, dừng lại trên từng ý, từng câu văn ông viết ra.