16/01/2018, 13:36

Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu – Văn mẫu lớp 12

Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu – Văn mẫu lớp 12 Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu – Bài số 1 Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét :” Nguyễn Ngọc đích thực là tri thức của núi rừng là nhà văn hoa của Tây Nguyễn”. Trong ...

Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu – Văn mẫu lớp 12

Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu – Bài số 1

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét :” Nguyễn Ngọc đích thực là tri thức của núi rừng là nhà văn hoa của Tây Nguyễn”. Trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc ông dã gắn bó máu thịt với mảnh đất Tây Nguyên và có những sáng tác thành công về mảnh đất và con người nơi đây. Tiếp nối tiểu thuyết “Đất Nước đứng lên” là truyện ngắn “Rừng xà nu” sáng tác năm 1965. Đây là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước. Tác phẩm là truyện đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Một trong những thành công công của tác phẩm là đã xây dựng được hình tượng nghệ thuật độc đáo giàu giá trị biểu tượng như “Rừng xà nu”. 

Trước hết rừng xà nu là hình tượng nghệ thuật lớn bao chùm toàn bộ tác phẩm, đã xuất hiện ngay nhan đề của truyện, trong phần mở đầu và kết thúc, đặc biệt còn rải rác khắp truyện với những hình ảnh khác nhau: đồi xà nu, rừng xà nu, khói xà nu… đã đem đên sức sống mãnh liệt cho tác phẩm và trở thành điểm tựa cho nhà văn suy ngẫm về mảnh đất và con người Tây Nguyên. Trên mảnh đất Tây Nguyên có biết bao là loại cây sinh sôi nảy nở nhưng Nguyễn Trung Thành đã lựa chọn cây xà nu làm hình tượng nghệ thuật lớn cho tác phẩm của mình. Xà nu là loại cây họ thông, gỗ túy, nhựa thơm sức sống mãnh liệt, mọc rất nhiều thành những cánh rừng lớn. Trong tác phẩm hình ảnh cây xà nu xuất hiện tràn ngập tạo nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoang dã đậm đà bản chất Tây Nguyên.

Nếu như người dân miền Bắc là cây tre gắn bó sâu sắc thì với người miền Nam là cây dừa, còn người Xô man hiện ra gần gũi quen thuộc  với hình ảnh cây xà nu ngay cả trong sinh hoạt cuộc song hàng ngày. Tuef việc láy gỗ làm nhà, củi xà nu lại cháy sáng trong bếp lửa mỗi nhà, phủ lên bảng cho Tnú học…thì xà nu cũng là nhân chứng cho mọi biến cố đau thương và hào hùng của người dân Xô man. Dưới ngọn lửa xà nu Tnú đọc thư của anh Quyết gửi dân làng trước lúc hi sinh, lửa xà nu cháy trên 10 đầu ngón tay của Tnú trước điệu cười man dợ của kẻ thù và đáng nhớ nhất là nhựa, đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết trong đêm đồng khởi và xác 10 tên giặc nằm ngổn ngang bên đống lửa xà nu. Như vậy rừng xà nu không chỉ làm phông nền cho câu chuyện mà còn là linh hồn của Tây Nguyên, của dân làng Xô man, là nhân chứng lịch sử thầm lặng của cộng đồng người nơi đây.

Trong chiến ranh cây xà nu được nhà và khắc họa đại diện cho con người Tây Nguyên đau thương. Thương tích chiến tranh mà rừng xà nu chịu được thể hiện ngay ở đầu tác phẩm:” làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc” câu văn đã khắc họa một tư thế, một sức sống trong cuộc đấu tranh với cái chết, đặt xà nu vào thế hiểm của hoàn cảnh báo hiệu mọt cuộc quyết đấu căng thẳng trong bão táp chiến tranh. Xà nu ngày ngày phải gánh chịu bao bom đạn của kẻ thù:” hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn” cho nên “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Nhìn vào góc rừng nào ta cũng bắt gặp dấu vết của sự tàn phá hủy diệt. Và cũng chưa bao giờ ta được chứng kiến nét vẽ đau đớn về thiên nhiên của Nguyễn Trung Thành:” có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào à như một trận bão ở những vết thương nhựa ứa ra, ngọt ngào tràn trề, thơm ngào, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Những hình ảnh ấy đều gợi ta đến nỗi đau thương cử dân làng xô ma giống như rừng xà nu bị bom dạn hủy diệt của kẻ thù. Thì không một thê hệ nào nổi dậy lại không chịu tội ác dã man tàn bạo của quân xâm lược: anh Quyết của Đảng đã hy sinh, anh Sút bị treo cổ, bà Nhan bị chặt đầu, mẹ con Mai thì bị đánh đến chết, rồi đến Tnu cũng bị đốt cháy 10 đầu ngón tay. Không chỉ vậy rừng xà nu còn biểu tượng cho sự kiên cường bất khuất, sức sống mãnh liệt của người dân Xô ma. Từ rừng xà nu còn toát lên một sức sóng mãnh liệt không một loài nào sống được:” cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có 4,5 cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Đặc biệt có những cây đã trưởng thành:” đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”. Đóa là những hình ảnh tuyệt đẹp gợi lên sức sống mãnh liệt của rừng xà nu, nó là bằng chứng cho thấy sự sống luôn mạnh hơn cái chết và nó tồn tại hơn ngay trong cả sự hủy diệt. Già làng Mết cũng khẳng định sức sống mãnh liệt của cây xà nu:” không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã cây con mọc lên đố nó giết hết rừng xà nu này”. Bằng sức sóng mãnh liệt ấy những cây xà nu nối tiếp nhau tạo thành những rừng xà nu bạt ngàn bất tận:”rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Tố Hữu đã từng viết:

“ Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng  che bộ đội, rừng vây quân thù”

Những cây xà nu nối tiếp nhau chính là biểu tượng cho người dân Xô man nối tiếp nhau trên con đường đấu ranh giữ đất nước. Cụ Mết là cây cổ thụ xà nu, là linh hồn cội nguồn của dân làng. Tnu là nứa cây xà nu trưởng thành vững chãi trong giông bão. Mai ngã xuống đã có Dít thay cho chị cứng cỏi và mạnh mẽ hơn. Và sau Tnu đã có cậu bé Heng hứa hẹn một lớn cây xà nu trưởng thành trong tương lai. Như Tố Hữu đã từng  viết

“Đúng là lớp cha trước lớp con sau
Đã thành đồng chí chung nhau quân thù”

Hay như Hoàng Trung Thông đã viết:

“ Tôi lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”

Cây xà nu ham ánh sáng nhựa thơm mỡ màng biểu tượng cho dân làng xô man ham cuộc sống tự do và tâm hồn đẹp. Nhà văn Ngyễn Trung Thành đã khẳng định trong tác phẩm của mình:” đây là loại cây ham ánh sáng mặt trởi đến thế. Nó phóng lên rất nhanh đẻ tiếp lấy ánh nắng. Từ trên cao rọi xuống từng luồng thẳng tắp”, những hình ảnh đẹp ấy gợi lên niềm khao khát cuộc sống tự do và tình yêu cách mạng của con người Tây Nguyên. Cây xà nu với nhựa thơm mỡ màng, lóng lánh vô số hạt bụi vàng cũng như con người Tây Nguyên gian khổ lạ càng tỏa sáng. Từ lời cụ Mết vang vọng:” cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn”. Ý thức được điều này đặt trong sự khủng bố dã man của kẻ thù. Những thế hệ làng xô man nối tiếp nhau nuôi cán bộ và tiếp tục xây dựng cách mạng.

Truyện ngắn “ Rừng xà nu” mang kết cấu vòng tròn, đầu cuối tương ứng. Nếu ở đầu tác phẩm là những đồi xà nu nối tiếp nhau thì ở cuối tác phẩm là rừng xà nu nối tiếp nhau, từ đó cho thấy sức sống mãnh liệt của rừng xà nu, của con người Tây Nguyên nói riêng và con người Việt Nam nói chung. Mặt khác với kết cấu như vậy nhà văn đem đến chó người đọc cảm nhận rừng xà nu là một bản anh hùng ca hứa hẹn những kì tích chiến công trong tương lai, hơn thế đã tô đậm hơn cảm hứng sử thi hùng tráng của tác phẩm. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, xây dựng hình tượng cây xà nu, rừng xà nu cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi. Giọng văn thì tha thiết rất giàu biểu cảm tự hào. Sử dụng con mắt điện ảnh lúc thì quay cận cảnh lúc thì lại ra xa tạo ra một không gian vừa khái quát vừa cụ thể, kết hợp các giác quan nhuần nhuyễn. Sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, biểu tượng.   

Bằng ngòi bút tinh tế và cái nhìn nhạy cảm, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng rừng xà nu là hình tượng nhân vật, đem lại khuynh hướng sử thi cho tác phẩm. Không những vậy còn khẳng định vị trí không thể thay thế của Nguyễn Trung Thành trong con người Tây Nguyên và làm giàu cho tri thức bạn đọc.

Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu – Bài số 2

Nguyễn Trung Thành hay còn gọi là nhà văn Nguyên Ngọc, là nhà văn gắn mình với mảnh đất Tây Nguyên suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ của dân tộc ta. Ông được mệnh danh là nhà văn của núi rừng Tây Nguyên bất khuất, hùng vĩ. Ông luôn mong muốn bằng ngòi bút của mình đưa mảnh đất miền núi này gắn với văn chương hiện đại, và văn chương hiện đại gần gũi với mảnh đất này hơn. Đặc biệt, ông sử dụng hình tượng thiên nhiên để nói lên tình cảm của mình dành cho con người cũng như cuộc sống nơi đây. Trong các tác phẩm của nhà văn, “Rừng xà nu” là tác phẩm được ra đời vào thời điểm mà đế quốc Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền nam 1965. Tác giả đã tái hiện lại cuộc chiến đấu anh dũng, hào hùng, bất khuất của dân làng Xô Man. Hình tượng cây xà nu là một trong những thành công nghệ thuật miêu tả của nhà văn để toát lên được tinh thần anh dũng của dân làng Xô Man nói riêng và lòng yêu nước, đứng lên đấu tranh của dân tộc Việt Nam nói chung.

Từ trước đến nay, thiên nhiên là một trong những hình ảnh được các tác giả mượn để bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình. Dường như thiên nhiên luôn là trợ thủ đắc lực cho các nhà văn, một cách nhìn sâu sắc và hòa hòa giữa thiên nhiên và con người. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thiên nhiên được thi vị hóa, khi trở thành một nàng thiếu nữ kiều diễm, khi lại thoắt ẩn, thoắt hiện trong giấc mơ của bao nhà thi sĩ… Nhưng để chọn được hình tượng để gửi gắm thì chắc hẳn mỗi một hình ảnh đều có điểm thi vị và đặc sắc riêng của nó. Cây xà nu là loại cây họ thông, nó xuất hiện nhiều ở Tây Nguyên. Tác giả chọn cây xà nu nằm trong mạch biểu tượng về cây thông, cây tùng gan góc, anh dũng chịu đựng, kiên cường trong truyền thống dân tộc. Bởi vậy, hình ảnh cây xà nu xuyên suốt tác phẩm là biểu tượng cho những anh hùng, những tính cách của những người lính yêu nước đã từng tham gia kháng chiến và có người đã anh dũng hy sinh để bảo vệ buôn làng, bảo vệ đất nước.

Cây xà nu, rùng xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung  Thành. Mở đầu là hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu nằm trong đồn đại bác của giặc.  Đây là sự đấu tranh quyết liệt giữa hai hình ảnh đối lập, một bên là đại pháo của giặc, một bên là hình ảnh từng rừng cây xà nu “nắm tay” nhau chạy dài bao quanh ngôi làng nhằm bảo vệ sự bình yên cho ngôi làng ấy. Tác giả không che đi sự thật khắc nghiệt mà còn nhấn mạnh “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc.Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy”. Điều đáng nhấn mạnh ở đây là mỗi ngày rừng xà nu phải chịu hai lần bom đạn mà thực dân, đế quốc bắn vào. Đó như là sự thường lệ đã quen dần. Nhưng cây xà nu, rừng xà nu luôn đối diện  trước kẻ thù. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. Một hình ảnh hiện lên khiến con người phải rung động biết bao. Cây nào cũng bị thương, cây nào cũng chảy máu, nhưng dần dần nó bầm lại, đen và đặc quyện… hình ảnh này cho chúng ta liên tưởng đến “nỗi hận” khôn nguôi không chỉ con người mà chính bản thân cây xà nu cũng hình thành được sự căm thù giặc sâu sắc.

Cuối tác phẩm, tác giả cũng xây dựng hình tương cây xà nu, rừng xà nu theo một lối kết mở: “Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê”. Đầu tác phẩm miêu tả cảnh bị giặc bắn, cuối tác phẩm là hình ảnh cây xà nu rừng xà nu sau khi bị giặc tàn phá. Những cây bị chặt đứt thân mình không gục ngã, vẫn đứng lên, vẫn kiên cường và mọc lên những chồi non mới. Đây cũng chính là dụng ý của tác giả trong việc xây dựng hình tượng cây xà nu một cách thành công. Tác giả miêu tả cây xà nu như người con gái tuổi thanh xuân bị chặt đứt nửa thân mình, nhưng vẫn kiên cường, cố nén vết  thương vì việc nước còn chưa thành, nước nhà chưa độc lập thì chưa cho phép gục ngã. Hình ảnh “Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.” Cho thấy hy vọng về một thế hệ trẻ sẽ tiếp bước cha anh để giành lại độc lập cho nước nhà.

Cây xà nu tham gia vào đời sống vật chất và tinh thần của dân làng Xô Man. Cây xà nu là người bạn thân thiết của dân làng Xô Man. Cây xà nu hiện diện trong mỗi nhà, trong công việc, hoạt động của họ. Họ lấy cây xà nu làm củi, làm nhà, dùng nhựa xà nu để đốt, và đến bàng đen của Tnú cũng được làm từ nhựa của cây xà nu” Ba anh em đốt khói xà nu xông bảng nứa đen kịt rồi lấy nhựa long phơ bong phết lên một lớp dày, rửa nước cũng không phai được.”  Cây xà nu không chỉ là người bạn thân thiết của dân làng Xô Man mà còn chịu mọi tổn thất của giặc gây ra cùng dân làng chiến đấu. “Đạn đại bác không giết nổi chúng, nhưng vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã… Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…” Hình ảnh từng trận đại bác bắn 2 ngày một lần, hình ảnh từng cây xà nu cây nào cũng chảy nhựa như tùng “giọt máu” mà con người ta chịu dựng mỗi khi bị thương. Đồng thời, nó không chịu khuất phục trước kẻ thù, nó vẫn vươn mình lên để che chở cho dân làng. Chúng biểu tượng cho những anh hùng, những người lính kiên cường hơn bất cứ lúc nào, những vết thương ấy có đáng giá gì dân làng sau dãy xà nu ấy phải chịu đau thương. Hình ảnh nhân hóa, những từ ngữ biểu cảm đã giúp cho nhà văn Nguyên Ngọc xây dựng một cách suất sắc điểm nhấn về hình tượng cây xà nu rừng xà nu.

Cây xà nu ấy là biểu tượng cho Tây Nguyên, đau thương nhưng không chịu lùi bước.  Là loài cây được tham gia vào những việc chính sự của dân làng Xô Man.Chỉ có con đường bạo lực mới có thể đưa cách mạng đi đến thành công. “Chúng ta cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Lời của cụ Mết thấm sâu vào tâm hồn của dân làng Xô Man, vào ý chí, nghị lực cũng như lời tuyên bố với giặc “chúng tôi không chịu nhường bước, chúng tôi không chịu khuất phục, chúng tôi sẽ bảo vệ làng, bảo vệ đất nước bằng chính đôi bàn tay, bằng chính năng luc và sức mạnh của đồng bào”. Hình ảnh 10 ngón tay của Tnu bốc cháy đã tiếp thêm cho dân lang Xô Man đi tìm vũ khí, ngọn lửa xà nu đã soi sáng trên khắp nẻo đường mà người dân Xô Man đi tìm vũ khí, cũng là ngọn sáng cho dân làng ngày đêm mài vũ khí, chiến đấu với bọn thực dân, đế quốc.” Đêm đêm làng Xô-man thức, mài vũ khí.” “Giẻ đã tẩm dầu xà-nu” , cây xà nu đã chứng kiến được nỗi đau mà Tnu phải chịu. Và cũng chính ngọn lửa xà nu đã miêu tả lại một cách chân thực nhất cuộc đấu tranh của dân làng Xô Man “ đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ, xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đỏ.”

Cây xà nu, rừng xà nu ấy đã thấm vào cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã đi sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của mỗi người dân nơi đây, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương vô bờ bến, một cảm xúc gần gũi hòa lẫn nét tự hào trong giọng nói trước buôn làng “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”..Như vậy, cây xà nu, rừng xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm, ăn sâu trong đời sống vật chất và tinh thần của dân làng Xô Man. Là biểu tượng cho phẩm chất  cao đẹp của con người Tây Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường, yêu hòa bình, khao khát tự do.

Đặc biệt cây xà nu, rùng xà nu biểu thị cho nỗi đau, số phận và sức sống bất diệt của dân làng Xô Man lúc bấy giờ. Những thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù 2 lần một ngày tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ bến mà dân làng Xôman nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung. Nếu như cây xà nu trong tầm bắn của giặc “ Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi”. Hình như những cây xà nu ấy hiểu được nỗi đau, mất mát mà người dân phải chịu đựng, nên luôn luôn kiên cường như thế. Sự sinh sôi, nảy nở nhanh như vậy cho thấy sự kế tiếp nhau mà dân làng Xô Man đã thực hiện. Còn nhớ ngày anh Quyết mất, Tnu đã đứng lên thay anh Quyết dẫn dắt dân làng đánh giặc. Ngày giặc truy lùng người đem thức ăn cho những người cộng sản, đầu tiên là những thanh niên,giặc đã phát hiện và treo cổ anh xút lên cây vả đầu làng, rồi chặt đầu bà Nhan. Nhưng không chịu khuất phục, lớp trẻ nhỏ là Mai, Dít, Tnú đã tiếp bước cùng nhau đưa thức ăn cho bộ đội. Và bây giờ, ngay lúc trở về làng sau 3 năm, hình ản bé Heng, Dít là biểu tượng cho những cây xà nu nhỏ mọc lên, khoe mình dưới ánh nắng mặt trời. Rừng xà nu ấy tồn tại trong lửa đạn một cách kỳ diệu, dù có chết cũng chết trên đất rừng Tây Nguyên, dù có sống thì cũng sẽ như con người Xô Man. Một sức sống bất diệt trước bom đạn của kẻ thù. Là biểu tượng cho nỗi đau khôn nguôi khi bị bom đạn giày xéo, là số phận nghiệt ngã khi phải đối mặt với bom đạn, như dân làng Xô Man nói riêng và cả nước nói chung dưới chiến tranh mà thực dân và đế quốc gây ra, đồng thời cũng ca ngợi sức sống bất diệt của loài cây “ham ánh nắng mặt trời”, cũng là sức sống bất diệt, mãi mãi trường tồn mỗi khi tổ quốc, quê hương bị xâm lăng của mỗi người dân Việt Nam.

Không những thế, đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến. “Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng.” Nếu hình ảnh của Tnú, của dân làng được nhà văn Nguyên Ngọc sử dụng bằng bút pháp miêu tả, tự sự thì ở đây cũng là biện pháp miêu tả ấy, nhưng nổi lên trên bề mặt đó là sự so sánh, nhân hóa có sức hút lan tỏa. Một sức sống kỳ diệu không sánh bằng “cứ một cây ngã xuống, bốn năm cây con mọc lên”. Một hình thức sinh trưởng thần kỳ mang tính huyền thoại và sự sống bất diệt, không ngừng tan chảy. Đặc biệt là hình ảnh “ham ánh sáng” , ẩn sâu trong đó, ta thấy thấp thoáng những con người Xô Man đang đi theo lý tưởng cách mạng như lời Cụ Mết nói : “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn” đó là niềm tin vào Đảng, vào ánh sáng soi đường cách mạng đi đến thắng lợi, và cũng từ góc nhìn từ trên cao rọi xuống ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp kiên cường của nó. Khi có Đảng, nhân dân Xô Man cũng như cả nước luôn tin vào Đảng, “ chúng dùng súng thì mình cầm giáo” mãi là câu nói bất hủ có giá trị làm thay đổi cuộc sống của dân làng Xô Man. Đòng thời cũng thấy sự đoàn kết, trăm ngàn người như một của mảnh đất trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Chính khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Từ cụ Mết đến Tnú, Mai, Dít và thế hệ bé Heng là cả một cầu nối bắc nhịp qua thời gian để chứng minh sức sống kiên cường của dân làng Xô Man. “ Đại bác từ đồn giặc bắn vào rừng xà nu ngoài con nước lớn, nhưng chẳng ai nghe thấy, tiếng nói át cả tiếng súng…. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” Một cái kết mở cho người đọc sự liên tưởng phong phú, và nó cũng góp một phần giúp tác giả thành công hơn trong việc xây dựng hình ảnh rừng xà nu.

Nguyên Ngọc đã dùng bút pháp Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn hình ảnh  khái quát vừa được đặc tả theo từng cây cụ thể, vừa được miêu tả thành từng rừng cây xà nu chạy nối tiếp chân trời, vừa góc độ từ xa, lại gần , từ cao nhìn xuống để toát lên hết vẻ đẹp và sức sống của nó. Mặt khác, cách miêu tả được tác giả vận dụng một cách đầy đủ các giác quan: thị giác, khứu giác, vừa mang tính hiện thực, vừa mang tính khái quát trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng mặt trời. Đặc biệt cây xà nu  vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng, luôn được đặt trong mối quan hệ với con người mà cụ thể ở đây là dân làng Xô Man, bằng biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, sử dụng các từ ngữ đa sắc thái biểu cảm, tượng trưng mà từ đó vẻ đẹp của nó hiện lên đẹp một cách lạ thường, biểu đạt một thiên nhiên hùng vĩ, hào hùng tồn tại cùng với con người trong cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.  Bằng giọng điệu trữ tình, hình ảnh giàu sức biểu cảm cũng là một nhân tố giúp tác giả thành công như vậy. Không  chỉ dừng lại ở đó, bằng kết cấu vòng tròn, đầu là hình ảnh cây xà nu và cuối tác phẩm cũng là hình ảnh cây xà nu với dụng ý của tác giả nó không chỉ biểu tượng cho con người Xô Man mà nó còn là biểu tượng cho nhân dân cả nước nói chung. Qua đây cũng thể hiện được lòng yêu nước và ngợi ca sức chiến đấu anh dũng, kiên cường của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.

Với tình yêu Tây Nguyên da diết, với sự đồng điệu khi hóa thân vào con người nơi đây, hòa mình vào cuộc kháng chiến của đất nước, nhà văn Nguyên Ngọc đã thể hiện một cách thành công trong việc lựa chọn hình ảnh rừng xà nu làm hình ảnh biểu tượng. mặc dù chiến tranh đã qua đi, hòa bình lập lại nhưng hình ảnh những rừng cây xà nu nối tiếp chân trời vẫn còn đó, giúp ta cảm nhận được một quá khứ oai hùng, những con người với những phẩm chất tốt đẹp, dù khó khăn nhưng không chịu dừng bước. Khát khao được độc lập, tự do đã thôi thúc sự kiên cường, dũng cảm của dân làng Xô Man nói chung và cả đồng bào ta nói riêng đấu tranh quyết thắng giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thế hệ trẻ chúng ta ngày nay phải học tập, lao động tốt để nối tiếp những anh hùng, những chiến sĩ, những đồng bào ta đã xả thân vì nước xây dựng một nước Việt Nam tốt đẹp, giàu mạnh hơn.

Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu – Bài số 3

Hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành tiêu biểu cho của cuộc sống đau thương nhưng rất kiên cường, bất khuất của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Rừng Xà Nu là hình ảnh gắn bó máu thịt với ông, ông yêu mến và viết về nó như biểu tượng của cuộc sống đau thương, phẩm chất kiên cường, bất khuất của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên mà cụ thể là làng Xô Man.

Hình tượng rừng xà nu được nhà văn sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật để chạm khắc từ hình khối, màu sắc tới hương vị để cây xà nu nổi bật lên trong đau thương của chiến tranh. Cây xà nu cũng nối nhau chạy tít tắp phủ kín câu chuyện. Đây chính là kết cấu đầu cuối hô ứng, có ý nghĩa cụ thể gợi lên đặc trưng của miền đất Tây Nguyên, biểu tượng cho cuộc sống đau thương nhưng kiên cường bất khuất của con người nơi đây. Cây xà nu được Nguyễn Trung Thành miêu tả bằng những câu văn thật đẹp, dường như ông đã dành cả bút lực cho loài cây yêu quý này. Một loài cây khao khát sống và vươn lên bầu trời rộng lớn.

Nguyễn Trung Thành đã dùng nghệ thuật tượng trưng, nhân hóa để biến rừng xà nu thành nhân vật anh hùng trong chiến tranh. Rừng xà nu được đặt trong sự đối lập giữa sống và chết, bị đặt trong tầm đại bác của giặc, ngày nào cũng bị bắn khiến cho mình mẩy đầy thương tích, chỗ vết thương nhựa ứa ra đọng thành cục máu lớn lại có những nỗi đau dữ dội như tuổi xuân bỗng bị chặt đứt ngang mình, đổ ào xuống như gặp bão…

Một loài cây có sức sống dẻo dai, bền bỉ và mãnh liệt gây ấn tượng sâu đậm đọng lại trong lòng người đọc về hình tượng rừng xà nu không thể nào hủy diệt được dù đạn bác kẻ thù gây ra bao nỗi đau thương. Bởi cây này ngã xuống, cây kia đứng lên lao thẳng lên bầu trời để đón lấy ánh nắng. Hình tượng rừng xà nu cũng như dân làng Xô Man đang phải sống dưới hầm đại bác của giặc Mỹ. Dù bị đàn áp khiến cho mình đầy thương tích và chết chóc nhưng họ vẫn đứng lên bảo vệ quê hương, đất nước bền bỉ, kiên cường như rừng xà nu. Nguyễn Trung Thành đã dùng hết bút lực của mình để ca ngợi vẻ đẹp hiên ngang của thiên nhiên và con người Tây Nguyên.

Cây xà nu gắn bó với đời sống của người dân nơi đây. Nó không chỉ là nhân chứng lịch sử mà còn tham gia vào cuộc chiến chống Mỹ và các sự kiện của trọng của dân làng. Đuốc xà nu soi sáng đường đi và sáng trong nhà ưng khi tập hợp dân làng, ngọn lửa xà nu giữ ấm cho mỗi ngôi nhà, gỗ xà nu làm bảng cho các trẻ em học bài. Hình tượng về rừng xà nu như người đàn ông, người cha khổng lồ che cho bầy con. Ấn tượng về cây xà nu như một khúc ca xanh, ngân nga trong lòng người đọc về một sức sống man dại mãnh liệt.

Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu bị đại bác của giặc tàn phá, thương đau và kết thúc là hình ảnh rừng xà nu nối tít tắp chạy tới tận cuối chân trời. Nguyễn Trung Thành đã sử dụng kết cấu đầu cuối hô ứng, biểu tượng cho cuộc sống đau thương nhưng kiên cường, bất diện của con người Tây Nguyên.

Hình ảnh rừng xà nu cuối tác phẩm hùng tráng và thơ mộng như phẩm chất và tinh thần quật khởi của đồng bào Tây Nguyên và dân tộc Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh chống đế quốc xâm lược. 

Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu – Bài số 4

Nguyễn Trung Thành là bút danh của Nguyên Ngọc trong thời kì vào hoạt động ở chiến trường miền Nam.Ông thuộc thế hệ những nhà văn trửng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.Những sáng tác của Nguyên Ngọc thường đậm đà tính chất sử thi,đề cập đến những vấn đề trọng đại của dân tộc ,của đất nước, qua những nhân vật anh hùng.

Nguyên Ngọc có vốn sống khá phong phú và sự gắn bó sâu sắc với chiến trường Tây Nguyên, với những dân tộc ít người. Mảnh đất Tây Nguyên và con người Tây Nguyên đã xuất hiên trong những sáng tác của Nguyên Ngọc với một tinh thần quật cường, thiết tha với cách mạng, yêu quý tự do, chân thành, đôn hậu…Cùng với tác phẩm Đát nước đứng lên, Rừng xà nu có thể coi như một bản anh hùng ca của nhân dân Tây Nguyên anh hùng chống kẻ thù xâm lược, mà dân làng Xô Man trong truyện là những con người tiêu biểu.Đại diện cho dân làng này phải kể đến những nhân vật thiếu niên như Heng, như Tnú, như Dít và phụ lão như già Mết…Bên cạnh đó còn có một nhân vật hết sức quan trọng là cây xà nu. Cây xà nu là hình tượng nổi bật xuyên suốt truyện ngắn này. Nó được tác giả dụng công mô tả ,và trên thực tế, hình tượng cây xà nu đã mang lại hiệu quả đáng kể. Đọc truyên Rừng Xà Nu ,gấp sách lại ,không mấy ai quên được hình tượng cây xà nu.

Trong bài viết Về một truyện ngắn – Rừng xà nu in trong tác phẩm văn học 1930-1975, chính tác giả đã tâm sự: ngay từ năm 1962, trên đường cùng một số văn nghệ sĩ từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam, đến miền Tây tỉnh Thùa Thiên giáp Lào, Nguyên Ngọc được tấn mắt trông thấy những rừng xà nu bát ngát “xanh tít tận chân trời”. Đấy là những rừng cây “hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vùa thanh nhã, vừa rắn rỏi”. Những rừng cây này đã gây ấn tượng mạnh mẽ khơi nguồn cảm hứng cho Nguyên Ngọc để 3 năm sau (1965) nó trở thành hình tượng chính trong một truyện ngắn khá tiêu biểu của văn học thời chống Mĩ- truyện ngắn rừng xà nu. Trong truyện ngắn này, cây xà nu được nhắc đến hàng chục lần. Mở đầu và kết thúc truyện, nhà văn đã dành một đoạn khá dài để nói đến rừng xà nu. Đây là những đoan văn vừa làm nền cho toàn bộ diễn biến câu chuyện, vừa nhằm gây cho người đọc ấn tượng sâu sắc về cây xà nu.

Trước hết đây là loại cây chứng kến sự ác liệt của chiến tranh hủy diệt. Cây xà nu bỗng nhiên trở thành đối tượng hủy diệt của bom đạn kẻ thù. Mở đầu tác phẩm, nhà văn vẽ ra trước mắt người đọc bức tranh đau thương”cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào như một cơn bão”. Không dừng ở đấy, tác giả mô tả kĩ hơn” ở chỗ vết thương nhựa ứa ra, tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dân bầm lại, đen và đặc quện thành cục máu lớn.”
Nhưng mặc cho bom đạn ác liệt của kẻ thù hủy diệt, rừng xà nu vẫn tồn tại, cây xà nu vẫn vươn lên, bằng một sức sống thật mãnh liệt. Có mất mát, có hi sinh, có những cây bị chết đi, nhưng rừng xà nu thì vẫn còn mãi. Cây xà nu đâu còn là một vật vô tri vô giác? Cây xà nu đã trở thành người dũng sĩ rực rỡ tráng kiệt có sức sống mãnh liệt ,bất chấp sự tàn bạo của kẻ thù: ”Cạnh một cây xà nu mới ngã gục ,đã có bốn năm cây con mọc lên, ngon xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời.Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trới đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng, thứ ánh sáng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp(…) Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi…cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình, che chở cho làng..” Để kết thúc đoạn văn mở đầu tả rừng xa nu ,tác giả viết:”Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa , đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời”.Đây cũng là câu văn kết thúc toàn bộ tác phẩm, chỉ đổi một chữ “đồi” ở đoạn đầu thành chữ “rừng” ở phần cuối cùng. Cách viết này rõ ràng nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ ở người đọc về hình tượng cây xà nu kiên cường bất khuất.

Không chỉ ở đầu và cuối truyện, cây xà nu liên tục xuất hiện trong suốt câu chuyện, có mặt trong mọi sinh hoạt của các nhân vật chính, nói rộng ra nó gắn bó mật thiết với cuộc sống của mọi người dân ở làng xô man này.

Sau ba năm xa làng, đi bộ đội giải phóng, nay, T nú có dip trở về thăm làng, được bé heng dẫn đường. Qua chú bé này, Tnú biết Dít-em gái của Mai, nay đã trở thành bí thư chi bộ xã Một trong những kỉ niệm anh nhớ đến đầu tiên là lúc Tnú cầm lấy cây xà nu”soi cho Dít gằn gạo”. Về đến làng, Tnú nhìn thấy “một lũ trẻ lau nhau,đứa nào, đứa nấy ấy mặt mày lem luốc khói xà nu”. Và dưới mắt anh, cụ Mết quắc thước bây giờ râu đã dài tới ngực đen bóng, mắt vẫn sáng…Nhìn thấy bộ ngực nở nang của ông cụ ở trần, Tnú ví nó như “một cây xà nu lớn”. Trong bữa cơm thân mật ở nhà cụ Mết ,mọi người chuyện trò vui vẻ. Cụ Mết không quên nhắc tới cây xà nu đất ta với một sự thách thức đối với kẻ thù,và một niềm tự hào về sự bất diệt của loại cây này: ’Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta .cây mẹ ngã cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này! ”Tnú còn nhớ lại cái ngày đầu mình học chữ với Mai do anh cán bộ Quyết dạy” ba người đập nứa làm những tấm bảng to bằng ba bàn tay.Cây xà nu cung cấp cho họ một thứ vật liệu vô giá: ’Ba anh em đốt khói xà nu xông bảng nứa đen kịt rồi lấy nhựa hương -tờ-ngheo phất lên một lớp dày..”Nhờ những tấm bảng ấy,Tnú và Mai đã học được chữ. Chưa hết, cây xà nu còn có mặt trong những phút dữ dội nhất, đau đớn nhất của cuộc đời Tnú:anh bị kẻ thù hành hạ dã man. Chúng dùng ‘giẻ đã tẩm dầu xà nu‘,’quấn giẻ vào mười đầu ngón tay của Tnú’ rồi đốt.’Không có gì đượm bằng nhựa xà nu.Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã trở thành mười ngọn đuốc. ’Thế rồi ,dân làng vùng lên giết bọn giặc dã man” Lửa đã tắtt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đổ. Xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đỏ”. Như vậy cây xà nu trở thành nhân chứng cho cuộc chiến đấu, chiến thắng đầu tiên của dân làng XoMan đối với kẻ thù hung bạo, họ buộc phải lấy bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng bằng một khí thế vũ bão:

“Tiếng chiêng nổi lên

Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng XôMan ào ào rung động”

Như vậy rõ ràng cây xà nu là một hình tượng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm. Cây xà nu chính là tượng trưng cho cuộc sống trong lao động và trong chiến đấu ,cho phẩm giá cao đẹp của người dân Xô Man. Nó gắn bó máu thit với mỗi một thành viên của làng này, đi vào mọi sinh hoạt, mọi suy nghĩ của họ. Nó vừa gần gũi vừa thiêng liêng,Từ ngàn xưa đã trở thành niềm tự hào,thành chuẩn mực của người làng Xô Man.

Từ những nét đó giúp chúng ta hiểu thêm vì sao Nguyên Ngọc lại đặt tên truyện ngắn này là Rừng xà nu. Điều đáng lưu ý là cây xà nu ở đây miêu tả như một ẩn dụ, gợi lên những liên tưởng về cuộc sống thuần khiết trong sáng, sức sống dồi dào mãnh liệt, phẩm cách kiên cường của người dân xô man. Cũng có thể nói, việc tập trung miêu tả cây xà nu, rừng xà nu, nhưng thực chất Nguyên Ngọc đã khắc họa được ngững nét đặc điểm hết sức cao quý của người Tây Nguyên. Cùng với những nhân vật như Tnú, như Dít, như cụ già Mết, cây xà nu hoàn thiên chân dung của người dân xooman thủy chung ,bất khuất,căm ghét kẻ thù,gắn bó sâu nặng với cách mạng …Rừng xà nu bị đạn đại bác của quân thù tàn phá chịu bao đau thương mất mát có khác gì dân làng XôMan ,người bị tra tấn dã man người bị giết hại.Cây xà nu ham ánh sáng mặt trời có khác gì dân làng XôMan bộc trực ,thích tự do ,có sức chiến đấu mãnh liệt.

Rững xà nu đã trở thành một biểu tượng,một bản anh hùng ca bất diệt trong con người XôMan,trong Tây Nguyên và trong cả dân tộc Việt Nam

Vũ Hường tổng hợp

0