WTO và kinh tế toàn cầu
Hệ thống tồn tại trước WTO, cụ thể là AGTT, trước đây đôi khi được coi là một câu lạc bộ của những người giàu vì người ta có cảm giác rằng nhiệm vụ của nó trước hết là để phục vụ cho lợi ích của các nước phát triển giàu có. Vào thời điểm khởi động vòng đàm ...
Hệ thống tồn tại trước WTO, cụ thể là AGTT, trước đây đôi khi được coi là một câu lạc bộ của những người giàu vì người ta có cảm giác rằng nhiệm vụ của nó trước hết là để phục vụ cho lợi ích của các nước phát triển giàu có. Vào thời điểm khởi động vòng đàm phán thương mại Urugoay (1986), chỉ có một nhóm nhỏ các nước đang phát triển tỏ ra quan tâm đến công việc của AGTT thông qua việc đặt các phái đoàn đại diện thường trú ở Giơnevơ. Tuy vậy, tình hình đã thay đổi cơ bản sau khi vòng đàm phán được khởi động. Vào thời gian vòng đàm phán kết thúc và AGTT chuyển đổi thành tổ chức thương mại thế giới, ngày càng nhiều quốc gia đang phát triển và đang tham gia vào cuộc đàm phán và thảo luận, đa phần các nước này đã thiết lập các phái đoàn đại diện thường trú tại Giơnevơ. Ngoài ra, tiếp theo sự sụp đổ của khối cộng sản, nhiều nền kinh tế đang chuyển đổi đã bắt đầu xin gia nhập WTO. Hiện tại 134 nước là thành viên của WTO. Ngoài ra, 30 nước đang phát triển và có kinh doanh chuyển đổi đang đàm phán xin gia nhập.
Điều gì đã dẫn đến thay đổi về thái độ đối với tư cách thành viên WTO và tại sao các nước lại tỏ ra quan tâm hơn đến hệ thống thương mại dựa trên qui tắc xuất hiện sau vòng đàm phán Urugoay như vậy? có 3 lý do chính sau:
Lý do trước hết liên quan đến tốc độ toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới thông qua thế giới quốc tế và luồng lưu chuyển vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những sự thay đổi mang tính cách mạng diễn ra trong giao thông vận tải và thông tin liên lạc ngày nay thậm chí đã giúp cả các nhà sản xuất nhỏ ở các nước đang phát triển có thể tìm kiếm tt cho các sản phẩm của mình ở những nước cách xa hàng nghìn dặm. Như một số nhà quan sát nhận xét, các phương tiện vận tải hàng hóa đã biến toàn bộ thế giới thành một "làng toàn cầu".
Lý do thứ hai là quá trình toàn cầu hóa này đã làm tăng sự lệ thuộc của các nước vào thương mại quốc tế lại càng được đẩy nhanh hơn nữa do việc chuyển đổi các chính sách kinh tế, thương mại được ghi nhận ở hầu hết các nước. Sự sụp đổ của khối cộng sản đã dẫn tới việc áp dụng dần dần các chính sách mang định hướng thị trường ở hầu hết các nước trước đây nhằm kiểm soát nền sản xuất và thương mại quốc tế. Những nước này, trước đây chủ yếu buôn bán với nhau, nay đang càng ngày tăng cường buôn bán rộng rãi hơn với thế giới.
Nhiều nước đang phát triển đã từ bỏ chính sách thay thế nhập khẩu và giờ đây đang theo đuổi các chính sách hướng về xã hội, theo các chính sách đó các nước này tìm cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng các xã hội ngày càng nhiều các sản phẩm của mình.
Thứ ba, là những chính sách thương mại tự do và thông thoáng và các biện pháp các nước đang áp dụng để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài đã khích lệ các công ty đã quốc gia tìm mua linh kiện và các sản phẩm trung gian từ các nước có giá thành thấp hơn và thiết lập và cơ sở sản xuất ở nước đó. Do vậy, các sản phẩm có trên thị trường hiện nay dù đó là các sản phẩm tiêu dùng như quần áo may sẵn, hay các sản phẩm tiêu dùng lâu bền như tủ lạnh và điều hòa không khí, hay cả hàng tư liệu sản xuất, ngày càng được sản xuất , ngày càng được sản xuất thông qua các công đoạn thực hiện không chỉ ở phạm vi một quốc gia, chứng cứ cụ thể của toàn cầu hóa kinh tế thế giới và tính lệ thuộc ngày càng tăng của các nước vào ngoại thương đã được đưa ra trong một quảng cáo gần đây của một công ty đa quốc gia chuyên sản xuất đồ điện gia dụng; doanh nghiệp này tự hào tuyên bố là sản phẩm của họ được chế tạo từ các cấu kiện sản xuất ở năm đến sáu quốc gia khác nhau.
Sự lệ thuộc ngày càng tăng này vào ngoại thương, dù là nhà xuất khẩu hay nhập khẩu của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đã làm cho các Chính phủ và các doanh nghiệp nhận thức được vai trò quan trọng của hệ thống thương mại đa biên trong việc bảo vệ các lợi ích thương mại của họ. Hệ thống dựa trên quy tắc này đảm bảo cho sản phẩm của họ tiếp cận thị trường nước ngoài sẽ không đột nhiên bị gián đoạn bởi các biện pháp của các Chính phủ như tang thuế nhập khẩu hay áp đặt các quy định cấm nhập hay hạn chế nhập khẩu. Hệ thống này tạo điều kiện cho hàng hóa tiếp cận thị trường nước ngoài ổn định và an toàn làm cho các doanh nghiệp có thể đặt kế hoạch và phát triển sản xuất xuất khẩu mà không phải lo sợ sẽ mất thị trường nước ngoài do các hàng đóng hạn chế của các chi phí. Ngoài ra, điều còn ít người biết đến là hệ thống này còn tạo những quyền nhất định cho các doanh nghiệp. Hầu hết những quyền này là đối với Chính phủ nước mình, một số quyền của họ có thể sử dụng đối với các Chính phủ nước ngoài.
Vì vậy, khuôn khổ các quyền và nghĩa vụ mà hệ thống WTO đã tạo ra đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển thương mại trong bối cảnh kinh tế thế giới đang nhanh chóng toàn cầu hóa.
Khả năng của các Chính phủ và các doanh nghiệp tận dụng lợi ích của hệ thống này tùy thuộc rất lớn và kiến thức và hiểu biết về các quy tắc của hệ thống và về những thuận lợi và những thách thức mà hệ thống này tạo ra.