Ai là Đô đốc Long?
Kỷ niêm 226 năm trận Ngọc Hồi-Đống Đa (1789-2015) AI LÀ ĐÔ ĐỐC LONG? Lê Ngân* “Đô đốc Long” là danh tướng Tây Sơn với chiến công huyền thoại:chỉ huy đạo quân ...
Kỷ niêm 226 năm trận Ngọc Hồi-Đống Đa (1789-2015)
AI LÀ ĐÔ ĐỐC LONG?
Lê Ngân*
“Đô đốc Long”là danh tướng Tây Sơn với chiến công huyền thoại:chỉ huy đạo quân đánh thắng quân Thanh ở Khương Thượng-Đống Đa tiến trước vào giải phóng Thăng Long trong trận quyết chiến Ngoc Hồi-Đống Đa do Quang Trung chỉ huy đầu năm Kỷ Dậu(1789).Tuy nhiên Hoàng Lê nhất thống chí xuất bản từ thời Tây Sơn chỉ nêu vỏn vẹn “Đô đốc Long”,không họ,không quê quán.Cho đến nay có thêm nhiều tài liệu xác nhận “Đô đốc Long” với họ tên,quê quán khác nhau:
Sách Đại nam chính biên liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn và Tây Sơn thủy mạt khảo của Đào Nguyên Phổ chép là “đô đốc Mưu”. Sách Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn Trọng Trì chép là “Đô đốc Đặng Văn Long,quê ở huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn” (Bình Định).Sách Quảng Nam đất nước và nhân vật của Nguyễn Quang Thắng chép là “Đô đốc Lê Văn Long, người làng Phú Xuân Trung, huyện Lệ Dương, châu Thăng Hoa “(nay thuộc thị xã Tam Kỳ, Quảng Nam).Tạp chí Cẩm Thành,Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ngãi chép là“Đô đốc Nguyễn Tăng Long,quê làng Đông Thành, xã Tịnh Thọ,huyện Sơn Tịnh,tỉnh Quảng Ngãi.” Phan Huy Lê trong bài viết Đô đốc Long và một số di vật thời Tây Sơn mới phát hiện đã chứng minh rằng Đô đốc Long chính là “Đô đốc Đặng Tiến Đông người làng Lương Xá (Chương Mỹ, Hà Tây)”, Đỗ Văn Ninh trong bài Đô đốc Đặng Tiến Đông hay Đô đốc Đặng Tiến Giản, khẳng định: Đặng Tiến Đông là cách đọc sai tên chữ Hán trên các di bản Phan Huy Lê đã khai thác,phải đọc đúng là Đặng Tiến Giản cũng là Đô đốc Tây Sơn nhưng không phải là Đô đốc Long.v.v…
Chưa bao giờ có nhiều tài liệu nói khác nhau về Đô đốc Long như vậy!
Vậy ai là Đô đốc Long?Bài viết dưới đây căn cứ vào các nguồn sử liệu:Sắc phong,văn bia,gia phả,tư liệu trong một số dã sử bằng chữ Hán đã được dịch và xuất bản,tư liệu của một số nhà nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí,báo in…để có một số nhận định về các lập luận trên với hy vọng góp phần giảm bớt một số phương án bất hợp lý tạo thuận lợi cho giới chức năng sử học tìm ra câu trả lời trước lịch sử:ai là “Đô đốc Long”?
1-“Đô đốc Long” là Đô đốc Đặng Văn Long quê ở Bình Định
Theo Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn Trọng Trì (1854-1922) Đô đốc Long là “Đô đốc Đặng Văn Long tự Tử Vân quê ở Tuy Viễn,phủ Qui Nhơn”.Lập luận trên có mấy điểm đáng chú ý:
a) Phát hiện sớm nhất,dưới thời Nguyễn vốn có sự kỳ thị khắc nghiệt với Nhà Tây Sơn.
b)Công trình nghiên cứu thuộc gia đình họ Nguyễn thôn Vân Sơn, xã Nhơn Hậu,huyện An Nhơn,tỉnh Bình Định,gần nơi phát tích phong trào Tây Sơn.Hiện nay trên đường Hoàng Diệu, quận Phú Nhuận, Tp HCM có nhà thờ họ Nguyễn do ông Nguyễn Minh Tuế khai sinh ở đất Gia Định từ năm 1792. Ở đấy, con cháu thờ ông Tổ của họ là Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết-một trong “Thất hổ tướng” Tây Sơn,cùng Đô đốc Đặng Văn Long vì ông này vừa là thầy dạy võ cho ông Tuyết và cũng là người đồng hương .Dưới triều Nguyễn,gia đình họ Nguyễn thôn Vân Sơn tích cực hưởng ứng chiếu Cần vương của Hàm Nghi(1885).
Ba anh em:Nguyễn Bá Huân,Nguyễn Trọng Trì,Nguyễn Quý Luận đều tham gia nghĩa quân Cần Vương do Mai Xuân Thưởng cầm đầu.Nguyễn Trọng Trì từng đổ cử nhân nhưng từ chối làm quan về quê nghiên cứu viết sách giới thiệu một số khám phá mới về Tây Sơn.
c)Công trình viết lai lịch, tư chất, sự nghiệp, công huân, phẩm hàm của 14 võ tướng Tây Sơn trước đây Hoàng Lê nhất thống chí chỉ nêu tên cùng chức vụ“Đô đôc”.Tuy là dã sử nhưng những phát hiện về lai lịch của các danh tướng Tây Sơn qua các truyện lịch sử đời sau như Tây Sơn Thất hổ tướng,Lục kỳ sĩ,Ngũ Phụng Thư…và cả tiểu thuyết lịch sử hiện đại như”Nhà Tây Sơn” của Quách Tấn- Quách Giao,”Tây Sơn bi hùng truyện” của Lê Đình Danh đều chép Đô đốc Long là Đặng Văn Long theo Tây Sơn lương tướng ngoại truyện:
Phát hiện Đô đốc Long là Đặng Văn Long như trên là có cơ sở. Song cũng có người phản bác:các giáo sư sử học ở Trường đại học Tổng hợp Hà Nội,sách Tư liệu về Tây Sơn Nguyễn Huệ trên đất Nghĩa Bình, Sở VHTT Nghĩa Bình có chung nhận định:”tháng 04-1987 chúng tôi đã đến Cảnh Vân.xã Phước Thành,huyện Tuy Phước,tỉnh Bình Định để điều tra. Nhưng kết quả cho thấy các họ lâu đời ở đây là họ Trần, họ Nguyễn, họ Lê, họ Phạm, chứ không có họ Đặng và cũng không một ai biết Đô đốc Đặng Văn Long thời Tây Sơn”.Cách lý giải như trên là thiếu sức thuyết phục.Theo sử liệu thì sau khi lên ngôi,Gia Long đã tìm mọi cách để tận diệt làm cho người đời không còn nhớ đến Tây Sơn,”diệt tận gốc,nhổ sạch rễ” thì vùng quê quán Đô đốc Long không còn ai là dòng dõi Đặng Văn Long –một hổ tướng của Tây Sơn,cũng dễ hiểu,còn nói vùng quê Đô đốc Long không có họ Đặng cũng phải xem lại vì ngoài Đặng Văn Long còn có nhiều danh tướng Tây Sơn họ Đặng quê ở Bình Định như Đặng Xuân Bảo,(ấp Tây Sơn),Đặng Xuân Phong(huyện Tuy Viễn)…Theo Võ Nhân-Bình Định:”hiện nay ở Kỳ Sơn có một dòng họ Đặng,Diêu Trì cũng có một dòng nhưng chưa rõ Đặng Văn Long thuộc dòng nào”.
2-“Đô đốc Long” là Đô đốc Đặng Tiến Đông thuộc Đặng tộc ở Lương Xá,huyện Chương Mỹ ,Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
Sau gần một thế kỷ chưa có phát hiện thêm về Đô đốc Long, đến đầu thập kỷ 70,thế kỷ XX.,GS Phan Huy Lê (PHL) ),căn cứ từ các di vật đời Tây Sơn mới phát hiện ở Lương Xá,Chương Mỹ,Hà Tây (nay thuộc Hà Nội) đã đề xuất lập luận “Đô đốc Long là Đô đốc Đặng Tiến Đông quê ở Lương Xá”,chủ yếu là qua khai thác bài văn bia do Phan Huy Ích biên soạn,Ngô Thì Nhậm nhuận sắc,khắc trên bia đá năm Đinh Tị,niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 5 tức năm 1797( 2 chữ Cảnh Thịnh bị đục bỏ) đặt trước sân chùa Thủy Lâm (gọi tắt là bia chùa Thủy Lâm) có câu chữ Hán:”Mậu Thân… … (hai chữ bị đục bỏ) sơ,bắc binh nam mục,công phụng chiếu tiên phong đạo,tiến chiên nhi bắc binh hội, công đơn kị đương tiên,túc thanh cung cấm.Vũ Hoàng giá lâm Thăng Long sách huân hành thưởng đặc tứ bản quán Lương Xá vĩnh vi thục ấp.”GS PHL dịch và giải thích:”Năm Mậu Thân(năm 1788-T.g.) đầu đời Quang Trung (hai chữ Quang Trung bị đục-T.g.),quân Bắc xâm chiếm nước Nam,ông (tức Đặng Tiến Đông-T.g.)phụng chiếu cầm đạo quân tiên phong tiến đánh làm cho quân Bắc tan vỡ,ông một mình một ngựa tiến lên trước,dẹp yên nơi cung cấm,Vũ Hoàng đế (Quang Trung) vào Thăng Long tiến hành khen thưởng,ban riêng cho ông xã quê hương làm thực ấp vĩnh viễn”.Theo tác giả PHL:”Hiện nay chưa tìm thấy tài liệu nào nói rõ Đô đốc Đông là Đô đốc Long hay Mưu.Nhưng phân tích và đối chiêu các tư liệu,các sự kiện có liên quan thì theo tôi:có nhiều khả năng Đặng Tiến Đông là tên thật của Đô đốc Long hay Mưu”(1).Lập luận “Đô đốc Đông chính là Đô đốc Long” tuy mới là giả thuyết như chính tác giả công nhận nhưng đã được lưu hành như một phát kiến lịch sử.Từ sau 1974,tên “Đô đốc Đặng Tiến Đông” đã thay thế tên “Đô đốc Long”trên hầu hết các lĩnh vực thuộc khoa học xã hội ở trong lẫn ngoài nước.Song lập luận này vẫn tồn tại nhiều nghi vấn với bằng chứng khó bác bỏ:
a) Tên nhân vật trên văn bia là chữ “Giản”(暕)không phải chữ “Đông”(東).Văn bia chỉ chép trận năm Mậu Thân (1788) không chép về trận năm Kỷ Dậu(1789).
Đầu năm 1999,nhà Khảo cổ học Đỗ Văn Ninh (sau này là PGS-TS Đỗ Văn Ninh) cùng các nhà sử học thông thạo Hán ngữ:Trần Văn Quý,Lê Trọng Khánh,cũng qua khai thác các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá mà GS PHL từng sử dụng nhưng đã có kết luận khác về cơ bản:“tên chữ Hán củaĐặng tướng công trên các di bản đời Tây Sơn không phải là “Đông” mà phải đọc là “Giản”( Đặng Tiến Giản) và Đô đốc Đặng tiến Giản không phải là Đô đốc Long.Ông Trần Văn Quý cung cấp thêm một bằng chứng có sức thuyêt phục về tên của Đặng tướng công trên các di bản phải đọc là “Giản”.”Gia phả họ Đặng,bản A.633 mà Phan Huy Lê đã sử dụng,do chính Đặng Tiến Đông soạn đã mách bảo chúng ta nên đọc chữ Hán tên ông là gì và chữ đó có nghĩa gì?Gia phả viết:Phiên âm“Mậu Ngọ niên,ngũ nguyệt sơ nhị,Quý Sửu thì,sinh đệ bát tử “Đông” (東) hậu cải ”暕” dĩ tự vựng vân:trùng âm tích vũ chi hậu,hốt kiến nhật sắc,cố tri danh yên”Câu này phải dịch:”năm Mậu Ngọ,tháng 5 ngày 2,giờ Quý Sửu sinh con thứ 8 là “Đông” sau đổi lại tên “Giản” (暕) theo nghĩa chữ này là :sau thời tiết mây mù tích mưa bổng xuất hiện ánh sáng mặt trời,vì vậy đổi tên theo nghĩa đó”.(2)Vào thời điểm này,giới nghiên cứu cũng mới biết Đặng tướng công ở Lương Xá có tên là “Đông” cũng có tên là “Giản” nhưng chưa giải thích được:Đặng tướng công đổi tên từ “Đông” sang tên”Giản” vào lúc nào và vì sao phải đổi tên,vì vậy các tác giả trên “Đối thoại sử học” có nhận định:”với Đặng tướng công ở Lương Xá,tên “Đông” hay tên “Giản” không phải là lớn.Điều quan trọng chính yếu nhất là ông có làm nên chiến thắng Đống Đa như GS PHL giới thiệu?” (Trên thực tế việc đổi tên từ “Đông” sang tên “Giản” là cái mốc đánh dấu sự thay đổi lớn trong cuộc đời của Đặng tướng công nhưng đây là việc sẽ được chứng minh ở phần sau bài này). .
Để sáng tỏ “Đặng tướng công ở Lương Xá không phải là Đô đốc Long”,các tác giả Đỗ Văn Ninh,Lê Trọng Khánh đã sử dụng chính đoạn chữ Hán trên văn bia GS PHL từng sử dụng để chứng minh văn bia chùa Thủy Lâm chỉ chép một niên đại trận đánh duy nhất là năm Mậu Thân (tức năm 1788) không hề có câu chữ nào đề cập đến trận diễn ra đầu năm Kỷ Dậu.(1789). .
Theo sử liệu:trận Mậu Thân diễn ra ở Thăng Long đầu năm 1788.Vào thời điểm này,quân Thanh chưa vào Việt nam,Nguyễn Huệ còn là Bắc bình vương chưa xưng đế.Vậy“Bắc binh nam mục”(北 兵 南 牧) là gì? Vũ Hoàng đế là ai? Theo Đỗ Văn Ninh và Lê Trọng Khánh”,bắc binh là nhằm chỉ quân triều đình phương bắc thông thường là chỉ quân Tàu(Trung Hoa).Song trong hoàn cảnh nước Việt chia làm hai nước: Đàng Trong(Nam Hà) do Tây Sơn chiếm giữ và Đàng Ngoài(Bắc Hà) do Nhà Lê thống trị thì với Tây Sơn,“bắc binh”là quân triều đình Bắc Hà (Nhà Lê).Vào thời điểm diễn ra trận đánh đầu năm Mậu Thân,quân Thanh chưa có mặt ở Thăng Long thì “bắc binh” chỉ có thể là quân Nhà Lê.”Nam mục”,chữ “mục” (牧) không có nghĩa là “xâm lăng” mà có nghĩa là “chăn dắt,cai quản”.(mục đồng,mục sư,châu mục).Theo Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ chín) Năm Đinh Vị (1787) Nguyễn Huệ phẩn nộ với việc Lê Chiêu Thống gửi quốc thư đòi lại quyền cai quản Nghệ An (bắc binh nam mục) bèn sai Vũ Văn Nhậm điều quân Tây Sơn đánh ra Thăng Long để trừng trị “bè lũ phản nghịch Chiêu Thống-Hửu Chỉnh “(Bắc binh hội).
Số tướng lĩnh Tây Sơn tham dự trận Mậu Thân,Hoàng Lê nhất thống chí chỉ chép Vũ Văn Nhậm lĩnh ấn Tiết chế (Tổng chỉ huy) và bộ tướng Nguyễn Văn Hòa, người truy kích đuổi kịp cha con Hửu Chỉnh,Hửu Du ở núi Tam Tầng (Bắc Giang).Hửu Du chết tại trận,Chỉnh bị bắt sông đưa về kinh bị Nhậm ra lệnh giết và phanh thây.Văn bia chùa Thủy Lâm cung cấp thêm chi tiết: Huệ giao Đô đốc Đặng Tiến Giản lĩnh ấn tiên phong (công phụng chiếu tiên phong đạo),Giản đánh tan vỡ quân Bắc Hà cưỡi ngựa tiến trước vào Thăng Long đã sạch bóng bè lũ phản nghịch.(tiến chiến nhi bắc binh hội,công đơn kỵ đương tiên,túc thanh cung cấm).Tháng 5-MT, Huệ ra Thăng Long(Vũ Hoàng giá lâm Thăng Long.Vũ Hoàng là miếu hiệu của Quang Trung cũng dùng để gọi Nguyễn Huệ) bắt giết Vũ Văn Nhậm về tội lộng quyền,Huệ khen thưởng tướng sĩ lập công trận Mậu Thân,(văn bia chép Giản được Huệ ban cho làng quê Lương Xá làm thực âp vĩnh viến là vào dịp này).Đỗ Văn Ninh kết luận:”Đô đốc Đặng Tiến Giản lập công trong trận trừng phạt Chiêu Thống-Hửu Chỉnh ở Thăng Long đầu năm Mậu Thân (1788) quyết không phải là Đô đốc Long đánh quân Thanh ở Đống Đa đầu năm Kỷ Dậu -1789.”(3)
Như vậy,cùng một nguồn sử liệu (văn bia chùa Thủy Lâm) nhưng qua khai thác,giữa hai tác giả Phan Huy Lê và Đỗ Văn Ninh đã có hai kết luận khác nhau vậy đâu là sự thật lịch sử?Tuy chưa có câu trả lời chính thức của cơ quan chức năng sử học có thẩm quyền nhưng cũng đã có bằng chứng khách quan để phân biệt đúng sai.
b) “Tây Sơn thuật lược” và danh tướng Tây Sơn Đặng Giản quê ở Lương Xá.
Danh tướng Tây Sơn “Đặng Tiến Giản” quê ở Lương Xá không phải mới được biết từ sau năm 1999 qua Đỗ Văn Ninh khai thác văn bia chùa Thủy Lâm.Thực ra họ tên quê quán,công trạng của vị Đô đốc họ Đặng tên Giản trong hàng ngũ Tây Sơn đã được biết đến từ đầu thế kỷ XX,dưới triều Nguyễn qua tác phẩm bằng chữ Hán “Tây Sơn thuật lược”(4).
Tây Sơn thuật lược” (TSTL) chép về phong trào Tây Sơn từ lúc xuất hiện vào năm Tân Mão (1771) đến lúc diệt vong vào năm Nhâm Tuất (1802) nhưng tập trung vào lược thuật các sự kiện xảy ra từ năm Bính Ngọ-Cảnh Hưng thứ 47 (tức năm 1786) đến năm Nhâm Tuất (1802).Theo sử liệu giai đoạn này có ba trận quân Tây Sơn đánh ra Bắc Hà,tiến phạm Thăng Long,TSLT đều có chép với lưu lượng chi tiết khác nhau.Trận năm Bính Ngọ (1786) chỉ mươi dòng,trận Mậu Thân (1788) dài nhất với hơn một trang,trận năm Kỷ Dậu (1789)chỉ ba dòng!TSTL chép trận Mậu Thân với đầy dủ chi tiết như Hoàng Lê nhất thống chí đã chép nhưng TSTL là tác phẩm sử học duy nhất có bổ sung một danh tướng Tây Sơn chưa từng biết đến:Đô đốc Đặng Giản với đầy đủ tư liệu về lai lịch,chiến công từ đời Nguyễn Huệ sang đời Quang Trung….Cụ thể TSTL chép:
”Năm Đinh Vị (năm đầu Chiếu Thống)…vua Lê dùng Nguyễn Hửu Chỉnh coi giúp việc nước,phong tước cho Chỉnh làm Bằng Quận công.Mùa đông năm ấy vua Lê sai Ngô Nho,Trần Công Xán đem lễ vật địa phương cùng quốc thư cho Huệ,nói rằng Nam và Bắc mỗi bên đều giữ lấy cương thổ của mình,không đặng vượt khỏi bổn phận (sứ giả nói rõ vua Lê yêu cầu Huệ trả lại đất Nghệ An cho nhà Lê).Huệ giận lắm …klhiến Tiết chế Nhậm đốc xuất bộ quân,Thái úy Điều đốc xuất thủy quân,Đô đốc Đặng Giản làm tiên phong nhằm kinh thành Thăng Long tiến phát… năm Mậu Thân (Chiêu Thống thứ hai) tháng giêng,Tây Sơn tiến phạm Thăng Long,vua Lê chạy đi Hải Dương,cha con Hửu Chỉnh đều bị bắt giết.Huệ cho Vũ Văn Nhậm trấn Thăng Long,Đặng Giản trấn Thanh Hoa (Giản là người Lương Xá,dòng dõi của Đặng Nghĩa Huấn”,…Mùa hạ,Huệ giết bề tôi là Vũ Văn Nhậm,lúc ấy Nhậm tại trấn,có kẻ tố giác Nhậm lộng quyền…Mùa đông tháng 11,Huệ tự xưng Hoàng đế cải nguyên là Quang Trung.Tháng ấy vua Lê dùng quân Mãn Thanh lấy lại kinh thành Thăng Long.Năm Kỷ Dậu (niên hiệu Quang Trung thứ hai) tháng giêng,Huệ cả phá quân của Tôn Sĩ Nghị nhà Thanh ở Thăng Long.Vua Lê đi lên phương Bắc… Năm Canh Tuất (niên hiệu Quang Trung thứ ba) Huệ cho quan Đại tư mã Ngô văn Sở, quan Nội hầu Phan Văn Lân cùng người con thứ là Thùy (tức Nguyễn Quang Thùy-LN) trấn giữ Thăng Long,cho Tuyên (tức Nguyễn Quang Bàn,em Thùy-LN) trấn giữ Thanh Hoa,cho Đặng Giản làm Đại Đô đốc coi giữ Đại Thiên hùng binh…”.
Đối chiếu đoạn trích dẫn TSTL với đoạn dịch và giải thích văn bia chùa Thủy Lâm của tác giả Đỗ Văn Ninh đã nêu ở điểm a cho thấy nội dung hoàn toàn trùng hợp.Tác phẩm TSTL xuất hiện vào đầu thế kỷ XX dưới triều Nguyễn trong lúc tấm bia chùa Thủy Lâm tuy đã có từ cuối thế kỷ 18 nhưng còn ẩn náu tại Lương Xá, mãi đến đầu năm 70 thế kỷ XX mới được phát hiện là di vật đời Tây Sơn.Có thể khẳng định tác giả biên soạn TSTL không hề biết bài văn bia này nhưng so sánh nội dung đoạn TSTL chép về trận Mậu Thân với đoạn văn bia chùa Thủy Lâm cũng chép về trận Mậu Thân cho thấy có sự trùng hợp kỳ lạ hơn nữa còn có chi tiết bổ sung làm sáng tỏ thêm về nhân vật Đặng Tiến Giản chép trong văn bia:
–Đặng Giản (鄧暕) trong TSTL với Đặng Tiến Giản (鄧進暕)trong văn bia chùa Thủy Lâm cùng tên,cùng họ,cùng chức vụ,cùng quê,cùng dòng dõi Đặng Nghĩa Huấn…Về tước Đông Lĩnh hầu của Đặng Tiến Giản trên văn bia không có ở nhân vật Đặng Giản trên TSTL cũng tất yếu vì đạo Sắc Nguyễn Huệ ghi nhận tước Đông Lĩnh hầu cho Đặng Tiến Giản tuy có từ năm Đinh Vị/Mùi (1787) nhưng đã được dấu kín dưới triều Nguyễn,đến thập kỷ 70 thế kỷ XX mới lộ diện.
-TSTL chép “năm Canh Tuất Quang Trung 3,Đặng Giản được giao coi giữ Đại Thiên Hùng binh”.Sắc phong năm Thái đức thứ 10(1787) của Nguyễn Huệ trao cho Đặng Tiến Giản chưa có chức này nhưng từ sau năm Canh Tuất,niên hiệu Quang Trung thứ ba (tức năm1790), trên bộ Thực Lục (1792),trên bài minh ở quả chuông Đặng tướng công đúc tặng chùa Trăm Gian (1794) và trên văn bia chùa Thủy Lâm(1797) đều có chép chức “thống lĩnh Đại Thiên hùng ” bên cạnh tên Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản.
-Đạo Sắc năm Thái Đức 10 (1787)Nguyễn Huệ gia phong cho Đặng Tiến Giản:”Đô đốc đồng tri,Đông Lĩnh hầu nhưng sai Trấn thủ Thanh Hoa”. TSTL chép sau chiến thắng Mậu Thân (1788):”Huệ cho Vũ Văn Nhậm trấn Thăng Long,Đặng Giản trấn Thanh Hoa…năm Canh Tuất Quang Trung 3 (1790), Huệ (QT) cho Tuyên (tức Nguyễn Quang Bàn con thứ QT) trấn giữ Thanh Hoa…”Như vậy Đặng Tiến Giản được giao trấn thủ Thanh Hoa vào đầu năm Mậu Thân (1788) và giữ chức vụ này đến năm Canh Tuất (1790).
-TSTL có chép về trận Kỷ Dậu (1789) nhưng không hề đả động đến vai trò của Đô đốc Đặng Giản trong trận này.Như vậy có thêm bằng chứng cho thấy:Đô đốc họ Đặng tên Giản không phải là Đô đốc Long.
Theo người viết bài này,việc phát hiện tác phẩm TSTL đã cung cấp cho giới nghiên cứu sử học bốn vấn đề có ý nghĩa:
1-TSTL là cứ liệu lịch sử khẳng định cách đọc tên chữ Hán của Đặng tướng công ở Lương Xá chép trên bộ Thực Lục,trên Sắc phong,trên văn bia chùa Thủy Lâm không phải là “Đông”(Đặng Tiến Đông) như GS PHL từng đọc mà là “Giản” (Đặng Tiến Giản) như tác giả Đỗ Văn Ninh phát hiện là chính xác.
2-TSTL,tác phẩm sử học ra đời từ đầu thế kỷ XX dưới triều Nguyễn đã được dịch ra tiếng Việt năm 1968 dưới chế độ Sàigòn là cứ liệu lịch sử chứng minh Đô đốc Đặng Tiến Giản là danh tướng đời Tây Sơn,một nhân vật lịch sử có thật không phải suy diễn. và Đặng Tiến Giản không phải là “Đô đốc Long” chỉ huy đánh thắng quân Thanh ở Đống Đa vào đầu năm Kỷ Dậu (1789).
3-Nội dung chép về trận Mậu Thân của TSTL thực chất là “bạch hóa” thông điệp của hai ông Phan Huy Ích,Ngô Thì Nhậm để lại cho hậu thế qua văn bia chùa Thủy Lâm.Thông điệp nói về Đô đốc Đặng Tiến Giản danh tướng Tây Sơn lập công trong trận Mậu Thân song vì đặc điểm của thời cuộc:năm 1797 sau ngày Quang Trung mất,Cảnh Thịnh quản lý yếu kém để gian thần lộng quyền,Tây Sơn tuột dốc,trong khi Nguyễn Ánh ngày càng lớn mạnh,hai ông buộc phải dùng cách ngụy trang văn bia để che dấu tung tích “Tây Sơn” cho người tưởng niệm với hy vọng tấm bia được tồn tại qua mọi biến cố.Ý đồ của hai ông Phan,Ngô đã được thực hiện với sự tồn tại của tấm bia chùa Thủy Lâm qua hơn hai thế kỷ nhưng cũng đã gây khó khăn,ngộ nhận trong một bộ phận giới nghiên cứu như đã và đang xảy ra.
4-TSTL ra đời từ đầu thế kỷ XX dưới triều Nguyễn,năm 1968 lần đầu tiên được dịch và giới thiệu dưới chế độ Sàigòn nhưng người đầu tiên giới thiệu TSTL với giới nghiên cứu sử học Hà Nội và cũng là người đầu tiên chứng minh TSTL và văn bia chùa Thủy Lâm có nội dung giống nhau là PGS-TS Đỗ Văn Ninh vào đầu năm 1999.
c)Tài liệu mới phát hiện từ Từ điển”Nhân vật lịch sử Việt nam”:Đô đốc Đặng Tiến Đông ở Lương Xá là nhân vật lịch sử có thật nhưng không phải là Đô đốc Long!
Từ năm 1999, việc giới sử học Hà Nội phát hiện Đô đốc Đặng Tiến Giản-một danh tướng Tây Sơn mà chính sử cũng như Đặng tộc chưa biết đến là một đóng góp quan trọng cho lịch sử.Tuy nhiên vẫn còn một số điều về lai lịch Đô đốc Đặng Tiến Giản chưa giải thích được như:việc đổi tên từ tên“Đông” sang tên “Giản” vào lúc nào và vì sao phải đổi tên?Trước khi về với Tây Sơn (lúc đã 48 tuổi) Đặng Tiến Giản đã học hành,đổ đạt như thế nào,đã giữ chức tước gì ở Bắc Hà? Không thể tìm thấy lời giải cho các câu hỏi trên qua các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá và cả với Tây Sơn thuật lược! Đây cũng là câu hỏi GS PHL dành cho nhân vật “Đặng Tiến Đông”trong các bài viết của tác giả .[Cần chứ ý: nhân vật Đặng Tiến Đông do GS PHL giới thiệu với tên “Đông” chữ Hán là chữ 东 hoặc chữ 日東,do vậy nhân vật Đặng Tiến Đông của GS PHL không dính dáng gì với nhân vật Đặng Tiến Đông (鄧 進 東)do tác giả Nguyễn Quang Thắng phát hiện qua khai thác gia phả Đặng tộc ở Lương Xá ].
Gần đây,người viết bài này đã tìm được lời giải cho câu hỏi trên qua nghiên cứu nhân vật “Đô đốc Đặng Tiến Đông” (1738-1787)” đăng trên cuốn từ điển“Nhân vật lịch sử Việt nam”(gọi tắt TĐ NVLSVN) của Nguyễn Quang Thắng-Nguyễn Bá Thế (Bộ mới.NXB Tổng hợp T.P.Hồ Chí Minh tái bản năm 2006) với tiểu sử được giới thiệu như sau:
………“Đặng Tiến Đông (còn gọi là Đặng Đình Đông) là Đô đốc đời Lê Cảnh Hưng (Hiển tông) sinh ngày 18 tháng 6 năm 1738 tại kinh thành Thăng Long.Quê làng Lương Xá huyện Chương Đức (nay là Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây);cháu sáu đời Nghĩa Quốc công Đặng Đình Huấn.Sinh trưởng trong một gia đình đại vọng tộc, cháu nội Thái tể Đại tư không Yên quận công Đặng Tiến Thự (còn có tên Trịnh Liễu), con trai thứ 8 của Dận Quận công Đặng Đình Miên, mẹ là Phạm Thị Yến.Bảy anh trai là:Đặng Đình Trí, Đặng Đình Thiệu, Đặng Đình Cầu, Đặng Đình Tự, Đặng Đình Giám, Đặng Đình Tú, Đặng Đình Hữu, tất cả đều được phong tước bá, tước hầu.Đặng Tiến Đông xuất thân võ quan, từng lập được nhiều chiến công dưới đời chúa Trịnh Sâm được phong Đô đốc tước Đông Lĩnh hầu. Sau ngày chúa Trịnh Sâm qua đời (1782) nhà Trịnh đổ nát,Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc dưới chiêu bài “phù Lê diệt Trịnh”.Sau khi trừ diệt họ Trịnh,Nguyễn Nhạc,Nguyễn Huệ trao lại chủ quyền Bắc Hà cho Lê Chiêu Thống rồi rút quân về nam..Sự đổ nát của triều Lê-Trịnh cùng sự hùng mạnh của Tây Sơn với anh hùng Nguyễn Huệ đã có ảnh hưởng sâu sắc trong tâm trí Đô đốc Đặng Tiến Đông. Từ đầu năm Chiêu Thống 1 (1787) về sau, gia phả họ Đặng không viết rõ gia thế và hành trạng của Đô đốc Đặng Tiến Đông.Theo gia phả:”Vệ quốc thượng tướng quân trấn thủ Thanh Hoa kiêm Nghệ An trấn Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng tướng công đại phụ tứ nguyệt thập tốt, hoàng triều Chiêu Thống nguyên niên nhị nguyệt cát hạ phùng tra”. ”Như vậy Đặng Tiến Đông đã mất đầu năm Chiêu Thống năm thứ nhất (tức đầu năm 1787) (5).
Theo cách lý giải này,Nguyễn Quang Thắng cho rằng:“Đô đốc Đặng Tiến Đông không thể là Đô đốc Long”.Điều đó là hoàn toàn đúng nhưng có thật đúng là Đô đốc Đặng Tiến Đông đã chết? Bộ phả “Thực lục” do Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản biên soạn vào đầu đời Cảnh Thịnh (1792) đã giúp hậu thế giải đáp câu hỏi trên.
Trước tiên so sánh về lai lịch của “cậu ấm Đông” chép trên bộ Thực lục với Đô đốc Đặng Tiến Đông trên TĐ NVLSVN thì từ lai lịch ông bà,cha mẹ,ngày tháng năm sinh,danh tính 7 anh trai đều hoàn toàn giống nhau.Chi tiết này xác nhận:”cậu ấm Đông” trong bộ Thực lục và Đô đốc Đặng Tiến Đông trên TĐ NVLSVN chỉ là một người nhưng bộ Thực Lục chỉ nêu lai lịch cậu “Đông” từ lúc sinh cho đến 10 tuổi theo học Doãn Xá tiên sinh,13 tuổi mồ côi cha rồi dừng lại không có chi tiết nào nói về giai đoạn trưởng thành.Sự khiếm khuyết này lại được tìm thấy trong tiểu sử Đô đốc Đặng Tiến Đông trên TĐ NVLSVN.Trên thực tế cậu “Đông” con thứ 8 của Dận Quận công đã được học hành đỗ đạt (đỗ Tạo sĩ) từ năm 1763 (25 tuổi) ra làm quan dưới triều Lê Trịnh được phong chức Đô đốc tước Đông Lĩnh hầu.nhưng “đã chết” đầu năm Chiêu Thống nguyên niên (1787).Với chi tiết này liên hệ với câu “tự thuật”của Đô đốc Đặng Tiến Giản-người biên soạn bộ Thực lục,“Đông cải đổi tên thành Giản”(điểm a) đã cho thấy “Đông” chưa chết mà chỉ đổi sang tên Giản Thời điểm cùng với ý nghĩa của việc đổi tên như trên được xác nhận tại đạo Sắc Nguyễn Huệ ban cho Đặng Tiến Giản ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức 10(tức ngày 15-8- 1787). Đạo “Sắc” trên là cứ liệu xác minh sự kiện: đầu năm Chiêu Thông 1 Đô đốc Đặng Tiến Đông đã từ Bắc Hà lăn lội vào Quảng Nam xin yết kiến Nguyễn Huệ.Để đoạn tuyệt giai đoạn phục vụ triều Lê-Trịnh,trước khi về với Tây Sơn,Đặng Đô đốc đã khai tử tên “Đông”,chọn đổi tên thành”Giản”với ý nghĩa chữ “Giản” là “từ chỗ tối bước ra chỗ sáng”(từ nơi tàn tạ,hỗn loạn cuối đời Lê-Trịnh tìm thấy ở Tây Sơn tương lai sán lạn như ánh dương).Như vậy Đặng tướng công ở Lương Xá là một người nhưng đã đóng vai trò của hai nhân vật lịch sử:-đầu đời (từ 1738-1787) là Đô đốc Đặng Tiến Đông thuộc triều Lê-Trịnh,(gia phả)-từ sau năm 1787 cho đến cuối đời là Đô đốc Đặng Tiến Giản thuộc triều Tây Sơn.(Sắc phong,văn bia chùa Thủy Lâm)
Với phát hiện mới như trên, toàn bộ lai lịch của Đặng tướng công ở Lương Xá với hai tên Đặng Tiến Đông,Đặng Tiến Giản đã được bổ sung hoàn chỉnh.Cho đến đầu năm 1787 gia phả Đặng tộc chỉ có tên Đô đốc Đặng Tiến Đông không hề có tên Đô đốc Đặng Tiến Giản.Từ sau ngày Đặng Tiến Đông gia nhập Tây Sơn (1787) thì gia phả Đặng tộc không còn tên Đặng Tiến Đông và cũng là thời điểm xuất hiện tên Đặng Tiến Giản.Đây không phải là suy diễn mà là sự thật khách quan có căn cứ từ gia phả,Sắc phong,bia đá.Tuy nhiên việc công nhận sự thật như trên không hề đơn giản:Đặng tướng công,tuy sống dưới hai triều đại khác nhau với hai tên khác nhau nhưng vẫn có cùng chức tước là Đô đốc Đông Lĩnh hầu và lai lịch Đặng tướng công được chép ở hai nguồn sử liệu khác nhau vào hai giai đoạn lịch sử khác nhau:gia phả Đặng tộc thời Lê-Trịnh chép Đặng Tiến Đông và đạo Sắc,văn bia thời Tây Sơn chép tên Đặng Tiến Giản.(6).Đây cũng là nguyên nhân khiến việc nhận thức về lai lịch Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông và Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng tiến Giản đã và đang có sự nhầm lẫn trong sử dụng trên nhiều tài liệu cả trong và ngoài nước như:“Đặng Tiến Đông hay Đặng Tiến Giản là Đô đốc Long”, “Đặng gia phả hệ toản chính thực lục do Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông biên soạn (có người đọc là Giản)”,.”Tướng Tây Sơn chi huy đánh thắng quân Thanh ở Đống Đa là Đặng Văn Long có phó tướng là Đặng Tiến Đông quê ở Lương Xá”…
3-“Đô đốc Long” là Đô đốc Lê Văn Long quê ở Quảng Nam.
Theo gia phả tộc Lê hiện lưu giữ tại Tổ đình Lê tộc Trường Xuân, TP.Tam Kỳ, thì Lê Văn Long sinh năm 1765 tại làng Phú Xuân Trung, huyện Lệ Dương, phủ Thăng Hoa, Quảng Nam; nay thuộc phường Trường Xuân, TP.Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Ông là con trai Thủ tài hầu Lê Văn Thủ (1746-1827),dòng dõi công thần nhà Lê.“Lê Văn Long” được Nguyễn Quang Thắng cùng giới nghiên cứu Quảng nam thừa nhân chính là “Đô đốc Long” chủ yếu căn cứ vào bản Sắc phong của Quang Trung (dịch):”Sắc phong cho Lê Văn Long ở xã Phú Xuân Trung, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa, người đã trải qua nhiều chiến trận, lắm công lao khó nhọc. Nay bổ giữ chức Võ tướng Hữu quân để sai khiến việc quân. Nếu công việc trễ nải, thiếu cần mẫn, sẽ theo quân pháp xử lý. Sắc,Sắc mạng. Ngày mồng năm tháng hai, Quang Trung năm thứ hai.” Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, Lê Văn Long vẫn được lưu dung trong quân ngũ của vua Gia Long.Ông mất năm 1856.
Lập luận “Đô đốc Long là Đô đốc Lê Văn Long” có hai chỗ đáng ngờ:
1- Sắc phong của Quang Trung giao cho Lê Văn Long chức Võ tướng Hửu quân vào ngày 5 tháng 2 năm Kỷ Dậu Quang Trung 2 tức một tháng sau ngày kết thúc trận Ngọc Hồi-Đống Đa trong khi Đô đốc Long được giao đốc xuất Hữu quân (Võ tướng Hửu quân) vào ngày 30 tháng chạp năm Mậu Thân (1788),trước khi diễn ra trận đánh với quân Thanh.Như vậy Đô đốc Lê Văn Long không thể là Đô đốc Long chỉ huy trận Đống Đa vì Đô đốc Long đã là “võ tướng Hửu quân” từ trước khi diễn ra trận đánh với quân Thanh còn Lê Văn Long được bổ vào Hửu quân một tháng sau ngày kết thúc trận đánh!
2- Một danh tướng Tây Sơn có công trạng lấy lừng như Đô đốc Long lẽ nào quy phục Gia Long và được Gia Long lưu dung? Theo “Quách Tấn-Quách Giao:” tất cả những tinh hoa của đất nước sản xuất thời Tây Sơn, đều bị Gia Long tìm đủ cách để tận diệt. Tận diệt để không còn gì làm cho người đời nhớ đến Tây Sơn.Tên vùng phát tích ra nhà Tây Sơn cũng bị đổi ra Ân Tây.Diệt tận gốc, nhổ sạch rễ! .
“Còn sống ở ngoài tầm nanh vuốt của Gia Long chỉ được ít người:Võ Văn Dũng,Đặng Văn Long, Ðặng Xuân Phong, Phan Văn Lân, Phạm Công Chánh, Lê Sĩ Hoàng, Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Văn Lộc. ..
“Ðặng Văn Long, sau trận Ðống Ða vẫn còn được trọng dụng.Sau ngày Quang Trung mất,khi thấy Cảnh Thịnh để cho gian thần lộng hành, mối nước sanh rối, Ðặng bèn từ chức, trở về An Nhơn mở trường dạy võ. Nhưng rồi thấy kẻ học võ lúc này không có chí lớn, ai nấy cũng chỉ nghĩ đến lợi riêng, Ðặng liền đóng cửa trường, lên núi làm rẫy.
“Võ Văn Dũng sau ngày thoát nạn,trở về Phú Phong, rồi lên An Khê, chiêu mộ được một số người Thượng, chuẩn bị việc phục thù. Nghe tin Ðặng Văn Long ẩn náu ở Vân Hội (Tuy Viễn) bèn tìm đến bàn đại sự.Võ Văn Dũng đến, Ðặng mừng được gặp lại cố tri.
Nhưng khi nghe Võ bàn đến chuyện phục hưng thì lắc đầu từ chối. Võ ra về, Ðặng lên ở luôn trên núi. Trong nơi mây khói, không còn ai biết tung tích…” Phải chăng đây mới là giả thuyết phù hợp với thực tế khí phách anh hùng của “Đô đốc Long”? . .
4) “Đô đốc Long” là Đô đốc Tăng Văn Long ở Quảng Ngãi.
Theo Tạp chí Cẩm Thành (Quảng Ngãi) và một số bô lão cho biết Đô đốc Nguyễn Tăng Long, người làng Đông Thành, nay thuộc xã Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi,là người có công xây dựng căn cứ Tây Sơn tả đạo, góp phần thiết lập triều đại Tây Sơn, là một trong các Đô đốc có công đánh đuổi quân Thanh giải phóng Thăng Long năm 1789. Theo một số cụ già ở xã Tịnh Thọ thì cụ Nguyễn Tăng Long có sắc phong của vua Cảnh Thịnh (nhà Tây Sơn) ban chức Đô đốc,ở quê thường gọi là “Đô Miên”. Trong khi đó, bản kê danh tướng thời Tây Sơn tại Bảo tàng Quang Trung chỉ ghi “Long (hay Mưu)”, không ghi rõ họ và quê quán. Phải chăng đã có sự nhầm lẫn giữa hai chữ “Miên” và “Mưu”?Những căn cứ để công nhận “Đô đốc Nguyễn Tăng Long là Đô đốc Long” như trên là thiếu cơ sở phần lớn là truyền khẩu không còn tư liệu gốc,hơn nữa theo sử liệu tên và chức tước “Đô đốc Long” có từ trước khi Quang Trung lên ngôi trong khi ”Nguyễn Tăng Long” được phong Đô đốc dưới triều Cảnh Thịnh.Triều Cảnh Thịnh phong cho “Đô đốc Long” chức Tả Võ lâm quân,đại tướng quân (Nguyễn Thanh Mừng-Bình Định).
Thay lời kết.
Các tên Đô đốc Đặng Tiến Đông,Đô đốc Lê Văn Long,Đô đốc Nguyễn Tăng Long đều là những nhân vật lịch sử có thật không phải là nhân vật hư cấu,nhưng các vị Đô đốc nêu trên có phải là Đô đốc Long hay không lại là việc khác. Theo truyền thống dùng người của Tây Sơn và nghệ thuật dùng binh của anh hùng Nguyễn Huệ,việc chọn các hổ tướng chỉ huy 5 đạo quân đánh quân Thanh, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và cấp bách,danh tướng được chọn ắt phải đáp ứng mấy điều kiện cơ bản::phải là danh tướng được Nguyễn Huệ cực kỳ tin cậy về mọi mặt.Cụ thể phải là người dưới trướng lâu năm từng cùng Nguyễn Huệ xông pha đánh nam dẹp bắc,Nguyễn Huệ đã tỏ tường về lòng trung thành về tài năng (trên thực tế đều là số danh tướng theo Tây Sơn từ những ngày đầu quê Quảng Ngãi-Bình Định).Các Đô đốc Tuyết,Đô đốc Lộc,Đô đốc Bảo,Đô đốc Long…đươc chọn đều là các danh tướng đáp ứng các tiêu chuẩn trên.Đặng Đô đốc ở Lương Xá (Đặng Tiến Đông -Đặng Tiến Giản) tuy được Nguyễn Huệ ưu ái sử dụng trong trận Mậu Thân (1788) nhưng dù sao cũng là Đô đốc nhà Lê,quê ở Bắc Hà mới về với Tây Sơn hơn một năm,mới tham gia một trận đánh (năm Mậu Thân),Nguyễn Huệ ắt không mạo hiểm trong việc dùng người cho một trận có ý nghĩa quyết định như thế và trên thực tế cũng không có bằng chứng lịch sử nào nói về “Đô đốc Long là Đặng Tiến Đông” ngoài giả thuyết thiếu cơ sở của GS PHL như đã nêu trên.!Với Đô đốc Lê Văn Long,Đô đốc Nguyễn Tăng Long không nghi ngờ gì cũng là Đô đốc trong hàng ngủ Tây Sơn nhưng đã có bằng chứng cho thấy xác suất để trở thành Đô đốc Long là rất khiêm tốn.Riêng với phương án “Đô đốc Long là Đặng Văn Long” thì khác.Đặng Văn Long là phát hiện dòng họ,quê quán của Đô đốc Long có nhiều dấu hiệu đáng tin cậy và hiện đang được giới nghiên cứu sử học tán đồng,sử dụng rông rãi kể cả sau thời điểm giả thuyết”Đặng Tiến Đông chính là Đô đốc Long”của GS PHL được chính sử công nhận!.
Về Đô đốc Đặng Tiến Giản, tuy đã có bằng chứng cho thấy “Đô đốc Giản không phải là Đô đốc Long” nhưng Đặng Tiến Giản vẫn là một danh tướng tài,đức vẹn toàn, có công trạng với Tây Sơn được Nguyễn Huệ và cả Hoàng đế Quang Trung tin dùng,được Đặng tộc và dân làng tạc tượng gửi vào chùa lúc còn sống,được các danh thần Phan Huy Ích,Ngô Thì Nhậm lập bia tưởng niệm, được giới sử học triều Nguyễn công nhận qua tác phẩm “Tây Sơn thuật lược”nhưng hiện vẫn chưa được chính sử và Đặng tộc công nhận.Đây là một thiếu sót của chính sử về công nhận các danh tướng Tây Sơn và cũng là thiệt thòi lớn cho Đặng tộc.Nghi vấn “Đặng Tiến Đông hay Đặng Tiến Giản” đã được phát hiện từ đầu năm 1999 (tk XX) và đã có cơ sở để kết luận nhưng cho đến nay vẫn chưa được xử lý dứt điểm gây nhiều tác động xấu đến nhận thức về quốc sử trong dư luận.Trong giới nghiên cứu có người đã chỉ ra rằng nguyên nhân hiện trạng trên là do:”sai lầm đã gắn liền với một chế độ,một quyền lực thì không dẽ gì xóa bỏ mà không làm mất mặt mgười đương quyền (Tạ Chí Đại Trường) “;Vì quan hệ “thầy trò” trong giới sử học, thà để quốc sử bị bôi lem còn hơn để thầy mất mặt!(Lại Nguyên Ân).”
Bài viết trên hy vọng đóng góp cho sự trung thực và công bằng của nền sử học nước nhà được thực hiện vì hôm nay và cả cho các thế hệ mai sau.
*Luật gia-Nhà báo Hà Nội
Hà Nội Xuân Ất Mùi –Tháng 2 năm 2015-LN
.
Chú thích:
1-“Đặng Tiến Đông-một tướng Tây Sơn chỉ huy trận Đống Đa”-Phan Huy Lê-Tạp chí Nghiên cứu lịch sử sô 154-tháng 01 năm 1974.(Nguyên tác chữ Hán câu trích trong văn bia chùa Thủy Lâm chưa có trong các bài viết của Phan Huy Lê,Đỗ Văn Ninh công bố trên công luận từ 1974 đến 2000.Đến cuối năm 2008 lần đầu tiên Tạp chí “Huế Xưa và Nay” (Hội Sử học tỉnh Thừa Thiên-Huế số 90(12/2008) đăng “Thông tin-Tư liệu” công bố toàn văn chữ Hán bản Sắc Phong niên đại Thái Đức 10 và đoạn chép về công trạng của Đô đốc Đặng Tiến Giản trong”Tông đức thế tự bi”(lời dịch của Lê Nguyễn Lưu).
2-Cũng câu chữ Hán ông Trần Văn Quý phát hiện ở trang cuối quyển 6 bộ Thực lục nêu trên,sách ”Đặng gia phả ký” với nhóm biên dịch do Trần Lê Sáng chủ biên (Viện Hán Nôm xuất bản năm 2000) trang 356 có lời dịch:”Giờ Quý Sửu,ngày mồng 2,tháng 5,năm Mậu Ngọ,khi bà sinh ra con trai thứ 8 của Dận Quận công là “Đông”( ? ) sau đổi ra chữ Đông ( ? ).Trong sách Tự vựng có câu:Sau khi trời mưa sụt sùi,bổng thấy ánh mặt trời.Bởi vậy đặt tên như vậy”.(nguyên bản để trống chữ Hán nhưng trên đầu sách ghi tên tác giả Đặng gia phả ký là Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông với hai chữ “Đông” khác nhau chữ “Đông” đứng đầu tước hiệu là 東(Đông Lĩnh hầu) còn tên ông là chữ “Đông kèm bộ nhật(日東)”.Nhiều nhà nghiên cứu Hán nôm như ông Trần Văn Quý trước đây,các ông Lê Mạnh Chiến (Hà Nội) Lê Nguyễn Lưu (Huế) gần đây đều nhất trí cho rằng ”chữ “Đông kèm bộ nhật” không có trong bất cứ cuốn từ điển Hán ngữ nào và cũng chưa từng bắt gặp ở bất cứ trong sách,tài liệu chữ Hán nào ngoài gia phả Đặng tộc (bộ Thực lục) và cũng chỉ ở vài trường hợp tác giả biên soạn dùng để thay thế chữ ‘Giản’”.Xin nêu để các vị túc Nho bình luận thêm.
3-Bài “Đô đốc Đặng Tiến Đông hay Đô đốc Đặng Tiến Giản” Đỗ Văn Ninh-Đối thoại sử học (NXB Thanh Niên 2000)
4-“Tây Sơn Thuật Lược” bằng chữ Hán không có tên tác giả cùng thời gian xuất bản lần dầu tiên được biết đến qua bài đăng toàn văn trên phần chữ Hán tạp chí Nam Phong số 148 (1930),được lưu bằng vi ảnh số 5/VAH4 của Viện Khảo cố Sàigòn(nguyên bản của Société asiatique Paris số HM 2178 Leg H.Maspéro).Lần đầu tiên đươc dịch ra tiếng Việt do Tạ Quang Phát chuyên viên Hán ngữ Viện Khảo cố Sàigòn thực hiên đăng trên Tạp chi Sử-Địa SG số Xuân Mậu Thân(1968),được in thành sách “Tây Sơn thuật lược-vô danh thị-Tạ Quang Phát (biên dịch)”xuất bản tại Sàigòn vào năm 1971.
5- Chũ “tốt”(卒) theo Hán ngữ có nghĩa là “chết” cũng có nghĩa là “kết thúc”, khác với chữ chữ “tử”(死) cũng là “chết”.(sinh,lão,bệnh,tử).Vì vậy phải chăng câu trong gia phả nên dịch là “Đông Lĩnh hầu Đặng tướng công đã kết thúc sự nghiệp (ở Bắc Hà)” vừa đúng với dịch Hán ngữ vừa đúng với thực tiễn lịch sử!
6- Theo gia phả chép chức tước cuối cùng trước khi rời Bắc Hà của Đặng Tiến Đông là “Vê quốc thượng tướng quân,Đô đốc Đông Lĩnh hầu trấn thủ Thanh Hoa kiêm Nghệ An trấn”.Khi vào Quảng Nam xin yết kiến Nguyễn Huệ Đặng Tiến Đông đổi tên thành Đặng Tiến Giản được Nguyễn Huệ ban đạo Sắc phong lập ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức 10 (tức 15/8/1787) có câu:“Khả gia Đô đốc đồng tri chức,Đông Lĩnh hầu nhưng sai trấn thủ Thanh Hoa trấn…Khâm tai.Thượng trật.Cô sắc”. Dịch nghĩa:”Vậy ,thêm cho chức Đô đốc đồng tri,Đông Lĩnh hầu.vẫn sai làm Trấn thủ xứ Thanh Hoa…Hãy kính đấy.Đây là Sắc phong trật”( Phẩm trật trong“Đô đốc phủ”,chức “Đô đôc đồng tri” cao hơn một trât so với chức Đô đốc.Trấn Thanh Hoa vào thời điểm này (1787) vẫn còn là lãnh thổ do triều Lê-Trịnh cai quản).Như vậy Sắc năm 1787 của Nguyễn Huệ trao cho Đặng Tiến Giản đã ghi rõ là Sắc “phong trật” (khả gia Đô đốc đồng tri chức) còn “Đông Lĩnh hầu và Trấn thủ Thanh Hoa” là chức tước cũ của Đặng Tiến Đông nay vẫn giữ lại cho Đặng Tiến Giản.