Bài 26 – Câu trần thuật đơn
Bài 26 – Câu trần thuật đơn Hướng dẫn I. CÂU TRẦN THUẬT ĐƠN LÀ GÌ 1. Các câu dưới đây được dùng làm gì? Chưa nghe hết câu, tôi đã hếch răng lên, xì một hơi rõ dài. Rồi, với bộ điệu khinh khỉnh, tôi mắng: – Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế ...
Bài 26 – Câu trần thuật đơn
Hướng dẫn
I.CÂU TRẦN THUẬT ĐƠN LÀ GÌ
1. Các câu dưới đây được dùng làm gì?
Chưa nghe hết câu, tôi đã hếch răng lên, xì một hơi rõ dài. Rồi, với bộ điệu khinh khỉnh, tôi mắng:
– Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta nào chịu được. Thôi, im cái điệu mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!
Tôi về, không một chút bận tâm.
Câu: "Chưa nghe hết câu… rõ dài!" miêu tả một thái độ.
Câu: "Rồi, với bộ điệu khinh khinh, tôi mắng" miêu tả một thái độ
Các câu: "Hức! Thông ngách… thì cho chết" nêu lên các ý kiến.
Câu: "Tôi về, không một chút bận tâm" miêu tả một thái độ của nhân vật.
2. Xác định chủ ngữ vị ngữ của các câu trên:
Câu a: chủ ngữ: tôi; vị ngữ: hếch răng lên, xì một hơi rõ dài.
Câu b: chủ ngữ: tôi, vị ngữ: mắng.
Câu c: chủ ngữ: chú mày, vị ngữ: hôi như cú mèo thế này.
chủ ngữ: ta, vị ngữ: nào chịu được.
Câu d: chủ ngữ: tôi; vị ngữ: về, không chút bận tâm.
(Còn một số câu khác viết theo lối tỉnh lược, bỏ bớt thành phần nên không xếp vào đây).
3. Xếp loại:
– Câu do một cặp chủ ngữ – vị ngữ tạo thành: câu a, câu b, câu d.
– Câu do hai cụm C – V sóng đôi tạo thành: câu c.
Chú ý:
Câu trần thuật đơn là câu do một cụm C – V tạo thành, dùng để giới thiệu, tả hoặc kể về một sự việc, sự vật hay để nêu một ý kiến.
II. LUYỆN TẬP
1. Tìm câu trần thuật đơn trong đoạn trích đã cho và cho biết chúng được dùng làm gì?
Các câu trần thuật trong đoạn trích:
Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa.
Câu này dùng để miêu tả.
Từ khi có vịnh… dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy. (Từ đầu câu đến chữ bao giờ là phần trạng ngữ của câu).
Câu này dùng để giới thiệu và thuyết minh.
2. Dưới đây là một số câu mở đầu các truyện em đã học. Chúng thuộc loại câu nào và có tác dụng gì?
a) Ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có một vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân.
Câu này là câu trần thuật đơn dùng để giới thiệu nhân vật.
b) Có một con ếch sông lâu ngày trong một giếng nọ.
Câu này là câu trần thuật đơn dùng để giới thiệu nhân vật.
c) Bà đỡ Trần là người huyện Đông Triều.
Câu này là câu trần thuật đơn dùng để giới thiệu nhân vật.
3. Cách giới thiệu nhân vật chính trong những truyện sau có gì khác so với cách giới thiệu nêu trong bài tập 2?
a) Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm, bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô.
(Thánh Gióng)
b) Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một người chồng thật xứng đáng.
Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn.
(Sơn Tinh, Thủy Tinh)
c) Ngày xưa có ông vua nọ sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu quan cũng ra những câu đố oái oăm để hỏi mọi người. Đã mất nhiều công tìm kiếm nhưng viên quan vẫn chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.
Một hôm, viên quan đi qua cánh đồng làng kia, chợt thây bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng […].
– Trong bài tập 2, người ta dùng cách giới thiệu trực tiếp, tức là nói thẳng đến các nhân vật chính.
– Trong bài tập 3, người ta dùng cách giới thiệu gián tiếp, nói tới nhân vật khác hoặc sự việc khác rồi mới dẫn tới việc nói về nhân vật chính.
4. Ngoài tác dụng giới thiệu nhân vật, những câu mở đầu sau đây còn có tác dụng gì?
a) Xưa có một người thợ mộc dốc hết vốn trong nhà ra mua gỗ để làm nghề đẽo cày.
(Đẽo cày giữa đường)
b) Người kiếm củi tên Mỗ ở huyện Lạng Giang, đang bổ củi ở sườn núi, thấy dưới thung lũng phía xa, cây cỏ lay động không ngớt mới vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng, cúi đầu vào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy tay móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra.
– Ở ví dụ a, cách giới thiệu trên còn cho ta thấy rõ quyết tâm làm nghề của người thợ mộc.
– Ở ví dụ b, cách giới thiệu không chỉ cho ta biết quê quán, nghề nghiệp của người kiếm củi mà còn đặt anh vào một tình hình đặc biệt khác thường để từ đó dẫn đến những tình tiết tiếp theo hết sức li kì của câu chuyện. Cách mở đầu này gây được sự hấp dẫn ngay từ đầu câu chuyện.
Mai Thu