18/06/2018, 16:23

Xiêm La quốc lộ trình tập lục – Giới thiệu và trích dịch

Xiêm La Quốc lộ trình tập lục, nguyên bản do Trần Kinh Hòa tìm thấy trong kho lưu trữ Châu Bản nhà Nguyễn, năm 1959. Phạm Hoàng Quân Trong quá trình sưu tập các loại tư liệu Trung Quốc liên quan đến lịch sử biển Đông, vào đầu năm 2010 tôi tình cờ bắt gặp một tài liệu Hán Nôm Việt ...

xlq_banthao

Xiêm La Quốc lộ trình tập lục, nguyên bản do Trần Kinh Hòa tìm thấy trong kho lưu trữ Châu Bản nhà Nguyễn, năm 1959.

Phạm Hoàng Quân

Trong quá trình sưu tập các loại tư liệu Trung Quốc liên quan đến lịch sử biển Đông, vào đầu năm 2010 tôi tình cờ bắt gặp một tài liệu Hán Nôm Việt Nam được xuất bản ở Hồng Kông, mang tiêu đề Xiêm La quốc lộ trình tập lục 暹羅國路程集錄 do Tống Phước Ngoạn 宋福玩 và Dương Văn Châu 楊文珠 soạn tập, lời tấu dâng sách đề năm Gia Long cửu niên (1810). Thời điểm ra đời của sách này sau Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806 – Lê Quang Định) 4 năm và trước Gia Định thành thông chí (1820 – Trịnh Hoài Đức) 10 năm, tuy nhiên, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí và Gia Định thành thông chí đến nay đã rất phổ biến và hầu như là tài liệu không thể thiếu trong việc nghiên cứu địa lý lịch sử Nam Bộ, riêng Xiêm La quốc lộ trình tập lục thì ít khi được nhắc đến. Tài liệu khá đặc biệt này bị lẩn khuất bao nhiêu năm qua hình như bởi nhiều nguyên nhân. Hiện tôi đã dịch, chú giải xong tài liệu này (Việt văn) và đang tìm hiểu thêm về những ưu khuyết điểm của nó. Bài viết sau đây giới thiệu chung về bản in ở nước ngoài (nguyên tác Hán-Nôm), về nội dung nguyên tác và một số nhận định của dịch giả về giá trị lịch sử và giá trị tham khảo của Xiêm La quốc lộ trình tập lục, đồng thời cũng giới thiệu một đoạn liên quan đến bờ biển Việt Nam. Nhận thấy đây là tài liệu sớm và hình như là đầu tiên ghi chép khá rõ về hiện trạng bờ biển cùng nhiều hải đảo phía cực nam và tây nam nước ta, nên trong bản dịch và chú giải e có chỗ sơ suất, rất mong bạn đọc chỉ giáo và góp ý giúp cho.

I – Giới thiệu bản in năm 1966 tại Hồng Kông

Xiêm La quốc lộ trình tập lục là tập thứ hai trong “Đông Nam Á sử liệu chuyên san” do Ban Nghiên cứu Đông Nam Á – Phòng Nghiên cứu Tân Á thuộc Hương Cảng Trung Văn Đại Học xuất bản năm 1966 [Collected Records of Itineraries to Siam – Historical Material Series No.2 – Southeas Asia Studies Section – New Asia Research Institute – The Chinese Universty of Hong Kong, Hong Kong, 1966]. Cơ quan này, dưới sự tác động của Giáo sư Trần Kinh Hoà [Ch’en Ching-ho / 陳荆和], đã biên tập xuất bản nhiều tài liệu địa lý và lịch sử có xuất xứ từ Việt Nam hoặc liên quan đến Việt Nam, series về địa lý tập 1 bắt đầu từ năm 1962 với Cấn Trai thi tập của Trịnh Hoài Đức, series về lịch sử tập 1 bắt đầu từ năm 1965 với Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực  1.

Ấn bản Xiêm La quốc lộ trình tập lục gồm ba phần,

phần I : bài khảo cứu bằng Trung văn của Trần Kinh Hoà (24 trang), bài khảo cứu giản lược bằng Anh ngữ (6 trang)

phần II : nội dung Xiêm La quốc lộ trình tập lục của Tống Phước Ngoạn và Dương Văn Châu, được in lại nguyên văn Hán Nôm qua hình thức sắp chữ rời thay cho văn bản gốc chép tay (64 trang) 

phần III :  các phụ lục gồm bảng Đối âm địa danh, chú thích về một số địa danh và địa đồ sơ lược các địa danh tiêu biểu của Trần Kinh Hoà và Mộc Thôn Tông Cát [Kimura Sokichi]  (30 trang). 

Trong bài khảo cứu (phần I) ông Trần Kinh Hoà thuật lại rằng vào mùa hè năm 1959, trong lúc xắp xếp phân loại thư mụcChâu bản triều Nguyễn tại Huế, ông bắt gặp xấp tài liệu có tiêu đề Xiêm La quốc lộ trình tập lục nằm lẫn trong nhóm hồ sơ lưu trữ. Khi đối chiếu sử liệu nhà Nguyễn qua Đại Nam Thực lục Chánh biên đệ nhất kỷ, Đại Nam liệt truyện Sơ tập và sử liệu Xiêm qua Biên niên sử hai đời vua Rama I – Rama II [do Đàm Long Thân vương / Prince Damrong biên soạn] 2 xác định nguồn gốc tài liệu này là chắc chắn. Kết quả nghiên cứu của ông Trần Kinh Hoà cho thấy ‘Lời tấu’ của Tống Phước Ngoạn và Dương Văn Châu đề năm Gia Long thứ chín (1810) đặt ở đầu tập tài liệu Xiêm La quốc lộ trình tập lục trùng khớp với những ghi chép trong sử Việt và sử Xiêm. Căn cứ theo ‘Lời tấu’ thì tập tài liệu này vốn là văn bản được kèm theo bức địa đồ Xiêm La cũng do sứ đoàn thực hiện, và khi về dâng lên cùng lúc, nhưng ông Trần nói rằng, ông không tìm thấy bức địa đồ.

Bài khảo cứu trích lục 6 đoạn trong Đại Nam Thực lục Chánh biên đệ nhất kỷ, 1 đoạn trong Đại Nam liệt truyện Sơ tập và 3 đoạn trong Biên niên sử hai đời vua Rama I – Rama II [dịch sang Trung văn từ Thái ngữ], những đoạn có liên quan trực tiếp đến xuất xứ Xiêm La quốc lộ trình tập lục tiêu biểu như sau :

Tháng 11, năm Kỷ Tỵ, Gia Long thứ tám (1809) “ Phật vương mới của nước Xiêm La sai bề tôi bọn Phi Nhã Sĩ Xú Ly Giá Ba Ha đến dâng sản vật địa phương và cáo tang Phật vương trước… Sai Tống Phước Ngoạn, Phạm Cảnh Giảng, Dương Văn Châu, Võ Doãn Thiếp sung làm Chánh phó sứ hai sứ bộ sang Xiêm ” (ĐNTL – Chánh biên đệ nhất kỷ, quyển 39)

Tháng 5, năm Canh Ngọ, Gia Long thứ chín (1810) “ Bọn Tống Phước Ngoạn và Phạm Cảnh Giảng từ nước Xiêm trở về, dâng địa đồ nước Xiêm ” (ĐNTL – Chánh biên đệ nhất kỷ, quyển 40).

“ Năm Gia Long thứ chín, Tống Phước Ngoạn đi sứ Xiêm La trở về, dâng địa đồ nước Xiêm ” (Đại Nam liệt truyện Sơ tập – quyển 14, Truyện Tống Phước Ngoạn) 3.

“ Tiểu lịch năm 1172, Phật lịch năm 2353, năm Ngọ, Hoàng Thượng lên ngôi năm thứ 2, tháng 5 [Tây lịch 4/4 đến 2/5 năm 1810]. Sứ đoàn do Quốc vương Việt Nam Gia Long sai đến đã tới thành Bangkok. Đoàn sứ phân hai nhóm, nhóm thứ nhất đến điếu tang Quốc vương trước 4, mang theo lễ phúng gồm 100 tấm lụa ‘kwian kho’, 100 tấm vải trắng ‘tang kia’, 5 hộp sáp ong, 5 hộp đường cát, 10 hộp kẹo dừa, 10 hộp đường phèn 5, tất cả các món đều đặt trước linh vị. Nhóm sứ đoàn thứ hai ra mắt Tân Vương 6, trình quốc thư, chúc mừng Hoàng thượng lên ngôi, cùng dâng lễ vật mừng tặng gồm 100 tấm lụa, 100 tấm lụa hồng, 100 tấm lụa nhiều màu, 100 tấm vải trắng, 3,3 kg kỳ nam hương, 5 kg nhục quế 7. Quốc vương tiếp quốc thư và tiếp đãi sứ đoàn long trọng y theo thông lệ đã có trước đây. Quốc vương đã phái thuyền ngự đến Samut Prakhan 8 để tiếp nhận quốc thư, riêng phái 8 chiếc thuyền rồng để đón sứ đoàn và 8 chiếc thuyền quân lễ theo hộ tống. Về đến Kinh thành, đội nhạc lễ cung đình hướng về phía sứ đoàn Việt Nam cử nhạc nghênh tiếp rồi đưa đến nghỉ ở nhà khách. ..” (Biên niên sử hai đời vua Rama I – Rama II ) 9

Trong một đoạn khác, Biên niên sử hai đời vua Rama I – Rama II nói rõ hơn về nội dung quốc thư của vua Gia Long gởi Quốc vương Xiêm, trong đó có nội dung yêu cầu vua Rama II triệu hồi các nhóm quan quân từ thời vua P’ya Taksin vẫn còn đóng rải rác ở đất Sài Mạt [Hà Tiên], để phía Việt Nam tiếp quản trọn vẹn vùng đất này, vua Rama II đã chấp thuận yêu cầu ấy bằng văn thư hồi đáp gởi đến vua Gia Long, giao cho sứ đoàn mang về.

Nhìn chung, bài khảo cứu của ông Trần Kinh Hoà tập trung vào ba ý chính.

1. Chứng minh tập tài liệu mang tiêu đề Xiêm La quốc lộ trình tập lục là một tài liệu do sứ bộ Việt Nam thực hiện, đúng như thời điểm được đề trên Lời tấu. Xác định tài liệu này là bản thuyết minh cho bức địa đồ Xiêm La cũng do sứ đoàn thực hiện cùng trong thời gian đi sứ, phù hợp với Lời tấu “ vẽ thành một tập địa đồ và chép thành một tập lộ trình đường thuỷ đường bộ, nay về xin dâng lên.”

2. Khái quát bối cảnh chính trị đương thời của Việt Nam và Xiêm La, các quan hệ ngoại giao hữu hảo và cũng ngầm đề cập vấn đề tác động nhằm tăng cường ảnh hưởng của mỗi nước đối với Cao Miên trong khoảng thời gian tại vị của vua Gia Long và vua Rama I, Rama II.

3. Tóm lược nội dung chính văn Xiêm La quốc lộ trình tập lục, nêu vài đặc điểm của tập tài liệu, đánh giá đây là sử liệu quý về lĩnh vực giao thông đường bộ đường thuỷ thuộc phạm vi khu vực.

Phần III của bản in, tức các phụ lục do Trần Kinh Hoà và học giả Nhật Bản Kimura Sokichi thực hiện, tập trung vào việc đối chiếu các địa danh mà văn bản gốc ký âm bằng chữ Nôm với ngôn ngữ hiện nay, các địa danh thuộc lưu vực sông Hậu và vùng biển Cà Mau, Kiên Giang được đối chiếu với tiếng Việt với sự trợ giúp của Giáo sư Bửu Cầm (Viện Khảo cổ, Sài Gòn) 10, các địa danh trên đất Cao Miên, Xiêm La, Đồ Bà được đối chiếu với tiếng Khmer, tiếng Thái, tiếng Mã Lai. Các bảng đối chiếu này đã tạo ít thuận lợi trong việc dịch tài liệu sang tiếng Việt, tuy nhiên có nhiều địa danh đối chiếu không thích hợp và nhiều địa danh nằm ở dạng tồn nghi, tổng cộng các địa danh đối chiếu sai, đánh dấu tồn nghi và bỏ trống (không đối chiếu) ước chừng phân nửa tổng số.

Như chúng ta đã biết qua các công trình khảo cứu và hiệu khám các sách An Nam chí lược, Hải ngoại kỷ sự,Đại Việt sử ký toàn thư… 11 của Giáo sư Trần Kinh Hoà, các công trình này cho thấy ông là một học giả uyên bác, nhiều công trình khác cho thấy ông rất quan tâm và đã góp phần đáng kể nhằm phát triển học thuật trong lĩnh vực nghiên cứu di sản Hán Nôm Việt Nam, đặc biệt là mảng sách sử địa. Về uy tín cá nhân, ông Trần từng giảng dạy tại Viện Đại học Huế, năm 1959, khi Viện Yên Kinh Đại học Harvard tài trợ chương trình Phiên dịch sử liệu do Viện Đại học Huế tổ chức, ông Trần được cử làm Tổng thư ký, ông cũng kiêm nhiệm chủ trì việc thống kêChâu bản triều Nguyễn (từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1959).

Về văn bản Xiêm La quốc lộ trình tập lục, theo ông Trần mô tả, văn bản này được chép theo lối chữ khải (chân), rõ ràng và chữ viết rất đẹp [tiếc là nó không được  minh hoạ một vài trang ảnh chụp], bản gốc chép tay mà ông Trần căn cứ để sắp chữ để thực hiện bản in hiện nay tôi chưa tìm được, về việc này, có thể ông Trần cầm bản gốc sang Hongkong để khảo cứu và làm căn cứ sắp chữ cho tiện việc xuất bản, cũng có thể ông Trần chỉ sao chụp để làm việc, rất tiếc là trong bài giới thiệu ở đầu bản in, ông Trần không nói rõ việc này. Trong thời gian chờ đợi có được bản gốc để bổ chính, trước mắt, bản dịch tiếng Việt và nghiên cứu dưới đây đều dựa trên văn bản in lại năm 1966 đã giới thiệu như trên.

II. Nội dung tài liệu Xiêm La quốc lộ trình tập lục

Toàn văn Xiêm La quốc lộ trình tập lục (sau đây viết là Tập lục) ước khoảng 2 vạn 8 ngàn chữ 12, gồm Lời tấuvà 6 phần chép về 6 tuyến hành trình, tóm tắt như sau :

1/ Lục hành thượng lộ [đường bộ mạn trên]

Từ doanh Nam Vang (Phnom Penh) khởi hành, đến Bát Tầm Bôn (Battambang), đến thành Vọng Các (Bangkok), đến Thượng Thành (Ayutthaya), đến các nơi giáp giới Phù Ma (Burma/ Myanma), đến bờ tây bán đảo Mã Lai qua đảo Phổ Cát (Phuket), qua địa giới Đồ Bà (Jawa-Malaysia) xuống Cù Lao Cau (Penang) v.v. Các tuyến đường bộ này ghi chép hơn 30 địa danh.

2/ Lục hành hạ lộ [đường bộ mạn dưới]

Từ bờ biển phía đông Xiêm La, nơi hòn Dương Khảm (Ko Chang) khởi hành, đến thành Chân Bôn (Chantaburi), đến các nơi phía đông nam ven bờ vịnh Xiêm La. Ghi chép 14 địa danh.

3/ Nhai hải thuỷ trình [đường thuỷ ven biển]

Từ cửa Ba Thắc (Bassac) 13 sông Hậu khởi hành, theo bờ biển qua Hòn Khoai, qua Rạch Giá, Hà Tiên, Kompong Som, ven theo bờ biển Xiêm La đến Long Nha (sau là Singapore), qua bờ tây bán đảo Mã Lai, đến Penang, Phuket v.v. Ghi chép 195 địa danh (gồm cửa biển, thành trấn ven biển, vịnh, đảo…), trong đó hơn 40 địa danh thuộc Việt Nam.

4/ Dương hải thuỷ trình [đường thuỷ ngoài khơi]

Từ Mũi Cà Mau nơi Hòn Khoai (Poulo Obi) khởi hành, đến Phú Quốc, đến Hòn Thiết Miệt (Ko Samet), đến Hòn Xỉ Khống (Ko Si Chang), đến cửa biển Bắc Nam (Mae Chaophraya ), đến Sâm Lô Đột (Khao Sam Roi Yot), đến Láng Son (Mae Nam Langsuan), Lục Khôn (Nakhon Sithamamarat), đến Phổ Cát (Phuket) v.v. Ghi chép 25 địa danh.

5/ Dương hải tung hoành chư sơn thuỷ trình [đường thuỷ ngoài khơi ngang dọc các đảo]

(phần này ngắn, dẫn toàn văn)

Từ Hòn Khoai, theo hướng Khôn [tây nam] băng qua biển khơi 4 ngày đêm đến Cù lao Liêu [Ko Laut] 14. Từ Cổ Ong [Kas Rong] theo hướng tây băng qua biển khơi, xuôi theo gió đông, cánh buồm quay hướng bắc, thuỷ trình 2 ngày đêm đến cửa biển Xây Gia [Chaiya]. Từ khảm Thốt Nốt [Sattahip] theo hướng tây băng qua biển khơi, xuôi theo gió đông, cánh buồm quay hướng bắc, thuỷ trình 1 ngày đến Sâm Lô Đột [Khao Sam Roi Yot]. Từ Ban Kha Sỏi [Bang Phaso – thuộc Chonburi] theo hướng tây băng qua biển khơi, xuôi theo gió đông, cánh buồm quay hướng bắc, thuỷ trình 2 ngày đến cửa biển Me Tôn [Mae Nam Mae Klong]

Từ Phú Quốc theo hướng Thân [tây tây nam] băng qua biển khơi, xuôi theo gió đông, cánh buồm quay hướng bắc, thuỷ trình 1 ngày đến hòn Thổ Châu. Từ Cổ Ong theo hướng Thân băng qua biển khơi, xuôi theo gió đông, cánh buồm quay hướng bắc, thuỷ trình nửa ngày đến Hòn Thăng [Kas Tang]. Từ hòn Thổ Châu theo hướng Nhâm [cận chánh bắc] băng qua biển khơi, xuôi theo gió đông, thuỷ trình 2 ngày đến Hòn Thăng.

Từ hòn Thổ Châu theo hướng nam băng qua biển khơi, xuôi theo gió đông, thuỷ trình 1 ngày đến Hòn Bà. Từ Hòn Thăng theo hướng nam băng qua biển khơi, xuôi theo gió đông, thuỷ trình 1 canh đến Hòn Bà. 15

6/ Hải môn thuỷ trình [đường thuỷ theo cửa biển]

Toàn văn Lời tấu (tạm dịch)

Chánh sứ Khâm sai thuộc nội Cai cơ, thần, Tống Phước Ngoạn,

Phó sứ Thị nội Tham luận, thần, Dương Văn Châu,

Chúng thần dập đầu cúi đầu trăm lạy kính cẩn tâu

Vâng mệnh nhận sắc sai đi sứ nước Xiêm, tìm hiểu những điều thấy biết về núi sông đường sá, gặp được Đạo nhân tên Sài [thầy] Thuỵ 16 thuyết minh hướng dẫn các đường thuỷ đường bộ từ cửa biển Ba Thắc đến mương Xa Láng 17, từ núi non đầu nguồn cho đến biển cả ngoài khơi, tổng quát cặn kẽ. Chúng thần đem những điều ấy hỏi lại Cai đội Thạnh, Thông ngôn Biển, và [người ở] sở Phú Quốc là Lái An, Lái Tâm 18, cùng các lưu dân kiều ngụ [ở Xiêm] 19, qua lời những người này thì thấy rằng phần lớn giống nhau, sai biệt rất ít. Chúng thần bèn tổng hợp chọn lựa các thuyết làm thành toát yếu, vụng về vẽ thành một tập địa đồ và chép thành một tập lộ trình đường thuỷ đường bộ, nay về xin dâng lên. 

Nhưng chúng thần ngu muội kém cỏi, lo lắng hồi hộp, không kìm được run sợ, vạn lần mong Hoàng Thượng sáng suốt.

Cẩn thận tâu rõ, ngày mùng mười tháng bảy năm Gia Long thứ chín.

Hầu hết các lộ trình được ghi chép dựa trên các tiêu chí : xác định khởi điểm (mô tả địa lý tự nhiên, nhân văn) – phương hướng đến – tình trạng đường sá, quang cảnh hai bên đường (hoặc sông ngòi, bờ biển) – thời gian hành trình – các ngã rẽ (thông tin gần giống như đường chính) – điểm đến.

Phần đường thuỷ chiếm 9/10 nội dung Tập lục. Về địa lý tự nhiên, chép sơ lược địa hình cảnh quan, động thực vật, khoáng sản, chép kỹ về chiều rộng, độ sâu các cửa biển. Về địa lý nhân văn, chép sơ lược về các di tích, kiến trúc, cư dân, sinh hoạt đời sống, chép rõ tình hình binh bị (các đồn ải biên phòng, quân số). Hầu hết địa danh trên đất Việt Nam viết bằng chữ Nôm, địa danh ở Cao Miên và Xiêm La phiêm âm Nôm hoặc chuyển nghĩa Nôm, danh vật dùng lẫn Hán và Nôm. 

Về tác giả Tập lục

Tống Phước Ngoạn người gốc Quý huyện, tỉnh Thanh Hoa [Tống Sơn, Thanh Hoá], là “ công thần Vọng Các ”, trong nhóm các tướng theo Nguyễn Ánh sang Xiêm lần thứ hai sau khi viện binh Xiêm bại trận. Theo đến Vọng Các tỵ nạn lần này (tháng 3 năm 1785) gồm hơn 200  quan binh, đi trên 5 thuyền. Quan văn võ cao cấp gồm 1 Thiếu phó, 1 Chưởng cơ, 1 Lưu thủ, 10 Cai cơ. Tống Phước Ngoạn là 1 trong 10 cai cơ, ngang bậc Nguyễn Văn Thoại, cao hơn Nguyễn Văn Thành (Cai đội) và Lê Văn Duyệt (Thuộc nội cai đội). Tháng 7 năm 1787, theo Nguyễn Ánh trở về nước, sau khi khôi phục thành Gia Định được phong Trung quân doanh hữu trực vệ uý, lại thăng Trưởng chi chi chánh tiền, chi hữu thuận doanh Tả thuỷ, năm 1799, thăng làm Lưu thủ 20, năm Tân Dậu (1801) thăng Chưởng cơ 21. Tháng 11 năm 1809, đi sứ nước Xiêm, khoảng đầu tháng 7 năm 1810 trở về, dâng địa đồ nước Xiêm. Tháng 3 năm 1811, thăng Khâm sai Chưởng cơ, lại cử làm Chánh sứ đi sứ sang Xiêm, mang quốc thư bàn với vua Xiêm về việc nội bộ Chân Lạp. Năm 1814, phụ trách ngành giao thông vận tải. Năm 1816, có tội bị cách chức. (tóm lược theo Đại Nam thực lục và Đại Nam liệt truyện). Biên niên sử Việt Nam in ở Siam (năm 1900 và 1965) có lẽ nhầm về âm đọc nên tên Tống Phước Ngoạn được viết là Tống Phước Vàng 22.

Tiểu sử Dương Văn Châu nhất thời chưa sưu tra đầy đủ, Đại Nam liệt truyện không thấy chép, Gia Định thành thông chí – Thành trì chí chép Dương Văn Châu với tước Châu Quang Hầu khi làm Tham hiệp trấn Hà Tiên năm 1810. Đại Nam thực lục chép về Châu hai đoạn, một là việc được cử làm Phó sứ cùng đi với Tống Phước Ngoạn, lúc này đương chức Tham luận thị nội ; hai là, sau khi đi sứ về Dương Văn Châu được cất làm Tham hiệp Hà Tiên cùng với Hiệp trấn Nguyễn Đức Hội trợ lý cho Trấn thủ Nguyễn Văn Thiện. Khi Trấn thủ chết, Châu và Hội vốn có hiềm khích từ trước bộc lộ xung đột, dẫn bè phái đánh nhau làm náo động cả Trấn, cả hai bị bắt giải về Huế, Châu bị xử trảm quyết, Hội bị xử trảm giam hậu.

III. Vài nhận định về Xiêm La quốc lộ trình tập lục

Trong kho tàng di sản Hán Nôm Việt Nam, loại tài liệu như Xiêm La quốc lộ trình tập lục là loại đặc biệt hiếm thấy. Về tính chất và mục đích ghi chép, Tập lục này khác hẳn Hải trình chí lược được viết bởi Phan Huy Chú vào 23 năm sau.

Điều cần xác định trước tiên là Tập lục này không phải là quyển sách du ký mà là tập tư liệu đính kèm theo tập địa đồ, nên nội dung không gần với văn chương mà gần với khoa học. Trang sử quân sự triều Nguyễn thời Gia Long sẽ có thêm tư liệu về công tác tình báo quốc ngoại qua các ghi chép trong Tập lục này chăng. Đằng sau hoạt động tìm hiểu các đầu mối giao thông và thực lực binh bị của một nước khác, người ta có thể phân tích tầm nhìn chiến lược của vua Gia Long khi đang kẹt ở tình thế phải cảnh giác trong nguy cơ tiềm ẩn có thể đối đầu với một nước đã có ơn với mình. Cuộc tiến công Hà Tiên và An Giang năm 1833 với lực lượng hùng hậu của quân Xiêm cho thấy mối lo của Gia Long không phải là điều sợ bò trắng răng trời đổ sập.

Có thể lùi lại vài mươi năm về niên đại đánh dấu thành tựu của khoa kỹ thuật vẽ địa đồ nếu từ trước đến nay chúng ta lấy niên điểm Đại Nam nhất thống toàn đồ – 1838 làm dấu mốc. Địa đồ nước Xiêm dù không còn nhưng qua hơn 300 địa danh và sự mô tả chi tiết về khoảng cách trên một địa bàn rộng lớn được ghi chép trong tập lục cho thấy quy mô của tập địa đồ này. Một mô tả địa lý bằng văn tự thật sự có giá trị khi căn cứ vào nó người ta có thể phác dạng hiện trạng địa lý một cách tương đối, ghi chép trong Tập lục còn lại có thể đạt được điều này. Tống Phước Ngoạn ở Xiêm hơn hai năm, gần 20 năm chiến trận chủ yếu trên mặt trận đường thuỷ, gặp một đạo sĩ giang hồ hành tung bí hiểm và các tay lái tàu sành sỏi vân vân e không phải là sự tình cờ và cũng nhờ vậy mà người ta có thể hiểu và không bất ngờ về chất lượng của Tập lục này.

Tập lục này còn mang vóc dáng Thuỷ kinh chú 23, trên một địa bàn hẹp hơn. Những cửa sông bề ngang bao nhiêu tầm bề sâu mấy thước cách nay 200 năm của hàng loạt con sông từ tây Nam Bộ Việt Nam, ven biển quanh co chạy dài cho đến khắp bán đảo Mã Lai là sử liệu thuộc phần tự nhiên và môi trường, và đây có lẽ là các ghi chép giàu tính thực tế mang giá trị tham khảo lâu dài đáng kể. Những dòng sông ở vùng đất mới tây Nam Bộ từ sông Hậu đến mũi Cà Mau luôn bị tác động bởi thuỷ triều từ biển và phù sa từ nguồn, cồn bãi trên sông và nơi cửa biển cứ vài mươi năm lại đổi khác. Năm 1810, Tập lục chép Ba Thắc là cửa biển chính của sông Hậu “ Cửa biển rộng khoảng 2 dặm, nước sâu 8 thước ” 24, cửa Tranh Đề (Trần Đề / Trấn Di) không thấy nói đến, Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí (1872) chép “ Cửa biển Trấn Di bề ngang 1.173 trượng, nước lớn sâu 10 thước, nước ròng xuống 4 thước 25. Trong cửa biển có nhiều chầm bùn cồn cát nổi ngầm, dời đổi không chừng khó bề ghi nhận ”26, Đại Nam nhất thống chí (1875) chép về các sông lớn của nước ta khi nói đến sông Hậu chỉ nêu có 2 cửa Định An và Trấn Di 27, …và cách nay khoảng 40 năm cửa Ba Thắc mất hẳn, tức sông Cửu Long chỉ còn tám cửa.

Tập lục chép địa danh trên đất Việt Nam toàn bằng tục danh theo dạng chữ Nôm, nhiều chữ lạ, ngoài việc thêm tư liệu cho các nghiên cứu về ngôn ngữ, các dạng chữ gốc địa danh còn là nguồn tham khảo hay cho ngành địa danh học, giúp xác định nhiều địa danh gốc Việt hay gốc Khmer, Mã Lai khá phức tạp ở Nam Bộ. Tỉ như, quaTập lục này có thể biết thêm một tên khác của đảo Phú Quốc là Hòn Độc [(石凡) (虫蜀)] rõ ràng qua tự dạng chữ Nôm, địa danh Rạch Giá 28 được chép thêm mấy chữ “ nơi này có nhiều cây giá ”, những ghi chép dạng này là yếu tố giúp xác định từ nguyên địa danh đáng tin cậy, chữ “ giá mộc 架木 ”trong văn bản cho biết đây là loại cây thân gỗ lâu năm, khỏi phải lẫn lộn với giá treo đồ hay giá mầm đậu đính kèm trong tô hủ tíu hoặc động thái nhấp nhấp muốn đánh nhau mà Huình-Tịnh Paulus Của cho cùng nghĩa trong Đại Nam quấc âm tự vị. Địa danh ở Xiêm La và các nơi dùng hai hình thức ghi nhận, hoặc ký âm như Langsuan thì viết là Láng Son ; hoặc chuyển nghĩa như Penang / Pinang (tiếng Mã Lai nghĩa là cây cau) thì viết là Cù Lao Cau, trường hợp này cũng đặc biệt vì các tác giả Tập lục đã không dùng cách chuyển nghĩa đã có trước của người Trung Hoa đối với hòn đảo này là Tân Lang Dự 29. Nhiều tên động thực vật, đồ vật dùng thẳng chữ Nôm, như để chỉ dầu ôliu thì viết là ‘dầu trám’ mà không viết ‘cảm lãm du’, viết ‘tàu, ghe’ mà không viết ‘thuyền, đĩnh’ và để chỉ tàu lớn của phương Tây thì phiên thẳng từ tiếng Mã Lai gốc Tamil ‘kapal’ để viết là ‘cấp bản’ mà không viết ‘hạm’. Hình như các tác giảTập lục cố ý hạn chế hết mức trong việc dùng chữ Hán đối với các loại cây, con và đồ đạc.

Ông Trần Kinh Hoà đã thấy ngay rằng Tập lục này là tư liệu rất quý về lịch sử giao thông trong khu vực, điều này ai cũng phải thừa nhận. Tôi bổ sung thêm nhận định này, nếu đem so với một ghi chép cùng tính chất là phần “Nam Dương ký ” trong Hải quốc văn kiến lục (1730) của Trần Luân Quýnh thì Tập lục này vượt xa mấy lần.Nam Dương ký chép theo lời thuật lại của các thương nhân nên đại khái sơ lược, tuy đề cập đến nhiều nước nhưng không nơi nào được mô tả địa lý cụ thể, phương hướng căn cứ trên la bàn chia 12 cung [tức mỗi cung ứng với góc 30 độ], lộ trình không có tuyến đường ngắn 30. Tập lục được những người trực tiếp điều khiển phương tiện hải hành ghi chép nên khá chính xác, cách định phương hướng cho thấy sự áp dụng la bàn chia 24 cung [tức mỗi cung ứng với góc 15 độ], phần chép các tuyến đường dài băng ngang/dọc biển khơi và các tuyến đường ngắn từ cửa sông/cảng này đến nơi khác lân cận, có nhiều đoạn đường ngắn chỉ đi mất nửa canh [~17 km]. So sánh này không nhằm ý nói trình độ thiên văn học hay la bàn của Việt Nam khá hơn Trung Hoa, mà chỉ nói đến việc ứng dụng la bàn khác nhau, việc diễn tả sơ sài hay tường tế tuỳ thuộc vào mức độ tiếp cận thực địa của những người ghi nhận. Một ghi chép khác của Việt Nam trước Tập lục bốn năm cũng sơ lược đáng nói,Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (đd.) khi viết về bên ngoài đã bộc lộ sự lơ mơ chiếu lệ “…phía nam cách Hà Tiên rất xa có một hòn đảo lớn, gọi là hòn Phú Quốc, trên đó có dân cư, từ đảo Phú Quốc theo hướng Tây băng qua biển thì đến thành Vọng Các ” 31, đoạn văn này không cho biết từ đất liền ra Phú Quốc bao xa và đã định hướng từ Phú Quốc đến Vọng Các không chính xác, đúng ra phải theo hướng tây bắc [sai lệch đến 45 độ], cũng không nói đi bao lâu thì tới.

Từ năm 1810, tài liệu Xiêm La quốc lộ trình tập lục và địa đồ Xiêm La được dâng lên rồi cất vào kho lưu trữ hay một văn phòng đặc biệt nào, có thể vì lý do tham khảo hạn chế mà nó ít được biết tới. Tài liệu này đáng ra phải được các sử quan và đại thần nhà Nguyễn tham khảo vào việc biên soạn các vấn đề liên quan, ít nhất phải thấy bóng dáng của nó trong các lần :

1/ Năm Tự Đức thứ 5 (1852), Cơ Mật Viện phụng soạn Cao Miên Xiêm La sự tích 32 , đây không phải là tập truyện cổ tích như cách nói ngày nay, mà là tập sách tập hợp sự kiện theo lối biên niên từ lúc khởi đầu các mối quan hệ thời các chúa Nguyễn cho đến hết triều Thiệu Trị (1847).

2/ Năm Tự Đức thứ 29 (1876) sung các chức Khảo duyệt bộ sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nguyễn Thông là một, sở dĩ phải nhắc đến riêng cá nhân Nguyễn Thông vì sau công tác đọc duyệt bộ sử lớn này ông đã thu hoạch kiến thức nhân dịp được đọc nhiều sử liệu để viết riêng bộ Việt sử thông giám cương mục khảo lược 7 quyển 33. Sách này chỉ dành 2 quyển để nói chuyện chuyên môn công vụ, 1 quyển viết về lịch sử địa lý An Nam và 4 quyển về lịch sử địa lý mấy nước gần. Trọn quyển 6 nói về nước Xiêm La, không thấy Nguyễn Thông trích dẫn hoặc nhắc đến Xiêm La quốc lộ trình tập lục, mặc dù đã trích lục đến 13 nguồn tài liệu Trung Hoa mà trong đó nhiều sách viết sau năm 1810 và không xác thực như ghi chép của Tống Phước Ngoạn.

3/ Đại Nam liệt truyện Chính biên sơ tập 34 hoàn thành năm 1889, dành 3 quyển để viết về ngoại quốc, phần viết về Xiêm La khá nhiều chi tiết nhưng vẫn không thấy bóng dáng Tập lục và cuộc đi sứ của Tống Phước Ngoạn.

Các sự kiện nêu trên đây vốn có quan hệ mật thiết với Tập lục đang xét, những lý do ẩn khuất nào đó hay chỉ vô tình bị bỏ quên mãi đến năm 1959.  Sau khi ấn bản Xiêm La quốc lộ trình tập lục ra đời, nó cũng rất ít khi được nhắc đến, lần đầu tôi thấy tên sách này trong phần “Thư mục tham khảo” của ông Tạ Trọng Hiệp đặt ở cuối sách / bản dịch Hải trình chí lược in tại Pháp năm 1994 35, trong bảng thư mục này nó được ghi “ Chen Ching-ho éd., 1966, Xiêm-La quốc lộ-trình tập-lục de Tống Phúc (Phước) Ngoạn & Dương Văn Châu, Xianggang, Zhongwen daxue, Xinyayanjiusuo ”. Thư mục ghi vậy, nhưng khi đọc hết cả các chú thích trong bản dịch Hải trình chí lược tôi không thấy có dấu hiệu tham khảo, không nhắc đến hoặc trích dẫn câu nào từ Tập lục này. Hình như ông Tạ Trọng Hiệp đã không mấy quan tâm hoặc chưa kịp lưu ý đến nó. Xiêm-La quốc lộ-trình tập-lục lại được nhà sử học trứ danh là Tiến sĩ Geoff Wade lưu ý,  bài khảo cứu “ A maritime route in the Vietnamese text Xiêm-la-quốc lộ-trình tập-lục (1810) ” của ông đã in trong một tuyển tập do Giáo sư Nguyên Thế Anh và Yoshiaki Ishizawa biên tập xuất bản vào năm 1999 36, và năm 2003 Wade lại đề cập đến nó trong một công trình nghiên cứu tổng quan về các nghiên cứu có hệ thống của phương Tây đối với lịch sử hàng hải vùng Đông Á 37. Qua các nghiên cứu và nhận định của Wade, Xiêm La quốc lộ trình tập lục được học giới bên ngoài biết đến như là một ghi chép mang tính chỉ nam hàng hải trong phạm vi mà nó đề cập.

Tiếp đến, thấy Tập lục này được tham khảo trong công trình nghiên cứu “ Tương quan Xiêm – Việt cuối thế kỷ 18” của Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính (Hoa Kỳ) 38. Gần đây, Giáo sư Nguyễn Thế Anh cũng đề cập đếnXiêm-La quốc lộ-trình tập-lục trong bài viết bằng Anh ngữ “ Thai-Vietnamese Relations in the First Half of the Nineteenth Century as seen through Vietnamese Official Documents ”, bài viết này in chung trong một tuyển tập nghiên cứu do Volker Grabowsky biên tập, xuất bản tại Thailand (2011), với đoạn văn liên quan : “ And yet, in 1810 a memorial entitled Xiêm-La quốc lộ-trình tập-lục (Collected Routes to the Country of Siam) and containing detailed descriptions of land and sea routes to Siam had been submitted to the Vietnamese Emperor (see Wade 1999) ” 39.

Từ khi xuất bản, Xiêm-La quốc lộ-trình tập-lục được vài học giả ngoại quốc và học giả người Việt hải ngoại tham khảo nghiên cứu, trong khi ở Việt Nam hình như chưa được nhắc đến, điều này khiến chúng ta có thể nói rằng, tư liệu Hán Nôm về địa lý lịch sử khá đặc biệt này rơi vào tình trạng bị lãng quên tại nơi xuất xứ của nó suốt 200 năm qua 40.

Gia Định, cuối tháng 12 năm 2011

Phạm Hoàng Quân

Trích dịch :  Đoạn trích dưới đây là đoạn đầu Phần 3

Nhai hải thuỷ trình[đường thuỷ ven biển]

Quy ước khi đọc bản dịch

* Khoảng cách : Canh ~ 60 dặm ; Dặm (Thanh/ TQ) ~ 576 m ; Tầm ~ 8 thước ; Thước ~ 32 cm [tầm và thước chỉ phỏng định, chưa ổn]* Phương hướng : trong nguyên văn Tập lục, cách định/chỉ hướng phần nhiều ghi theo quy ước của hệ đồ hình la kinh, dùng đơn tự gồm 12 địa chi, 8 thiên can (bỏ 2 can Mậu & Kỷ), và 4 quái (Càn Tốn Khôn Cấn), cộng 24 chữ để biểu thị cho 24 hướng. So với La bàn hệ nguyên vòng [Bắc : 000 độ tăng theo chiều kim đồng hồ đến 360 độ] mỗi chữ (chỉ hướng) có khoảng lệch góc 15 độ. Bản dịch giữ nguyên văn để dễ kiểm tra và cho đối chiếu La bàn chuẩn quốc tế theo Hệ 1/4 vòng, hệ này chia nguyên vòng thành 4 phần bằng các đường N-S và E-W, N và S được lấy làm điểm gốc, giới hạn góc chỉ tính từ điểm N hoặc S về hai phía E, W, giới hạn từ 0 đến 90 độ. Phần quy chiếu đặt trong ngoặc vuông, thí dụ : hướng Thân [S 60 W], S và W tạo góc 90 độ, S tiến 60 độ đến W, trường hợp này cho thấy hướng Thân ứng với một điểm chệch khỏi Tây Nam (S 45 W) mà chưa đến Tây Tây Nam (S 67.5 W). Bốn góc tính gồm : SW, SE, NW, NE.* Địa danh : nhằm lưu giữ mặt chữ, sẽ đưa tất cả tự dạng gốc (hầu hết là chữ Nôm) xuống phần chú thích.Đối với các tên riêng chữ Nôm (địa danh và vật danh), có nhiều chữ lạ mà các bộ gõ (tôi) đang dùng không có, các chữ này sẽ được ráp từ các bộ Thủ chữ Hán, theo cách : đặt các bộ thủ gần nhau trong ngoặc đơn để chỉ một chữ Nôm, ráp phải trái : không dấu ( ), ráp trên dưới : dấu chéo ( / ). Thí dụ, chữ Hòn trong nguyên bản được viết bởi trái Thạch phải Hoàn, sẽ viết (石丸) ; chữMũi trong nguyên bản được viết trên Sơn dưới Mỗi, sẽ viết (山/每).
 
Từ cửa biển Ba Thắc (1), cửa rộng khoảng 2 dặm, nước sâu 8 thước, hai bên là rừng ngập nước, theo hướng Thân [S 60 W], bờ biển quanh co, thuỷ trình 1 canh đến cửa biển Mỹ Thanh (2), cửa này rộng 25 tầm, nước sâu 4 thước, hai bên là rừng ngập, cách khoảng 1 dặm về hướng đông phía ngoài biển là bãi bùn, dài rộng độ chừng 2 dặm, tục gọi là Cồn Mũi Áo (3), cồn này lúc nước triều dâng  nhìn không thấy, triều rút thì thấy.

Từ cửa biển Mỹ Thanh đi theo hướng Vị [S 30 W], ven bờ là rừng ngập, bên trong là ruộng muối, dân làm nghề đánh cá, thuỷ trình 4 canh đến cửa biển Gành Hào (4), cửa này rộng khoảng 30 tầm, nước sâu 4 thước, hai bên là rừng ngập và dừa nước.

Từ cửa biển Gành Hào theo hướng Vị [S 30 W], bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 2 canh đến cửa biển Bồ Đề (5), cửa này rộng 30 tầm, nước sâu 4 thước, hai bên là rừng ngập và dừa nước. Từ cửa Bồ Đề đi theo hướng Thân [S 60 W], bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 1 canh đến cửa biển Rạch Gốc (6), cửa này rộng khoảng 16 tầm, nước sâu 4 thước, hai bên là dừa nước, dân có nghề làm tôm khô.

Từ cửa Rạch Gốc đi theo hướng Thân [S 60 W], bờ biển là rừng ngập, đi 1 canh đến núi Hòn Khoai (7), phía bắc núi/hòn có dân sinh sống, làm nghề đốt than, dầu rái, làm rừng. Núi cao nhiều từng, cây cối xanh tốt, có khe nước, giếng đá. Một hòn phụ như quả núi nhỏ ở hướng đông, tợ như rùa vàng, tục gọi là Hòn Lao (8), trong phụ thêm một núi đá nhỏ, tợ như voi nằm, tục gọi Hòn Khô (9). Nơi Hòn Khoai này ghe tàu các nước qua lại thường ghé lấy củi lấy nước, sau đó định hướng đi về các nơi. Phía tây bắc núi, biển rộng khoảng 2 dặm, bờ biển là rừng rú, tục gọi là Mũi Tẩu Cốc (10). Phía đông bắc núi, biển rộng khoảng 2 dặm, bờ biển là rừng ngập, tục gọi là Mũi Tẩu Cò (11).

Từ Hòn Khoai theo hướng Càn [N 45 W], bên bờ toàn rừng ngập, thuỷ trình 1 canh rưỡi đến hai cửa biển Bãi Ông, Đầm Cùng (12). Cửa rộng khoảng 1 dặm, nước sâu 8 thước, hai bên là rừng ngập. Cửa này chia hai dòng, một dòng hướng Dần [N 60 E], ăn thông Đầm Cùng, tức là rạch Đầm Cùng ; một dòng hướng Hợi [N 30 W], ăn thông đạo Long Xuyên, tức là rạch Bãi Ông. Từ cửa Đầm Cùng theo hướng Nhâm [N 15 W], bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 1 canh đến cửa biển Ông Đốc (13), cửa rộng 30 tầm, nước sâu 4 thước, hai bên là dừa nước. Ra ngoài biển, theo hướng Thân [S 60 W], thuỷ trình khoảng 1 canh, phía ngoài là núi hòn nhiều lớp, cây cối tươi tốt, các hòn nhỏ vây quanh nhiều đá nhọn hiểm, tục gọi là Hòn Chuối (14), không có người ở, ghe tàu không thể dừng đậu. Phía nam núi, cách ra biển khoảng 2 dặm, có dãy đá nhỏ.

Từ cửa biển Ông Đốc, bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 1 canh đến núi nhỏ [hòn] Đá Bạc (15), núi này gần bờ biển rừng ngập, có suối nhỏ chảy đến ngọn cùng, dân cư ruộng đất, nhiều cá sấu, nhiều muỗi.

Từ hòn Đá Bạc đến Bãi Nai (16), thẳng theo hướng Tý [N], bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 2 canh đến cửa biển Thứ Chín, Thứ Mười (17), cửa rộng khoảng 5 tầm, nước sâu 2 thước, ra biển khơi phía tây thuỷ trình 2 canh đến hòn Cổ Trôn [Nam Du] (18), hòn này có nhiều núi/ hòn lớn nhỏ thành nhóm phụ cận, phía đông hòn có núi nhỏ, tục gọi là Hòn Màu (19), nơi xuất sản loại đá đen dùng để thử vàng, ghe thuyền qua lại thường hay dừng đậu.

Từ rạch Thứ Mười theo hướng Sửu [N 30 E], bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 1 ngày đến hai cửa biển Cửa Lớn, Cửa Bé (20), cửa này chia hai dòng, một dòng hướng Mão [E] rộng khoảng 90 tầm, nước sâu 10 thước, hai bên là dừa nước, tục gọi là Cửa Lớn, ăn thông qua cửa biển Mỹ Thanh ; một dòng hướng Sửu [N 30 E] rộng khoảng 70 tầm, nước sâu 8 thước, hai bên là dừa nước, tục gọi là Cửa Bé, ăn thông vào Láng Sen (21), cho đến sông lớn Cần Thơ (22).

Từ Cửa Bé theo hướng tây, bờ biển là dừa nước và rừng ngập, thuỷ trình 3 khắc [45’] đến cửa biển Rạch Sỏi (23), cửa rộng khoảng 7 tầm, nước sâu 1 thước 5 tấc, hai bên là rừng ngập.

Từ cửa biển Rạch Sỏi theo hướng Canh [S 75 W], bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 1 canh đến cửa biển Rạch Giá(24), cửa rộng khoảng 20 tầm, nước sâu 3 thước, hai bên là rừng ngập, có nhiều cây giá, ngoài cửa về hướng nam [đúng ra là tây nam ?] ra biển 1 canh đến Hòn Tre (25), hòn này núi quanh rừng lớp, tre trúc um tùm.

Từ Rạch Giá theo hướng Thân [S 60 W], bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 1 canh đến cửa biển Vàm Răng (26), cửa rộng khoảng 18 tầm, nước sâu 4 thước, hai bên là rừng ngập, dân làm nghề đánh cá và làm mắm cá (27), lấy sáp ong.

Từ cửa Vàm Răng theo hướng Khôn [S 60 W], bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 1 canh đến núi Hòn Đất (28), núi này cây cối sum suê, dân trồng cây thuốc lá, làm dầu rái, đốt than, lấy tổ ong.

Từ bờ biển Hòn Đất theo hướng Vị [S 30 W], thuỷ trình ngoài khơi khoảng nửa canh đến Hòn Rái (29), hòn này từng lớp chập chùng, cây cối sum suê, nhiều người dân sinh sống, làm các nghề dầu rái, than củi, lấy hải sâm.

Từ Hòn Đất theo hướng Thìn [S 60 E], ra khơi nửa canh đến Hòn Tre.

Từ Hòn Đất theo hướng Tuất [N 60 W], bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 1 canh đến cửa biển Vàm Rầy (30), cửa rộng khoảng 10 tầm, nước sâu 3 thước, hai bên là rừng ngập, dân làm nghề đánh cá và lấy tổ ong.

Từ Vàm Rầy theo hướng tây, bờ biển là rừng ngập, thuỷ trình 1 canh đến Hòn Chông (31), núi này đá nhọn lởm chởm chập chùng, phía đông núi là rừng tạp bùn lầy, tục gọi là Vịnh Bồn (32), có con sông, phía tây sông là núi, phía đông sông là rừng ngập, sông rộng khoảng 8 tầm, nước sâu 4 thước, hai bên nhiều dân cư ruộng đất, ngoài biển phía tây nam nhiều núi hòn xúm xít, tục gọi là Hòn Hộ (33), núi vòng quanh xây từng, cây cối sum suê.

Từ Hòn Chông bờ biển núi vòng chập chùng quanh co, cây cối sum suê, thuỷ trình 1 canh đến Bãi Ớt (34), ở đây có người Đường [Hoa] sinh sống, làm ruộng vườn, cây trồng tạp nhạp.

Từ Bãi Ớt theo hướng bắc, bờ biển núi vòng chập chùng, cây cối xanh tốt, thuỷ trình 1 canh đến Rạch Hàu (35), hai bên sông là núi đá tảng, cây cối xanh tốt, sông rộng khoảng 8 tầm, nước sâu 2 thước, nhiều người Đường [Hoa] sinh sống, canh tác ruộng vườn.

Từ Rạch Hàu theo hướng bắc, bờ biển núi non hiểm trở chập chùng, thuỷ trình nửa canh đến cửa biển Hà Tiên(36), cửa rộng khoảng 2 dặm, hai bên phải trái có núi lớn núi nhỏ, tục gọi là Hòn Sú Lớn ở bên đông, còn Hòn Sú Nhỏ (37) ở bên tây. Cửa biển này chia ba dòng, một dòng, giữa dòng từ ngoài biển hướng vào bờ tây, dòng chảy gần sau lưng Hòn Sú Lớn, ăn thông sông lớn Hà Tiên ; một dòng, giữa dòng từ biển vào theo hướng tây nam, là cửa giữa, ăn thông sông lớn Hà Tiên, hai bên gần hai Hòn Sú Lớn Nhỏ, cửa này rộng khoảng 40 tầm, nước sâu 5 thước (38), ăn thông sông lớn Hà Tiên, ghe thuyền thường ra vào ; một dòng, giữa dòng từ bên trái ngoài biển vào theo hướng đông nam, gần Hòn Sú Nhỏ, ăn thông đến trấn Hà Tiên, rộng khoảng 70 tầm, nước cạn, ghe thuyền không ra vào được.

Bên trong cửa biển, ba dòng chảy hợp nhau nhập vào sông lớn Hà Tiên, đến giữa một đầm rộng khoảng 1 dặm, lượn một đoạn bao quanh bờ tây, trên bờ tây là gò đất lớn, tức là trấn Hà Tiên. Trấn này có quan Kinh trấn giữ, nhiều sắc dân cư trú, phố chợ sầm uất, các sắc dân sinh sống đông đúc, ghe buôn của người Đường [Hoa] neo đậu. Phía sau trấn về hướng tây nam có ngọn núi cao xanh tốt, bên núi có tháp, tục gọi núi này là Ngũ Hổ Sơn [五虎山] , trong núi nhiều cọp dữ. Phía đông trấn cách sông lớn là khoảnh rừng ven bờ và núi cao, rừng cây xây từng sum suê, bên bờ sông là khoảnh rừng, tục gọi là Tô Châu [蘇洲] , người Đường, người Đồ Bà (39) và người Hoa Lang (40) đều lập phố xá ở đó, có ba bốn giếng nước. Đằng sau trấn  phía tây nam ven bờ biển núi ôm vòng che nhiều lớp, cây cối sum suê, tục gọi là núi Mũi Nai (41), (42). Ngoài cửa biển ra khơi theo hướng nam, núi hòn xúm xít, cây cối sum suê, nhiều tre trúc, tục gọi là Hòn Tre (43).

Từ trấn Hà Tiên theo hướng tây cho đến Mũi Nai, bờ biển bìa rừng quanh co, núi gập gềnh cây cối từng chòm xanh tốt, thuỷ trình 2 canh đến núi Gành Bà [Kép] (44), rừng cây tươi tốt, người Đường sinh sống, trồng cây thuốc lá, ngoài có cù lao lớn, núi nhỏ phụ theo một dãy, tục gọi là Hòn Tai (45).

Từ Gành Bà theo hướng Thân [S 60 W], bờ biển là rừng núi cho đến Vịnh Ách [Kep Baech] (46), thuỷ trình 2 canh đến cửa biển Cần Bột [Kampot] (47), phía đông cửa này có núi, phía tây cửa là rừng cây bãi cát, cửa rộng khoảng 15 tầm, nước sâu 3 thước, có đồn Phân thủ (48), người Cao Miên sinh sống.

Từ cửa biển Cần Bột theo hướng Vị [S 30 W], bờ biển núi vòng, cây rừng sum suê, thuỷ trình 1 canh đến núi lớn, đây là dãy núi hùng vĩ ở Cao Miên, từng từng lớp lớp, cây cối sum suê. Ở hướng nam là nơi biển lớn bao quanh có một cửa, tục gọi là cửa Cửa Dương (49), cửa rộng khoảng 7 tầm, nước sâu 3 thước,  đường đi quanh co, có người của sở Thủ Ngự đặt đồn Phân thủ. Núi này tục gọi là sở Phú Quốc (50), còn gọi Hòn Độc (51), nhiều trâu rừng, dân cư đông đúc, chuyên đi lấy huyền thạch (52), trầm hương, tổ ong, hải sâm, các thứ mây thuỷ đằng, thiết đằng, long đằng và làm các nghề đánh cá, nước mắm. Phía tây là ngọn núi cao, hình tợ thuổng sắt, tục gọi là Hòn Siêu [Koh Seh] (53), hòn này trông ngang núi Tà Lang [Koh Thmei] (54).

Từ núi Tà Lang theo hướng Tuất [N 60 W], bờ biển cây rừng tươi tốt, thuỷ trình 1 canh đến đầm Xà Hót [Prek Toeuk] (55), đầm rộng khoảng 8 dặm, trong có cửa sông, tục gọi là cửa Rạch Sa Úc/Uất [sông Dat Sap] (56), rộng khoảng 20 tầm, nước sâu 3 thước, hai bên là rừng rú, người Man canh tác ruộng nương, làm các nghề lấy trần hoàng, thiết đằng, thuỷ đằng, tục gọi nơi này là Mũi Sa Úc/Uất (57).

Từ Xà Hót theo hướng nam, bờ biển là núi rừng vòng vẹo quanh co, cây cối tươi tốt, đến cửa biển Húc Cà Ba [Kaky] (58), cửa rộng khoảng 30 tầm, nước sâu 8 thước, hai bên núi cao rừng thẳm, có quan Xiêm trấn thủ (59), dân sống bằng nghề rừng, xả ván, dầu rái, đốt than, thuỷ đằng, thiết đằng. Ngoài cửa ra biển phía nam có ba dãy núi, chập chùng hiểm trở, cây cối sum suê, chia biển thành 3 lối qua, tục gọi là Hòn Than [Koh Ta Kiev] (60), ngoài ba dãy núi là một vịnh cong, là bãi cát có khe nước, ghe buôn qua lại có thể dừng nghỉ, lất củi lấy nước.

Từ Hòn Than theo hướng Tân [N 75 W], bờ biển quanh co núi chồng nhiều lớp, cây cối tươi tốt, thuỷ trình 2 canh đến vịnh Sủng Kè [vịnh Ream] (61), cách một khoảng ngoài biển là núi, vòng quanh hiểm trở, cây cối tươi tốt, tục gọi là Hòn Lang (62), Hòn Sỏi (63).

Từ Sủng Kè theo hướng Canh [S 75 W], bờ biển núi cao nhiều lớp, uốn lượn quanh co, cây cối tươi tốt, thuỷ trình 3 canh đến dãy núi dài, tục gọi là Cù lao Ông Mai [Koh Rung Samloem] (64).

Từ Cù lao Ông Mai, bờ biển là núi cao chập chùng quanh co hiểm trở, cây cối tươi tốt, thuỷ trình 2 canh đến đầm Vịnh Thơm [Kompong Som] (65), tiếp đến đầm Sa Hào [?] (66), đầm rộng đi khoảng 1 canh, có dân Cao Miên canh tác ruộng nương, nơi này có các loại trần hoàng, sa nhân, bạch khấu. bờ bên tây là núi cao hiểm trở, cây chen trong đá, tục gọi là Mũi Trắc Ảnh [Che Ko] (67).

Từ Trắc Ảnh bờ biển núi non ôm vòng, thâm u kỳ thú, rộng khoảng 30 dặm, tục gọi là Vịnh Thơm, có quan Xiêm trấn thủ, quân số khoảng 300 suất, dân sống bằng nghề rừng, phía ngoài biển về hướng nam là ba dãy núi, ngọn cao vòng vẹo trùng điệp trắc trở, tục gọi là hòn Cổ Ong [Kas Rong] (68), cây cối tươi tốt, vùng biển này có đồi mồi, hải sâm.

Từ Cổ Ong theo hướng đông bắc [đúng là tây bắc] là dãy núi dài, đá tảng cây tạp, tục gọi là hòn So Đũa [?] (69), ngoài biển gần bờ là núi nhỏ, tục gọi là Hòn Thầy Bói [?] (70).

Từ Vịnh Thơm theo hướng Thân, bờ biển núi vòng, rừng cây tươi tốt, thuỷ trình 3 canh đến Hòn Tràm [Kas Samit ] (71), ngoài có núi dài, tục gọi là Hòn Ngang [?] (72) trong gần bờ biển ở hướng tây bắc là núi rừng tươi tốt, sinh nhiều loại mây (thiết đằng, thuỷ đằng, long đằng), cây tràm.

Từ Hòn Tràm theo hướng Thân [S 60 W], bờ biển núi vòng, rừng cây tươi tốt, đến ba núi nhỏ, tục danh là Hòn Táo [?] (73), trong có hai đường biển thông qua, nhiều đá hiểm nhấp nhô.

Từ Hòn Táo theo hướng Vị [S 30 W], núi vòng chập chùng quanh co, cây rừng tươi tốt, thuỷ trình 1 canh đến đầm Cổ Công [Kas Kong] (74), bờ đầm phía đông bắc là rừng rú, khoảng giữa đầm có nhánh sông, sông rộng khoảng 15 tầm, nước sâu 3 thước, hai bên là rừng ngập nước, tục gọi sông này là rạch Bà Sự [sông Taley] (75), dân cư đông đúc, làm nghề xả ván, ngoài cửa sông có núi nhỏ. Giữa đầm có đoạn cong, đầm rộng khoảng 1 dặm, nước sâu 2 thước, ghe thuyền có thể qua lại gần mé núi, khoảng này nước sâu 4 thước, phía ngoài núi vòng trắc trở, rừng cây tươi tốt, bờ tây bắc đầm là rừng rú, có cửa, cửa rộng chừng 12 tầm, nước sâu 4 thước, phía đông nam có gò nhỏ, nhiều cây dương, có ngôi miếu xưa, tục gọi là miếu Hoát Nhiên (76), các ghe cau(77),  ghe chở ong, đồi mồi, tổ yến thường hay ghé cúng lạy.

Chú thích phần trích dịch :
 
(1) Ba Thắc, cửa biển, (巴/ 三) 忒海門 tên sông Hậu, người Pháp viết Bassac. Trong các hiệp ước quốc tế / vùng hoặc phân định ranh giới Việt Nam – Campuchia, dùng tên ‘Tonlé Bassac’ để chỉ sông Hậu, hoặc dùng song song hai tên. Về thuật ngữ, văn bản Hán Nôm Việt Nam xưa phần nhiều dùng từ “hải môn” hoặc “hải khẩu” nghĩa là “cửa biển” để chỉ “cửa sông”, giới khoa học ngày nay thống nhất dùng từ “cửa sông (estuary/ river mouth)”, nhưng để theo gần nguyên văn, tôi dịch là ‘cửa biển’, xin hiểu như ‘cửa sông’. Xem thêm ở phần giới thiệu, chú thích số 13.
 
(2) Mỹ Thanh, cửa biển, 美 清 海 門. Trong Tập lục và nhiều sách địa dư, bản đồ  xưa đều viết là Mỹ Thanh 美 清, các sách và bản đồ ngày nay viết là Mỹ Thạnh, đây có lẽ là trường hợp lỗi sơ suất về chính tả quốc ngữ hồi đầu chuyển ngữ. Sông chảy trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
(3) Cồn Mũi Áo,  崑 (山/每) (魚幻)  chữ Mũi viết trên Sơn dưới Mỗi, chữ Áo phải Ảo trái Ngư.
(4) Gành Hào, cửa biển, 䃄蠔海 門 tên sông, bản đồ Taberd, 1838 (xem thư mục) ghi là ‘Gành hàu’, Trương Vĩnh Ký, 1875 (xem thư mục) cũng ghi ‘Gành-hàu’, nay viết Gành Hào, cũng là tên thị trấn ngày nay, thuộc tỉnh Bạc Liêu nơi giáp địa giới huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau.
(5) Bồ Đề, cửa biển, 菩 –(艹/是 ) – 海門, tên sông, ăn thông qua sông Cửa Lớn, trên địa bàn huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau ngày nay.
(6) Rạch Gốc, cửa biển, 瀝 㭲 海 門, sông nhỏ, Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí – 1872 viết là ‘Rạch Cốc’, Trương Vĩnh Ký ghi ‘Rạch-cóc’ Bản đồ tiếp hợp 12 mảnh 1964 (VNCH) viết Rạch Góc, đối với mặt chữ này, âm nôm đọc được 3 cách Gốc, Góc và Cóc (không đọc Cốc). Sông chảy trên địa bàn huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau ngày nay.
(7) Hòn Khoai, (石丸)芌, Pulo Obi, tên hòn đảo lớn nhất trong cụm đảo Hòn Khoai, nay thuộc xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, cụm đảo này gồm 5 đảo nhỏ : Hòn Khoai, Hòn Sao, Hòn Gò (còn gọi Hòn Gỗ, Hòn Tượng), Hòn Đồi Mồi và Hòn Đá Lẻ, cùng với 5 đảo rất nhỏ khác.
(8) Hòn Lao (石丸) 牢,  có thể sau này gọi là Hòn Sao. Hải đồ Nhật Bản viết ‘Hon Sao’. Bản in của ông Trần Kinh Hoà (sau đây gọi tắt là Trần bản) chấm câu sai nên đọc là ‘Hòn Lao Nội’ : “ tục danh Hòn Lao Nội, thử hữu phụ tiểu thạch sơn ”, nay hiệu đính lại là “ tục danh Hòn Lao, nội thử hữu phụ tiểu thạch sơn ”.
(9) Hòn Khô, (石丸) 枯, hải đồ Nhật Bản viết ‘Hon Go’, tức Hòn Gò/ Hòn Gỗ/ Hòn Tượng.
(10) Mũi Tẩu Cốc, (山/每)藪鵒.
(11) Mũi Tẩu Cò, (山/每)藪(孤鳥),  hai mũi Tẩu Cò và Tẩu Cốc có lẽ do quá trình bồi lấp lấn biển đã nhập lại thành thành Mũi Cà Mau.
(12) Bãi Ông – Đầm Cùng, 罷翁-潭窮,tên hai cửa biển, Bãi Ông nay gọi Mũi Ông Trang, Đầm Cùng nay gọi Cửa Bảy Hạp/Háp.
(13) Ông Đốc, cửa biển, 翁督海門.
(14) Hòn Chuối, (石丸)桎.
(15) Hòn Đá Bạc, (石丸) (石多)泊.
(16) Bãi Nai, 罷狔 có thể bãi cát ngoài Mũi Tràm. Nghi Trần bản sắp sai chữ Tung/túng  縱 ra thành chữ toại/ tuỵ 繸 rồi lại chấm câu sai nên đọc là Bãi Nai Tuỵ : “ tự Đá Bạc sơn dĩ chí Bãi Nai Tuỵ, hướng Tý, hải nhai lâm tẩu ”, chữ Toại /Tuỵ nguyên dạng chữ Hán trong trường hợp này e không phải mượn làm nôm, nay tạm hiệu đính, sửa chữ và chấm câu lại, chờ xét thêm “ tự Đá Bạc sơn dĩ chí Bãi Nai, túng hướng Tý, hải nhai lâm tẩu ”, bờ biển đoạn này thẳng hướng bắc nam, hiệu đính để dịch cho hợp là “ thẳng hướng bắc (tý) ”.
(17) Thứ Chín – Thứ Mười, cửa biển, 次(九畛) – 次 (迈十) 海門.
0