12/08/2018, 11:34

Một góc nhìn khác về biểu tượng chữ Vạn

Nguyễn Xuân Lung Trên trang Nghiên cứu quốc tế gần đây có bài viết với nội dung: Lịch sử biểu tượng “ chữ thập ngoặc” của Đức quốc xã , những dòng mở đầu, tác giả viết: “ Rất nhiều người thắc mắc không hiểu tại sao chữ Vạn của Phật giáo lại có hình thức trùng ...

Untitled.jpg

Nguyễn Xuân Lung

Trên trang Nghiên cứu quốc tế gần đây có bài viết với nội dung: Lịch sử biểu tượng “ chữ thập ngoặc” của Đức quốc xã, những dòng mở đầu, tác giả viết:

Rất nhiều người thắc mắc không hiểu tại sao chữ Vạn của Phật giáo lại có hình thức trùng lặp với “ chữ thập ngoặc”  của Đức quốc xã”.

Trong bài tác giả đã cung cấp thông tin, tư liệu cần thiết cho người đọc về nguồn gốc biểu tượng trên. Đồng thời nội dung bài viết đã đi sâu phân tích những lý do, quan điểm, nguyên nhân mà Đức quốc xã lấy biểu tượng Swstika làm phù hiệu.

Trong đó một số nội dung liên quan đến biểu tượng của Phật giáo sử dụng chữ “Vạn”, tác giả đã đưa vài ý kiến nhỏ như sau:

 “ Gọi là “ chữ”, nhưng thực ra cả hai đều là những biểu tượng. Người Việt gọi hai biểu tượng này bằng hai tên gọi khác nhau, nhưng người Tây phương đều gọi là swastika, vì cả hai có hình thức bề ngoài hoàn toàn giống nhau. Một số tài liệu Phật giáo, thậm chí cả một số Bách khoa toàn thư, đã cố gắng chứng minh rằng hai biểu tượng này có hình dạng khác nhau- khác nhau về chiều quay và khác nhau về tư thế thẳng đứng hoặc nghiêng: Chữ Vạn quay thuận chiều, “chữ thập ngoặc” quay ngược chiều, chữ Vạn thẳng đứng, “chữ thập ngoặc” đổ ngiêng. Nhưng thực tế không đúng như thế: chữ “ Vạn” của Phật giáo sử dụng cả hai chiều quay trái ngược nhau, “ chữ thập ngoặc” của Đức quốc xã sử dụng cả hình đứng lẫn hình nghiêng. Tóm lại về hình thức bề ngoài, hai biểu tượng này( chữ Vạn và Thập ngoặc) hoàn toàn giống nhau”

Chúng ta biết rằng vài trăm năm nay, việc tranh cãi trong giới, ngoài giới về nội dung chữ “ Vạn” trước ngực Phật quay theo chiều trái hay chiều phải không ngã ngũ. Đã có rất nhiều bài viết, từ điển Phật giáo giải thích lập luận bảo vệ chính kiến từ người viết. Bản thân giáo hội Phật giáo cũng không thống nhất được việc này!… Trong các pho tượng Phật tại các chùa cả nước, trong một chùa nhiều khi chữ “Vạn” trên ngực các ngài lúc đặt quay phải, lúc đặt quay trái!…

Đứng trước một hiện tượng lạ, nan giải, với khả năng hạn hẹp, trong bài viết này chúng tôi cố gắng đưa ra một cách nhìn khác. Góp phần thống nhất cách nhận biết mối liên quan mật thiết hữu cơ giữa học thuật văn hóa cổ phương đông, Phật giáo, thiên Chúa giáo với biểu tượng cổ Swstika. Trong đó có phần nhỏ là để trả lời tác giả bài viết trên với những nhận định không đúng về bản chất biểu tượng Swstika ( phần đã trích được gạch dưới dòng).

 (http:// nghiên cứu quốc tế e.org/founs/topic/lịch sử- biểu- tượng- chữ -thập- ngoặc.)

Untitled 2

  1. DẪN NHẬP.

Với : Một góc nhìn khác, từ những căn cứ, lập luận, dữ liệu, phương pháp luận mà chúng tôi đưa ra. Có thể sẽ góp phần làm sáng tỏ, rõ nghĩa hơn nội dung chữ “ Vạn” mà Phật giáo đã và đang sử dụng. Đồng thời góp phần vào việc xác định: Có một chữ “Vạn” hay có hai chữ “Vạn”, một quay phải và một quay trái đang tồn tại song song trong đời sống văn hóa và đạo Phật.

Nhằm hiểu sâu, hiểu rõ mối liên quan từ ngữ mô tả chữ “Vạn”, xin cung cấp một số từ ngữ được định nghĩa và từ tiếng Hán có liên đới trong bài viết.

a, Từ ngữ liên quan.

– Biểu tượng:

 Từ điển tiếng việt từ biểu tượng được định nghĩa như sau:

*   Hình ảnh tượng trưng.

*   Hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn gữi lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt.

( Từ điển tiếng Việt- Viện ngôn ngữ, tr64

–  Chữ Vạn:

Untitled 3.jpg

  • Chữ “ Vạn” : Chữ này trong kinh truyện không có, chi trong kinh nhà phật có thôi. Nhà Phật nói rằng khi Phật giáng sinh trước ngực có hiện ra hình chữ – Vạn- Người sau mới biết chữ ấy. Trong bộ Hoa nghiêm âm nghĩa nói rằng chữ – Vạn- nguyên không có, đến niên hiệu Tràng- Thọ thứ hai đời nhà Chu mới chế ra và âm là Vạn, nghĩa là muôn đức tốt lành đều họp cả ở đấy. lại chữ “ Vạn”, nguyên tiếng Phạm là Srivatsalaksana. Các ngài La- Thập, Huyền- Trang dịch là “Đức”, ngài Bồ- Đề Lưu- Chi dịch là “Vạn”. Ở bên Ấn Độ thì tương truyền là cái tường cát tường, dịch là Đức là nói về công đức, dịch là “Vạn” là nói về phần công đức đầy đủ. Song “Vạn” nguyên là hình tướng chứ không phải chữ, cho nên dịch là cát tường hải- Vân- Tướng mà theo cái hình xoay về bên hữu (phải) là phải hơn. Vì xem như nhiễu Phật thì nhiều về bên hữu, hào quang của Phật ở khoảng lông mày phóng ra cũng xoay về bên hữu, thì biết xoay về bên hữu mới là tường cát tường, có chỗ làm về bên tả là lầm.

( Từ điển Hán Việt-Thiều Chửu, Tr81-82, nxb Thanh niên 2006)

–  Chữ tung:

Untitled 4.jpg

  • Chữ “ tung”: a, Đường dọc, bề dọc từ nam đến bắc, b, Đời chiến quốc( 403-2210 trước TL) có một phái học về lối tung hoành.

Hợp các nước ở phía nam phía bắc lại gọi là TUNG, kết liên các nước đông tây lại gọi là HOÀNH.

( Từ điển Hán Việt – Thiều chửu, tr605-606, nxb Thanh niên 2006).

–  Chữ hoành

Untitled  5.jpg

*  Chữ “ hoành” : Đường ngang, trái với tiếng dọc.

( Từ điển Hán Việt- Thiều Chửu, tr376, nxb Thanh niên 2006).

–  thập:

*  Chữ “ thập”:  Mười, đủ hết.

( Từ điển Hán Việt- Thiều Chửu tr81, nxbTn 2006).  

2. SƠ LƯỢC Ý NGHĨA VÀ NỘI DUNG CÁC TƯ LIỆU LIÊN QUAN.

A,  THÁI CỰC ĐỒ.

Biểu tượng swasitka mà người Tây phương thường gọi có nguồn gốc lâu đời, ít nhất đến nay là trên 3000 năm và là biểu tượng của rất nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Với sự ra đời của Phật giáo, chúng ta có thể thấy việc sử dụng biểu tượng này là sự vay mượn có chủ đích.

Song song với biểu tượng trên, tương ứng thời gian ấy, phương Đông xuất hiện thuyết Âm- Dương, mà biểu tượng của nó cả bản chất và hình thức nằm trong Thái cực đồ. Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta thấy vô vàn biểu tượng Thái cực đồ, lá cờ ( Hàn quốc), tấm gương bát quái, các sản phẩm thuốc đông y, sách, các công trình xây dựng tôn giáo hoặc tâm linh…

Việc sử dụng Thái cực đồ trong xã hội hiện nay là bát nháo, mạnh ai người nấy vẽ, không hề tuân theo đúng bản chất vốn có của nó. Thậm chí một số vị xuất bản sách kinh dịch, tín ngưỡng, tôn giáo vẽ cũng sai!…Nhưng thật đáng tiếc chẳng có một cơ quan văn hóa, hoặc một người nào đó am hiểu trong ngành văn hóa lên tiếng!

Untitled  6.jpg

     B,   NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG, ĐỒ HÌNH VÀ CÁCH HIỂU ĐƠN GIẢN THÁI CỰC ĐỒ.

Dưới đây là hình vẽ biểu tượng Thái cực đồ, xin vắn tắt đưa ra một số nội dung đơn giản sau:

  • Trong hình vẽ là tượng trưng hai khí âm dương nằm trong Thái cực.
  • Người Trung Hoa ở về phía Bắc bán cầu, họ ở phía bắc nhìn lên phía Nam mà đặt phương vị.
  • Đồ hình được nhìn: Dưới cùng là phương Bắc, đối diện là Nam, tay trái đông , tay phải Tây.
  • Khí dương sinh ở phía Bắc ( Trong ngày là giờ Tý ), rồi đi lên và lớn dần ở phía Đông nơi mặt trời mọc, được vẽ màu trắng(thanh). Khí dương nóng nhẹ đi về phương Đông và bốc lên Nam, dương lớn cực thì sinh âm.
  • Âm sinh ở Nam ( trong ngày là giờ Ngọ) rồi đi xuống và lớn dần, âm lạnh và nặng đi về phương Tây và đi xuống Bắc. Âm lớn cực thì sinh dương.
  • Trong đồ có hai chấm nhỏ, bên dương ( trắng) có chấm đen, bên âm (đen) có chấm trắng, biểu hiện : Trong dương có âm – Trong âm có dương.
  • Toàn thể vòng đồ thái cực gồm hai nghi âm và dương ôm ngoàm lấy nhau( Cá âm dương) quân bình và tiếp nối nhau không ngừng.
  • Đường đi của âm và dương đều từ trái qua phải, từ Đông sang Tây, thuận chiều kim đồng hồ. (sự quan sát của các học giả xưa ví dụ: mặt trời, mặt trăng đi từ Đông qua Tây.).

            C, TIÊN THIÊN BÁT QUÁI, HẬU THIÊN BÁT QUÁI, HÀ ĐỒ, LẠC THƯ, CHỮ THẬP, THÁNH GIÁ VÀ CHỮ VẠN.

 a, Tiên thiên bát quái:

Hình vẽ dưới là cách sắp xếp 8 quẻ đơn trong tiên thiên bát quái.

                Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7,  Khôn 8.

Untitled  7.jpg

*   Bốn quẻ bất dịch trong tiên thiên đồ ( đảo ngược nhưng quẻ không thay đổi):

  Đó là 4 quẻ: Càn, khôn, ly, khảm, nối 4 quẻ trên ta có hình sau:

  • Càn khôn hàng dọc.
  • Ly khảm hàng ngang.
  • Điểm giao nhau giữa hai đường gọi là điểm chữ THẬP.
  • Điểm giao nhau, dịch gọi là điểm hư vô. Điểm hư vô (không đổi, bất biến trong vạn biến). Phật giáo gọi là TÂM, đức thứ 16 trong 32 đức của Phật.

Untitled 8.jpg

b,  Hậu thiên bát quái.

Untitled 9.jpg

c,   Hà đồ:

 Untitled 10.jpg

c,   Lạc thư- Bảng ma phương :

Untitled 11.jpg

Untitled 12Untitled 14

–  Nối số:  1 – 9, 3 – 7.  Ta có hình chữ THẬP.(số lẻ)

–  Nối các số: 1-6, 2-7, 3-8, 4-9.

–  Hoàn chỉnh cách nối trên ta thấy xuất hiện chữ VẠN, hay biểu tượng swstika.

–  Chỉ xuất hiện một chiều quay cho biểu tượng từ cách nối con số trên.

 cThánh giá.

Untitled 15.jpg

 Đây là biểu tượng đặc trưng của đạo thiên Chúa giáo. Hình tượng Thánh giá có nghĩa khác với thập giá, thập ác vì ý nghĩa thập giá , thập ác chỉ mang nghĩa là: Giá có hình chữ thập, trên nó không mang ý nghĩa tôn giáo. Thánh giá chỉ có ý nghĩa tôn giáo khi Chúa Giê su chịu chết trên cây thập tự để chuộc tội cho nhân loại.

d,   Chữ thập

  Quan sát cả ba biểu tượng và đồ hình đã đưa ra ở trên bao gồm:

        – Chữ Vạn.

        – Chữ thập, Hà đồ, Lạc thư, đồ hình tiên thiên, hậu thiên của dịch.

        – Thánh giá.

Chúng ta đều nhận thấy hình thức tương tự nhau, chúng đều có điểm giao nhau( gọi thông thường là điểm o) là TÂM.

Untitled 16.jpg

–   Từ tiên thiên bát quái, hậu thiên, Hà đồ, lạc thư, đã trình bày ở trên. Chúng ta nhận thấy mối liên hệ mật thiết từ việc nối các điểm để tạo nên trục TUNG, trục HOÀNH. Mỗi hình vẽ đó xuất hiện điểm giao nhau của trục tung, trục hoành tạo ra. Hay còn gọi là chữ THẬP, chúng có mối liên hệ cùng bản chất với chữ Vạn, thánh giá và biểu tượng swstika.

–   Từ xa xưa đã có một môn học gọi là:“ Tung hoành đồ” của phái đạo gia. Ngày nay trên thực địa còn lại ứng dụng của môn phái này nằm tại HOÀNG THÀNH THĂNG LONG.

3,  PHƯƠNG PHÁP LUẬN.

Theo cách nhìn nhận từ cổ đại, các nước thuộc đông bán cầu được gọi là phương Đông, các nước thuộc tây bán cầu là phương Tây. Các nền văn minh, phong tục tập quán, văn hóa , tín ngưỡng như Trung Hoa cổ, Ấn Độ cổ, Ba Tư cổ thuộc phương Đông. I ran là nước Tây Á, nơi được cho là có nền văn minh cổ nhất thế giới và là nơi xuất xứ của biểu tượng Swastika theo cách gọi của người phương tây còn người phương Đông gọi là chữ “Vạn”.

Nhằm chứng minh chữ “Vạn” nằm trên ngực phật Thích Ca có một biểu tượng duy nhất với một chiều quay của nó.

Việc đầu tiên chúng ta phải xác định phương pháp quan sát. Sau đó từ các tư liệu sơ lược đã đưa ra ở trên, ấn định mối liên quan hữu cơ, để tìm ra chiều quay và biểu tượng tương ứng.

a, Phương pháp quan sát: Có hai cách nhìn chữ Vạn trên ngực Phật.

– Nhìn từ trong ra và nhìn từ ngoài vào. Với hai mẫu A,B trên, từng cách nhìn sẽ có chiều quay ngược nhau. Từ đó phải thống nhất cách quan sát biểu tượng.

–  Thống nhất cách nhìn: Hậu sinh chiêm quan từ phía trước vào biểu tượng.

b,  So sánh:

Từ bảng Ma phương lạc thư, khi nối các con số xuất hiện biểu tượng chữ Vạn với chiều quay ngược lại với chiều quay mà Đức quốc xã lấy làm phù hiệu. Bảng Ma phương không đáp ứng để tạo ra chiều quay ngược lại, khi nối các con số trong bảng.

  • KẾT LUẬN.

Với các tư liệu đã dẫn ra ở trên, chúng tôi thấy rằng mẫu B, biểu tượng chữ Vạn chứa trong nó đầy đủ nội dung Hà đồ, Lạc thư, Thái cực đồ, tiên thiên, hậu thiên bát quái. Biểu tượng chữ Vạn bao trọn những kiến thức cổ xưa của phương Đông. Với quan điểm riêng, chúng tôi nhận thấy rằng:

–  Chỉ có duy nhất một biểu tượng chữ VẠN, hay biểu tượng swstika, với chiều quay như hình dưới đây:

Với một chút nhận thức hạn chế, xin được đóng góp vào việc giải mã biểu tượng cổ ở trên, rất mong người đọc chia sẻ và rộng lượng nếu chúng tôi có sai sót.

                             Ngày 7-8-2018

NP.

0