Wisława Szymborska (1923-2012), nữ nhà thơ, nhà văn và dịch thuật Ba Lan. Sinh ngày 2-7-1923 tại Bnin (nay là Kurnik, gần Poznan). Năm 1929 gia đình chuyển đến Krakow. Học xong bậc tiểu học năm 1935 và học xong trung học ở trường bí mật năm 1941, khi Ba Lan còn bị Đức chiếm đóng. Một thời gian ngắn W. Szymborska làm công nhân đường sắt. Từ năm 1945-1947 học văn học Ba Lan và xã hội học tại Đại học Jagiellonian; năm 1945 khởi đầu sự nghiệp sáng tác vào với bài thơ đăng báo Tôi tìm lời, năm 1952 in tập thơ đầu tiên Vì lẽ này chúng ta đang sống và được kết nạp vào Hội Nhà văn Ba Lan. Phong cách thơ W. Szymborska thời kì này mang tính hiện thực truyền thống, viết về chiến tranh, quân đội, Tổ quốc. Trong những năm 1953-1981, bà là biên tập viên thơ và là người viết xã luận trên tuần báo Đời sống văn học, các tiểu luận của bà về sau được tập hợp xuất bản dưới dạng sách tái bản nhiều lần. Từ 1952-1996, bà đã xuất bản 16 tập thơ. Ngoài ra, bà còn dịch thơ Pháp, Nga ra tiếng Ba Lan.
W. Szymborska đã được nhiều giải thưởng văn học cao quý. Năm 1954 bà được tặng giải thưởng của thành phố Krakow; năm 1963 đoạt giải Văn học của Bộ trưởng Văn hoá Nghệ thuật Ba Lan; giải thưởng Goethe của Đức (1991) và giải thưởng Herder của áo (1995). Bà được trao bằng Tiến sĩ Văn chương Đại học Poznan (1995) và giải thưởng Hội Văn bút Ba Lan (1996). Năm 1996 W. Szymborska được trao giải Nobel cho “những tác phẩm thơ tái hiện chân thực một thế giới trong đó cái thiện và cái ác đan xen, giành giật nhau chỗ đứng cả lẫn trong tư duy và hành động của con người, thể hiện tấm lòng một công dân, một nghệ sĩ có nhân cách lớn và đầy trách nhiệm trước những thực trạng các giá trị tinh thần bị đảo lộn, trước nguy cơ suy đồi đạo đức trong cuộc sống hiện đại”. Thơ của Wislawa Szymborska được dịch ra gần 40 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.
Tác phẩm:
- Vĩ lẽ này chúng ta đang sống (Dlatego zyjemy, 1952), thơ
- Những câu hỏi cho mình (Pytania zadawane sobie, 1954), thơ
- Lời kêu gọi đối với người tuyết (Wolanie do yeti, 1957), thơ
- Muối (Sols, 1962), thơ
- Sili (1965), thơ
- Tuyển thơ (Poezje wybrane, 1967), thơ
- Một trăm trò hề (Sto pociech, 1967), thơ
- Thơ (Poezje, 1970), thơ
- Trường hợp bất kì (Wszelki wypadek, 1972), thơ
- Tarsius và những bài thơ khác (Tarsjusz i inne wiersze, 1976), thơ
- Số lớn (Wielka liczba, 1976), thơ
- Những người trên cầu (Ludzie na moscie, 1985), thơ
- Buổi chiều của tác giả (Wieczúr autorski, 1992), thơ
- Kết thúc và mở đầu (Koniec i poczatek, 1993), thơ
Tác phẩm dịch ra tiếng Việt:
- Thơ Wisława Szymborska (75 bài, Tạ Minh Châu dịch), NXB Hội nhà văn, 1997
- Thơ Szymborska (50 bài, blog Nguyễn Thái Linh)
- Thơ chọn lọc Wisława Szymborska (119 bài, Tạ Minh Châu dịch, tái bản có bổ sung), NXB Hội nhà văn, 2014
Wisława Szymborska (1923-2012), nữ nhà thơ, nhà văn và dịch thuật Ba Lan. Sinh ngày 2-7-1923 tại Bnin (nay là Kurnik, gần Poznan). Năm 1929 gia đình chuyển đến Krakow. Học xong bậc tiểu học năm 1935 và học xong trung học ở trường bí mật năm 1941, khi Ba Lan còn bị Đức chiếm đóng. Một thời gian ngắn W. Szymborska làm công nhân đường sắt. Từ năm 1945-1947 học văn học Ba Lan và xã hội học tại Đại học Jagiellonian; năm 1945 khởi đầu sự nghiệp sáng tác vào với bài thơ đăng báo Tôi tìm lời, năm 1952 in tập thơ đầu tiên Vì lẽ này chúng ta đang sống và được kết nạp vào Hội Nhà văn Ba Lan. Phong cách thơ W. Szymborska thời kì này mang tính hiện thực truyền thống, viết về chiến tranh, quân đội, Tổ quốc. Trong những năm 1953-1981, bà là biên tập viên thơ và là người viết xã luận trên tu…
Vĩ lẽ này chúng ta đang sống (1952) - Dlatego zyjemy
Những câu hỏi cho mình (1954) - Pytania zadawane sobie
Lời kêu gọi đối với người tuyết (1957) - Wolanie do yeti
Muối (1962) - Sols
Một trăm trò hề (1967) - Sto pociech
Trường hợp bất kỳ (1972) - Wszelki wypadek
Con số lớn (1976) - Wielka liczba
Những người trên cầu (1985) - Ludzie na moscie
Khoảnh khắc (2002) - Chwila
Dấu hai chấm (2005) - Dwukropek
Ở đây (2009) - Tutaj
Thế là đủ (2012) - Wystarczy