16/01/2018, 13:36

Phân tích hình ảnh con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà – Văn mẫu lớp 12

Phân tích hình ảnh con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà – Văn mẫu lớp 12 Phân tích hình ảnh con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà – Bài số 1 Bằng phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và ...

Phân tích hình ảnh con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà – Văn mẫu lớp 12

Phân tích hình ảnh con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà – Bài số 1

Bằng phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng lay động người đọc nhiều nhất, Nguyễn Tuân đã sáng tác được rất nhiều tác phẩm có giá trị lớn, trong đó có sông Đà, một thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà tác giả thu hoạch được trong chuyến đi tới vùng Tây Bắc tổ quốc xa xôi, rộng lớn. Ông đã tìm được cái chất vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa được thể hiện trong thiên tùy bút "người lái đò Sông Đà" mà con sông Đà với sự hung bạo, trữ tình và thơ mộng của nó đã được tác giả miêu tả thật tài hoa.

Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một vùng núi ác, đến gần nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng 73 con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố nhân "lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy".

Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh: "Đường lên Mường Lễ bao xa – Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh" (Ca dao) và cái hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: "Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu", một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Vẻ nguy hiểm của sông không chỉ được thể hiện qua thác nghềnh mà đó còn là "đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại trở nên xiết vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.

Cũng như "quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy". Bằng kết cấu trùng điệp, tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất.

Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. "Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết người!

Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! "Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng "rất đắt", Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!. Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là "sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này". Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm:

Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".

Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ hai: "Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử "vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!

Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với "tay lái ra hoa".

Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với "diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một". Con sông mà "hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà". Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh "Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".

Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm nét thơ mộng, trữ tình: "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, trong đó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".

Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu", làm cho người đi rừng dài ngày "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng".

Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: "Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Cảnh sông Đà còn là "những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm". Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy "thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu", muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, "tịnh không một bóng người", "một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa" mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Thật buồn tẻ! Từ quá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi người. Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?". Ở đây dường như là con vật hỏi người hay chính là người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của "đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến" đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: "Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình" của "một người tình nhân chưa quen biết". Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ "như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi". Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó "trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên".

Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.

Phân tích hình ảnh con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà – Bài số 2

Văn của Nguyễn Tuân đúng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt đầu lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…

(Đất Nưởc- Nguyễn Khoa Điểm)

Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về

sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:

Chúng thủy giai đông tầu,

Đà Giang độc bắc lưu.

Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm Sông Đà ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kì thú, con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút Người lái đò Sông Đà là một trong số 15 bài của tác phẩm Sông Đà, là một “tờ hoa”, “trang hoa" đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, độc đáo. Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.

Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng. Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một “cố nhân”, một cố nhân “chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẩn tính và gỏng thác lủ ngay đấy”.

Sông Đà hung bạo lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa – bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh” (Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm – du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận cho ta biết Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết rằng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác Em, thác Giăng, Mỏ Tôm, Mỏ Năng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu… Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm”.

Ở phía trên trung lưu sông Đà. Đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị “chẹt” như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuồn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu “ặc ặc” như rót dầu sôi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe “như là oán trách…, như là van xin..; như là khiêu khích, giọng gằn mà chè nhạo”. Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vẩu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên tướng rất “đắt” để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có “diện mạo vù tâm địa” nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi “tliạch trận”, dày đặc “cửa tử”, la liệt ‘‘boong ke chìm vào pháo đài đá nổi”, những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt” có bộ mặt “xanh lè” đáng sợ, sẵn sàng “bẻ gãy cán chèo”, “bắt chết” những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi “cửa ủi nước”, đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.

Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bắc này. Dáng hình sông Đà mềm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với “một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải”, hoặc “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung Inở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình như Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (…); Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đi như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.

Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà “lặng lờ”; hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê “quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ ki lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song quan trong một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng bút pháp chấm phá “điểm nhấn" để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi giang đầy “nõn búp”. Là những con hươu rừng “thơ ngộ” ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sô “bụng trắng như bạc rơi thoi”. Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông đem lại cho người đi rừng niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi”, hoặc "con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”…

Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút Sông Đà là loại “tùy bút – bút kí". Đọc tùy bút Người lái đò Sông Dà, ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc… chỉ nói về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ “đề từ” mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ cua sông nước, vẻ đẹp độc đáo của Đà Giang: “Đẹp thay tiếng hát trên dòng sông”, và “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà Giang bác lưu”. Cũng như con sông Trường Giang bên Trung Quốc, con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp “Đường thi” như một câu thơ tuyệt bút của Lí Bạch hơn 1.300 năm về trước:

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.

Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật là thú vị

Dái sông Đà bọt nước lênh bênh

Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.

Qua đó ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kì.

Nói về truyền thông yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng”, nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích – bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế ki XIX – để đưa vào bài kí:

Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu.

Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. Người lái đò Sông Đà  đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa nghệ thuật Việt Nam.

Ai đã từng đọc Vang bóng mệt thời chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu của những nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm.Đọc tùy bút Người lái đò sông Đà, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã “để thơ vào sông nước”. Ông đã khám phá sự vật – con sông Đà – ở phương diện văn nghệ thuật, đã miêu tả, nhận diện con người – ông lái đò – ở phương diện thi hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nóivề thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.

Đọc Người lái đò sông Đà ta yêu thêm con người Việt Nam cần cù, dũng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên, là hồn thiêng đất Việt

Phân tích hình ảnh con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà – Bài số 3

Nguyễn Tuân (1910-1987) là một nhà văn có lòng yêu nước thiết tha, niềm say mê vẻ đẹp thiên nhiên sông núi. Ông còn là nghệ sĩ tài hoa, lịch lãm, uyên bác, rất thích mô tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt vời bằng những câu văn vừa cổ kính vừa mới mẻ, giàu màu sắc tạo hình và nhìn sự vật theo quan điểm thẩm mĩ, văn hoá. Nét phong cách nghệ thuật ấy của ông trong văn xuôi sau Cách mạng có lẽ được bộc lộ rõ nét và hấp dẫn nhất qua bài tuỳ bút nổi tiếng Người lái đò sông Đà. Qua con mắt nhìn của một nghệ sĩ tài hoa với những giác quan tinh tế, trong cuộc vượt thác sông Đà này, Nguyễn Tuân đã làm hiện lên trước mắt người đọc bức tranh vô cùng ấn tượng về thiên nhiên Tây Bắc vừa tươi đẹp, giàu có vừa bạo liệt, hùng vĩ qua hình ảnh con sông Đà.

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri vô giác mà là một sinh thể sống động, một nhân vật đầy sức sống và có tính cách hẳn hoi. Đó là sự kết hợp vừa lạ lùng mà thật ấn tượng: vừa hung bạo dữ dằn vừa trữ tình thơ mộng. Lúc hung bạo nó như kẻ thù số một của con người, lúc trữ tình nó lại đầy chất thơ và thân thiết với con người như một cố nhân xa cách thì nhớ nhung lưu luyến. Cho nên hai câu thơ đề từ có thể được xem là đã thâu tóm được hình tượng sông Đà “Đẹp vậy thay tiếng hát trên sông” và “Chúng thuỷ giai đông tẩu – Đà giang bắc lưu”.

I. Tính cách hung bạo – bạo chúa:

Trước hết tác giả giới thiệu lai lịch của con sông Đà “Nó khai sinh ở huyện Cảnh Đông – Vân Nam – Trung Quốc lấy tên là Ly Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi đến nửa đường thì xâm nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thì chan hoà vào sông Hồng.” Sau đó bằng những trang viết sinh động, bằng câu văn độc đáo gợi cảm, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ được hình ảnh con sông Đà mới dữ dằn, hung bạo làm sao!

1. Hung bạo ở chỗ đôi bờ xích lại gần nhau làm cho lòng sông hẹp lại như cái yết hầu thắt giữa hai vách đá dựng đứng hiểm trở. Ở đây “Con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia, ngồi trong khoang đò qua quãng sông ấy đang mùa hè mà cũng thấy lạnh cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nhà nào ở tầng mấy vừa tắt phụt ánh điện.”

2. Hung bạo ở cái dữ dằn của gió. “Lại như quãng mặt ghềnh hát loóng dài hàng cây số”gió phối hợp với nước với đá với sóng tạo nên những cơn xoáy thật kinh hãi: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn từng luồng gió gùn ghè suốt năm lúc nào cũng đòi nợ xuýt (nợ không có cũng đòi) bất cứ người lái đò nào tóm được qua đây.”

3. Hung bạo hơn nữa là ở những cái hút nước giống như những cái giếng bê tông người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: Trên những cái hút nước ấy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạt đàn” Nước ở đó “cứ ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Con sông Đà không khác gì một loài hung thủ đi đến đâu là gieo rắc tử khí đến đó. Cho nên không một chiếc thuyền nào dám men gần đến cái hút nước ấy. Bề gỡ nghênh ngang qua đây như có vẻ thách thức kiêu ngạo, vô ý lại bị cái hút nước đó lôi tuột xuống. Thuyền “Trồng ngay cây chuối ngược, rồi vụt biến đi bị dìm dưới lòng sông đến mười phút sau, mới thấy tan xác ở khuỷu sông phía dưới”. Cách so sánh ví von, mô tả của Nguyễn Tuân gây cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy nhìn thấy được tận mắt cái hung dữ của sông Đà mà thót tim lại.

4. Nhưng con sông Đà hung bạo nhất và ở mấy chục con thác đá tạo thành các thạch thuỷ tr vô cùng hiểm trở với biết bao cửa tử. Con sông Đà đã trở thành một loài thuỷ quái vừa hung ác vừa nham hiểm, khi còn ở xa đã lắng nghe được tiếng nước thác khi cán trách, khi van xin, khi khiêu khích khi chế nhạo. Lúc tới gần “thì mặt sông rung lên như tuốc bin thuỷ điện”. Lòng sông thì trắng xoá làm bật nổi những tảng đá dàn bầy thế trận, tảng nào hòn nào trông cũng ngỗ nghịch và như những vị tướng “Có vị trông oai phong lẫm liệt; có vị như đang hất hàm bắt cái thuyền phải xưng tên, xưng tuổi tuổi trước khi giao chiến”. “Có vị lại lùi một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Những tri thức về quân sự, về võ thuật, thể dục, thể thao, điện ảnh của tác giả được dịp ném ra để diễn tả sự độc ác, xảo quyệt hết sức nguy hiểm của con thác. Khi thì nó mai phục để đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc sông ngoặt; khi thì nó lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh quật vu hồi. Khi đã giáp lá cà thì nó đâm thẳng vào hông ông lái đò, bẻ gãy cán chèo, rồi đá trái thúc gối vào bụng, dở đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa bụng ông lái đò giữa sóng nước. Nó vừa đánh vừa reo hò la hét vang động cả một vùng sông nước hoang vu “như tiếng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa “Khi con thuyền du kích chọc thủng được tuyến 2, thì nhiệm vụ của các boang ke chìm, pháo đài nổi ở tuyến 3 phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên. Cuối cùng “cái thằng tướng đá đứng chặn ở cửa ra vào đã tiu ngỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.

II. Tính cách trữ tình – nữ hoàng :

1. Qua cách mô tả đặc sắc của Nguyễn Tuân, con sông Đà có hai nét tính cách dường như đối lập nhưng rất thống nhất: vừa hung bạo vừa trữ tình như thể là mĩ nhân vậy. Nguyễn Tuân đã nhìn con sông Đà bằng con mắt thẩm mĩ văn hóa để phát hiện ra những vẻ đẹp và sắc màu đa dạng của con sông Đà chảy dọc suốt miền Tây Bắc này. ở những quãng yên tĩnh thì sông Đà quả thật rất thơ mộng “ Như một mĩ nhân kiều diễm tuôn dài áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”.

2. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra những sắc màu khác nhau của sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng. Qua làn mây mùa xuân, sông Đà xanh màu ngọc bích. Qua ánh nắng mùa thu sông Đà lừ lừ chín đỏ như mặt người bầm đi vì rượu bữa.

3. Nguyễn Tuân cũng đã dùng những hình ảnh dịu dàng, trong sáng nhất để tả sông Đà nên ông đã khám phá ra những chất thơ phong phú, đa dạng của nó: Khi thì nó hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích; khi thì nó mang chất thơ cổ điển Đường thi; khi lại mang chất thơ tươi trẻ “Vui như nắng giòn tan sau kì mưa dầm”. Có khi lại ẩn chứa chất thơ tình tứ “Sông Đà bọt nước lênh bênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của Tản Đà – gửi người tình nhân chưa quen biết).  Dưới con mắt của tác giả Vang bóng một thời, cảnh ven sông Đà ở đây lặng tờ cổ xưa như chảy từ đời Lý, đời Trần đến nay. Và giữa cái không khí phẳng phất màu tiền sử ấy, “thỉnh thoảng có đàn cá dầm xanh, anh vũ quẫy vọt lên bụng trắng như bạc rơi thoi”. Tiếng cá đập nước sông làm cho đàn hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khói áng cỏ và tai lắng nghe một tiếng còi sương, một âm thanh vẳng đưa trong tưởng tượng, gợi lên một không khí thật tĩnh lặng hoang vắng nhưng chứa chan thi vị. Đắm mình trong vẻ đẹp trữ tình trong vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân nhiều lúc “muốn đề thơ lên sông nước”.

Như vậy để làm nổi bật cái hung bạo, dữ gìn và vẻ hung bạo, thơ mộng, trữ tình của sông Đà, Nguyễn Tuân đã có những sáng tạo nghệ thuật độc đáo như từ ngữ giàu màu sắc tạo hình, sử dụng hình ảnh đặc sắc, khả năng so sánh, liên tưởng bất ngờ, các biện pháp nhân hoá, ẩn dụ, năng lực quan sát tưởng tượng đặc biệt. 2. Sông Đà đã trở thành một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, làm thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ và bồi đắp cho độc gỉa tình yêu,niềm tự hào về vẻ đẹp đa dngj của thiên nhiên tổ quốc.

Phân tích hình ảnh con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà – Bài số 4

Trong tác phẩm Người lái đò sông Đà, dòng sông Đà hiện lên trong trang tùy bút như một sinh thể độc đáo vừa có hình hài, vừa có cá tính, phong cách có cả số phận. Ngòi bút của Nguyễn Tuân đi sâu miêu tả hai nét tính cách trái ngược của dòng sông Đà hung bạo và trữ tình.

Ngay từ lời đề Nguyễn Tuân đã phát hiện ra cái độc đáo của dòng sông Đà thông qua lời thơ của Nguyễn Quang Bích: "Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu" (Mọi con sông đều đổ về đông, duy chỉ có sông Đà là chảy theo hướng bắc). Bằng việt đối sánh hướng chảy về dòng sông Đà với mọi dòng sông khác, Nguyễn Tuân đã cho thấy đây là một dòng sông có bản lĩnh, có cá tính. Và dường như nhà văn đã miêu tả dòng sông Đà với những gì nguyên sơ nhất khi con sông chưa có bóng dáng cuộc sống con người.

Cái độc đáo của sông Đà trước hết bộc lộ tính cách hung bạo. Cái hung bạo của con sông Đà hiện lên ở vách đá dựng đứng hai bên bờ sông: "Đá bời sông dựng vách thành", "Vách đá chẹn ngang dòng sông như một cái yết hầu". Nguyễn Tuân mang đến cho người đọc cảm nhận đầu tiên: Sự vững chãi, uy nghiêm, đầy bí ẩn của sông Đà. Bằng biện pháp so sánh kết hợp với liên tưởng, tưởng tượng, nhà văn vẽ ra hình ảnh sông Đà ở thượng nguồn là nơi có độ cao hút của vách đá và độ hẹp của lòng sông, khiến cho "mặt sông phải chính ngọ mới có mặt trời".

Cái hùng vĩ, dữ dội của sông Đà còn ở những cái hút nước trên sông. Âm thanh của những cái hút nước đó thật đáng sợ: "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "những cái giếng sâu nước ặc ặc như vừa rót dầu sôi vào". Nhà văn sử dụng biện pháp so sánh kết hợp với những từ láy để miêu tả sự kinh hoàng của những cái hút xoáy đó. Nguyễn Tuân còn hình dung ra cảnh: một anh bạn quay phim táo tợn ngồi vào chiếc thuyền để hút nước sông Đà, hút xuống dưới tận đáy sông để rồi từ đó lia ngược máy quay phim lên. Nước sông đà như một khối bê tông thủy tinh đúc dày. Khối bê tông này có thể đổ ập xuống cả người, cả máy quay phim. Dòng sông lúc nào cũng ở trong cơn cuồng ngộ muốn hút vào lòng nó tất cả những gì trên bề mặt sông Đà.

Sông Đà hung bạo, dữ dội nhất là ở cảnh thác đá trên sông. Nhà văn cảm nhận con thác ấy qua cái nhìn của người đi thuyền trên sông, đang ngồi một mình tiến dần đến thác. Cảnh thác đá vì vậy được miêu tả từ xa đến gần. Càng đến gần, thác đá hiện lên qua hình ảnh: sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá", "đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông". Nhà văn đã dùng cái nhìn quân sự để miêu tả sự nham hiểm của con sông với những "đá tướng", "đá quân" đông đảo, hiếu chiến mà diện mạo hòn nào cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó, hất hàm, xốc xược, tiêu nghỉu, xanh lè…

Không chỉ là người say mê những phong cảnh tuyệt mĩ, dữ dội, phi thường, Nguyễn Tuân còn là nhà văn của cái đẹp. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ hung bạo mà nó còn rất trữ tình. Từ điểm nhìn trên cao, Nguyễn Tuân nhận ra hình ảnh con sông trong dáng hình mềm mại uốn lượn tự nhiên. Nguyễn Tuân đã so sánh dòng sông Đà với sợi dây thừng ngoằn nghèo. Sự so sánh giản đơn nhưng chính xác độc đáo nên tạo được sự bất ngờ thú vị. Sông Đà đẹp thơ mộng trước hết ở vẻ đẹp tự nhiên ấy.

Dòng nước sông Đà cũng mang vẻ đẹp duyên dáng, thi vị: "con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân". Dòng sông như áng tóc của người con gái yêu kiều, một mĩ nhân duyên dáng, đài các và đầy thơ mộng. Câu văn rất dài chỉ với duy nhất một dấu ngắt đã giúp người đọc liên tưởng về sự "tuôn dài" tưởng như bất tận của con sông.

Màu sắc: nhà văn đã khéo léo so sánh màu nước của con sông Đà với những con sông khác: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Xanh ngọc bích là màu xanh vừa có ánh, vừa có sắc, lại gợi lên một sự quý giá. Nó không phải cái màu nhàn nhạt như màu xanh cánh hến của sông Gâm, sông Lô. Nếu màu nước con sông Hương thay đổi theo ngày "sáng xanh, trưa vàng, chiều tím" thì sông Đà lại thay đổi theo mùa. Sự thay đổi đó làm dòng sông giống hệt một thiếu nữ thất tình. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như mang nặng phù sa với cái dáng vẻ nặng nề, chậm chãi được Nguyễn Tuân miêu tả như giận dữ, bực mình, khó chịu. Nghệ thuật so sánh bất ngờtáo bạo rất Nguyễn Tuân đã làm nên một sông Đà thơ mộng, trữ tình, đa tình, đa cảm.

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn toát lên từ không gian tĩnh lặng. Phải chăng đây là đoạn sông Đà ở hạ nguồn dòng sông hiền lành yên ả: "cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Điệp từ "lặng tờ" mở ra cái trầm tích của dòng sông trong lịch sử và có lẽ cái tĩnh lặng ở sông Đà cũng là sự bất biến ngàn đời nay khi chưa có dấu chân con người khai phá.

Tóm lại, hung bạo và trữ tình là hai nét tính cách đối lập nhau tạo nên vẻ đẹp đầy lôi cuốn của sông Đà. Bút pháp lãng mạn với thủ pháp tương phản, hệ thống hình ảnh được tạo ra từ những liên tưởng kỳ thú, sự am hiểu nhiều ngành nghệ thuật (địa lý, lịch sử, quân sự, điện ảnh, thơ ca..), cùng nghệ thuật so sánh đặc sắc đã giúp Nguyễn Tuân miêu tả vẻ đẹp kì thú đặc biệt độc đáo của sông Đà. Qua Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân muốn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, con người Tây Bắc trong cảm quan cái đẹp của mình. Tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người và lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân đã được thể hiện sâu sắc.

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm

  • lập dàn ý : trong tác phẩm người lái đò sông đà nguyễn tuân đã tưởng tượng ra một cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò với bầy thủy quái sông đà qua từng trùng vi hãy chúng minh
0