18/06/2018, 16:41

Việt Nam Đại chí diễn nghĩa- Trận Thị Nại

Trịnh Phúc Tuấn Đây là một chương trong cuốn tiểu thuyết lịch sử Việt Nam Đại chí diễn nghĩa đang hoàn thiện. Hồi này miêu tả trận thủy chiến Thị Nại, trận chiến quyết định giữ hai nhà Tây Sơn – Nguyễn. Truyện tham khảo nhiều tài liệu lịch sử và các nghiên cứu hiện đại nên đảm ...

20140503-10-chien-dich-kho-tin-trong-lich-su-viet-nam-6-1476863867238.jpg

Trịnh Phúc Tuấn

Đây là một chương trong cuốn tiểu thuyết lịch sử Việt Nam Đại chí diễn nghĩa đang hoàn thiện. Hồi này miêu tả trận thủy chiến Thị Nại, trận chiến quyết định giữ hai nhà Tây Sơn – Nguyễn.

Truyện tham khảo nhiều tài liệu lịch sử và các nghiên cứu hiện đại nên đảm bảo sự chân thực về các sự kiện lịch sử, nhưng vì là tiểu thuyết nên nói theo La Quán Trung là có 7 thực 3 hư.

Dụng hỏa công, Lê Tả quân đốt Thị Nại khẩu

Đắp trường lũy, Trần Thiếu phó hãm Bình Định thành

 Nhắc lại Nam vương Nguyễn Phúc Ánh  toan triệu các tướng thủy quân bàn tính việc phá Thị Nại thì trấn thần Gia Định sai người đến đưa tin:

– Lại bộ Nguyễn Bảo Trí lâm bệnh nặng đã mất ở Gia Định. Lưu thủ Trấn Biên Nguyễn Đức Giảng phạm phép công, hiện bị bắt giam ở Gia Định xin nghị xử.

Nguyên Lại bộ Nguyễn Bảo Trí trước ở Phú Xuân, năm Canh Tý (1780) trốn vào Gia Định cùng với Tôn Thất Huy, Đặng Đình Vân, Nguyễn Đô. Nguyễn Bảo Trí được trao chức Tham mưu, sau quản Hộ bộ và Lại bộ, giúp được nhiều việc, lại tiến cử học trò là Phạm Đăng Hưng làm Tham tri, giúp việc đắc lực,đến nay lâm bệnh nặng rồi mất. Phần Lưu thủ Nguyễn Đức Giảng ở Trấn Biên, yêu sách dân Man quá đáng khiến chúng nổi dậy đánh phá, bèn nghị tội giết đi để phủ dụ dân Man, lấy Thống binh Cai cơ Võ Tiến Đẩu làm Lưu thủ Trấn Biên.

Tháng 12 năm (1800), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 nhà Tây Sơn, Binh bộ Nguyễn Đức Thiện ở Phú Yên lo việc binh dân, sai người đến báo:

– Quân sĩ dưới trướng Hoàng Tường Đức và quân Chân Lạp sách nhiễu dân chúng, xin nghiêm trị để giữ quân pháp.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh  liền cho người đến khuyên dụ Đại Tướng quân Hữu dinh Hoàng Tường Đức:

– Ngươi phải giữ nghiêm quân pháp, chớ để mất lòng mong mõi của trăm họ.

Phó Đô Thống chế Hậu dinh quân Thần sách Tôn Thọ Vinh bị thương nặng, mất ở Phú Yên, Nam vương Nguyễn Phúc Ánh rất thương tiếc, ban tặng cho chức Chưởng dinh, tước Phi kỵ úy. Tiếp lại được tin Đô Thống chế Hậu dinh quân Thần sách Mai Đức Nghị cũng ốm nặng, không qua khỏi ở Phú Yên. Nam vương Nguyễn Phúc Ánh than:

– Trước kia ta còn bôn ba, những kẻ bề tôi theo hầu lắm kẻ hoảng hốt nhầm lẫn, duy một mình Đức Nghị là giữ được lễ độ, không vì điên bái vội vàng mà đổi thái độ của mình. Thời xưa Triệu Tương Tử bàn việc thưởng công cho những người có dự trận Tấn Dương thì cho Cao Hách đứng bậc nhất. Trương Mạnh Đàm nói “Cao Hách ở trong thành bị vây, chưa nghe thấy có bày được một chước gì hay,  làm được một việc gì, mà chiếm công đầu, nhận thưởng lớn, tôi trộm không hiểu”. Tương Tử nói “Ta  trong khi khốn ách, nhiều người hoảng hốt nhầm lẫn, chỉ một mình Cao Hách cử động kính cẩn, không mất cái lễ độ của người bề tôi. Công lao thì cần ở ngày nay, mà lễ độ thì để lại muôn đời, như thế thì Cao  Hách được phần thưởng trên chẳng là đáng sao?”. Nay Đức Nghị một lòng cẩn trọng, không kém gì Cao Hách, ta rất qúy mến”.

Bèn cho người đưa ma về Gia Định, hậu lễ tống táng, truy tặng chức Thiếu bảo tước Quận công, thụy Trung liệt[1]. Rồi lấy Hoàng Viết Toản làm Đô Thống chế Hậu dinh quân Thần sách, Trần Văn Năng làm Phó Đô Thống chế để thế chức.

Thống chế Tả đồn quân Ngự lâm Vũ Đình Nhai bị thương không lành sai người dâng sớ xin giải chức, bèn cho em là Vũ Đình Duyên thay chức, quản lãnh quân theo Đô Thống chế Lê Văn Duyệt tiến đánh.

Đại Đô đốc [Trần Danh Tuấn]  bàn với hai tướng Từ Văn Chiêu và Nguyễn Văn Điểm:

– Ta bất thần bị chúng đánh úp, đoạt mất Kỳ Nguyên, thiệt mất mấy tướng. Nay chúng cậy thắng, ắt lơ là phòng bị. Ta nhân đêm cướp trại, dẫu không toàn thắng cũng khiến chúng kinh hoãng, vực lại sĩ khí trong quân.

Bèn sai Đại Đô đốc Từ Văn Chiêu đi cướp đồn Ngũ Thần, Đại Đô đốc Nguyễn Văn Điểm thì đánh đồn trại Hữu dinh. Đại Đô đốc Trần Danh Tuấn đem binh đi sau tiếp ứng cho cả hai đạo. Đồn Ngũ Thần do các vệ quân thuộc Tả đồn dinh Thần sách giữ, thuộc quyền điều khiển của Đô Thống chế Lê Văn Duyệt. Trại quân Hữu đồn dinh Thần sách thì do Đô Thống chế Tôn Thất Chương thống khiển. Bấy giờ Đô Thống chế Lê Văn Duyệt thấy đêm tối, sợ có phục binh, truyền giữ vững không ra đánh. Đại Đô đốc Từ Văn Chiêu dẫn quân đánh đến tận chân đồn, Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành nghe tin nguy, lập tức sai Đô Thống chế Tượng dinh Nguyễn Đức Xuyên đi cứu.

Bên phía trại Hữu dinh, Đô Thống chế Tôn Thất Chương giữ vững trại. Đô Thống chế Tượng dinh Nguyễn Đức  Xuyên dẫn quân đi cứu đồn Ngũ Thần nữa đường, lại được tin nguycủa Hữu dinh, liền sai hai tướng là Vệ úy Trần Đại Luật và Vệ úy Nguyễn Tiến Lộc đem nữa tượng binh đến cứu Hữu dinh. Đô Thống chế Nguyễn Đức  Xuyên cùng Vệ úy Phạm Công Nghĩa, Phó Vệ úy Phan Văn Dũng đi cứu Ngũ Thần.

Quân Tây Sơn thấy cứu binh kéo đến, quay trở lại bao vây tượng binh mà đánh giết. Lê Văn Duyệt, Tôn Thất Chương thấy có cứu binh cũng mở trại kéo quân ra giao chiến. Bên phía Tây Sơn, Đại Đô đốc [Trần Danh Tuấn, Lê Văn An, Trương Phúc Phượng] vừa kéo quân đến tiếp viện, hai bên giao chiến ác liệt. Bên phía Nam triều Phó Vệ úy Phan Văn Dũng trúng thương. Đại Đô đốc [Trần Danh Tuấn] đốc quân giao chiến đến mờ sáng mới chịu rút về.

Thống lĩnh thủy binh Tây Sơn Đại Đô đốc Vũ Văn Thành cầm thủy binh giữ chặt cửa Thị Nại Khẩu, thủy quân Nam triều công phá mãi không hạ được. Hai vạn thủy binh Nam triều ở trên thuyền, ngày ăn hơn ngàn hộc lương, chật vật không lên được bờ. Nam vương Nguyễn Phúc Ánh lòng rất lo lắng, mà mặt bộ, quân trong thành Bình Định vẫn bị vây chặt, chưa rõ nguy an, bèn triệu các tướng bàn tính.

Tánlý Binh bộ Đặng Trần Thường bàn:

– Phép phá thủy binh không gì bằng đánh hỏa công. Xưa Chu Du của Đông Ngô hỏa thiêu Xích Bích mà chia ba thiên hạ, Tạ An nhà Đông Tấn đốt cháy thủy quân Tiền Tần mà Nam Bắc định ranh giới. Nếu đem hỏa thuyền xông nhập thủy trại chúng mà đốt, Dũng, Diệu tất sợ mà phải giải vây.

Thủy dinh Đại Tướng quân Nguyễn Văn Trương nói:

– Nay gió Nam thổi ngang, nếu dùng thủy công thì thuyền lửa cũng chẳng thể thuận chiều mà đốt thủy trại địch được.

Tham mưu Trung dinh Đặng Đức Siêu cười đáp:

– Trời đất chuyển biến bất thường, dẫu trong mùa gió nam cũng có khi có luồng gió nghịch. Huồng hồ chỉ cần độ ba canh giờ trở gió thì thủy trại Tây Sơn cũng thành tro.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh nói:

– Vậy các ngươi hãy do thám thủy trại quân địch, bàn thêm cách đánh hỏa công. Còn giờ lệnh cho Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt đem bộ quân đánh Phú Trung, Vân Sơnđể giải vây cho Võ Tánh.

Đại Tướng quân Thủy dinh Nguyễn Văn Trương bèn sai hai tướng thủy quân là [], [] đem binh thuyền đi do thám.

Phần thủy binh Tây Sơn luôn mấy hôm thấy quân Gia Định không kéo đến đánh, các tướng cũng hội nhau bàn tính. Đại Đô đốc Vũ Văn Thành bàn:

– Thủy trại của ta dàn chặt cửa bể, thủy quân của chúng nếu công chiến tất không thể thắng được. Chỉ sợ chúng dùng hỏa công theo gió đánh úp mà thôi.

Đại Tư đồ Vũ Văn Dũng cười lớn đáp:

– Ta cũng đã nghỉ đến. Nhưng có ba điều không thuận. Thứ nhất đây đang mùa gió Nam, nếu dùng hỏa công thì thuyền lửa sẽ trôi ra biển chứ không thể chạy vào thủy trại. Thứ hai, ta đã đem hai chiếc thuyền Đại hiệu Định Quốc cùng hơn trăm chiếc đại thuyền đóng chắn ngoài biển. Trên đấy có hơn ngàn khẩu thần công, bất cứ thuyền nào đến gần cũng sẽ bị chúng bắn chìm. Dẫu có Tôn Vũ tái thế, Ngô Khởi phục sinh, cũng không thể lại gần thủy trại. Thứ ba, trên bộ ta đã cho dựng chông chà, rào lũy quanh hai tiểu đồn Hổ Kỵ và Mai Nương, canh phòng cẩn mật. Nếu vạn nhất có sơ xẩy thì thủy quân sẽ lùi vào cửa khẩu, còn bộ quân trên bờ sẽ chống đánh để cứu nguy.

Đại Đô đốc Vũ Văn Thành nói:

– Tướng quân đã tính trước như thế thực đã thông hiểu an nguy. Nhưng việc quân biến trá, lở quân Nam có kẻ liều mình, đột nhập thủy trại đốt phá, trong ngoài tập kích, không thể không đề phòng.

 Đại Tư đồ Vũ Văn Dũng vỗ vai Vũ Văn Thành nói:

– Vậy người hãy cùng các tướng tuần tra cẩn mật. Trong vòng một tháng, Thái phó tất đã hạ xong thành Quy Nhơn, bắt sống Võ Tánh. Chừng đó thủy quân Nam triều không đánh cũng phải rút.

Đại Đô đốc Vũ Văn Thành bái tạ, rồi cùng các tướng đem thủy binh đi tuần tra nghiêm ngặt.

Bên phía Nam triều, các tướng [] đem binh thuyền đi do thám thấy thủy quân Tây Sơn kết trại trên biển như đóng trên đất liền. Hai chiếc Đại hiệu đóng sừng sững như tháp núi giữa cửa khẩu trên phất phới đại kỳ thêu hai chữ Định Quốc, trăm chiếc đại thuyền dàn ngang như cánh nhạn, vắt ngang cửa vịnh. Lớp lớp thần công chĩa súng về phía trước. Xa xa trên bờ đồn tháp lớn nhỏ đóng theo thứ tự, bên ngoài ba vòng lũy có quân canh đi tuần, trên có tháp canh lẫn ụ pháo chĩa thẵng ra biển. Hai tướng không dám tiến gần đành quay về báo tin.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh cùng các tướng không tin, đích thân xuống tiểu thuyền đến xem. Đến nơi thấy lớp lớp thủy trại Tây Sơn kiên cố như vách sắt, ai nấy đều chột dạ. Nam vương Nguyễn Phúc Ánh ngẫn mặt lên trời than:

– Trời chưa muốn diệt giặc Tây Sơn chăng! Sao để cho  tướng giỏi của ta bị khốn mãi ở đây?

Tướng quân Trung thủy dinh Vũ Di Nguy đứng đằng sau nghe thế, tức giận xin liều đem thủy binh đi đánh. Thủy dinh Đại Tướng quân Nguyễn Văn Trương can:

– Vũ Văn Dũng đã phòng bị như thế, tất đã sớm phòng ngừa. Việc này phải suy tính cẩn thận, không thể làm bừa được.

Liền sai hai tướng [Trần Công Lại, Trần Đăng Long] đem năm chiếc đại thuyền, trăm chiếc tiểu thuyền tiến đánh dọ thám, dặn chỉ cần đánh lấy thua, không cần ham tiến.

Hai tướng [Trần Công Lại, Trần Đăng Long] vâng lệnh đem thủy quân tiến vào. Cách thủy trại Tây Sơn hơn năm dặm thì gặp du thuyền Tây Sơn tuần tiều vòng ngoài. Mấy chiếc du thuyền ấy thấy cờ hiệu thủy quân Nam triều lập tức quay đầu chạy về thủy trại. Hai tướng liền nổ súng đuổi sát theo sau.

Đến cách thủy trại Tây Sơn một dặm, lập tức có pháo lệnh nổi vang, rồi năm chiếc đại thuyền với hơn trăm chiếc tiểu thuyền từ trong thủy trại lướt ra chặn lại. Thủy quân hai bên nổ súng hơn nữa canh giờ, bất chợt có tiếng pháo hiệu, rồi một loạt đạn đinh tai phát ra từ hai chiếc thuyền Đại Hiệu sừng sững ở giữa. Hai chiếc đại thuyền Nam triều đi đầu trúng đạn lập tức chìm nghỉm. Tiếp theo một loạt đạn phát ra từ các đồn bộ trên bờ lẫn các đại thuyền vòng ngoài, các đại thuyền Nam triều lập tức bị trúng đạn phải xoay ngang, hai tướng bỏ thuyền lớn, xuống thuyền nhỏ tháo lui. Năm chiếc đại thuyền cùng trăm chiếc tiểu thuyền thủy quân Tây Sơn nhất loạt đuổi theo.

Hai tướng cố sống cố chết dẫn quân quày quả quay về. Thủy dinh Đại Tướng quân Nguyễn Văn Trương cũng phái thêm thủy binh đi tiếp ứng. Bên phía Tây Sơn thấy quân Nam đã cách xa thủy trại hơn ba dặm cũng không ham đánh, từ từ quay thuyền trở về Thị Nại.

[Trần Công Lại, Trần Đăng Long] về thủy trại gặp Nguyễn Văn Trương xin tha tội, Thủy dinh Đại Tướng quân Nguyễn Văn Trương khoát tay đáp:

– Đó là ta sai các ngươi chủ ý đi do thám, không phải lỗi các ngươi.

Hai tướng khoanh tay tạ ơn lui ra. Tán lý Binh bộ Đặng Trần Trường nói:

– Dẫu chúng có phòng bị, ta vẫn có thể thừa cơ đánh úp được, chỉ sợ các tướng không dám vào nơi cửa tử mà thôi.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh quay lại hỏi Thủy dinh Đại Tướng quân Nguyễn Văn Trương:

– Trong số các tướng thủy quân, ngươi là người giỏi nhất, liệu có thể cầm quân đánh thắng trận này không?

Thủy dinh Đại Tướng quân Nguyễn Văn Trương sụp lạy, thưa:

– Đại vương bắt thần nhảy vào lửa thần cũng chẳng từ. Nhưng nếu cầm quân trận này, thần cũng không dám chắc thắng được.

Tướng quân Trung thủy dinh Vũ Di Nguy bước ra nói:

– Thần xin đem thủy binh liều chết đốt thủy trại địch. Nếu không xin nộp đầu để làm quân lệnh.

Trần Công Lạican:

– Không phải chúng tướng sợ chết nhưng chỉ sợ chưa đến được thủy trại địch thì đã chết mất bởi đạn pháo mà thôi.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh đập mạnh tay xuống mạn thuyền, nói:

– Ta có chết cũng phải đốt thủy trại Tây Sơn để giải vây cho Vũ công.

Tham mưu Trung dinh Đặng Đức Siêu nói:

– Phép quân trong chặt chẽ có nơi sơ hở, lúc nghiêm mật có khi trễ nãi. Không có trận thế nào là không thể phá được.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh cùng các tướng mừng rỡ hỏi:

– Vậy có kế sách gì để phá giải?

Tham mưu Trung dinh Đặng Đức Siêu đáp:

– Quân cơ không thể lộ trước được. Vả lại trong quân còn thiếu hỏa khí, xin hãy trù bị kỹ càng rồi tiến đánh cũng chưa muộn.

Bèn cùng nhau quay về đại thuyền ngoài bể. Khi chỉ còn hai người, Đặng Đức Siêu mới nói với Nam vươngNguyễn Phúc Ánh:

– Lưỡng binh giao chiến, tướng sĩ tất có kẻ thương vong. Sự thế đến nước này, chỉ có thể đánh một nước chắc thắng. Hôm nay tôi xem giao chiến, thấy thủy binh Tây Sơn cố thủ chứ không dám công chiến, ý đợi cho hết gió mùa chứ không có ý gì khác. Thiên địa có lúc đổi thay, thời khí có lúc xoay vần. Mùa này hay có nghịch chướng, vào khoảng trung tuần tất sẽ có đổi gió. Khi đấy ta cho vài tướng cố sức xông vào thủy trại, thuận giòng phóng hỏa. Dẫu không đốt được toàn thủy trại cũng có thể giúp chiến thuyền cập bờ lên bộ.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh cả mừng đáp:

– Một lời nói của ông giải hết mỗi lo gan ruột của ta.

Đến nữa đêm, Tán lý Binh bộ Đặng Trần Thường lại vào ra mắt. Nam vương Nguyễn Phúc Ánh đang trằn trọc mãi chưa ngủ, nghe báo vội bật dậy, sai người mời vào. Tán lý Binhbộ Đặng Trần Thường nói:

– Đại vương muốn lấy Phú Xuân hay muốn giải vây cho Võ Tánh?

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh đáp:

– Ta muốn trước giải vây cho Võ Tánh, sau tiến lấy Phú Xuân.

Tán lý Binh bộ Đặng Trần Thường nói:

– Theo ngu ý của thần thì dẫu có phá được thủy trại của địch, chúng tất cũng không chịu giải vây thành Bình Định đâu.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh gật đầu, rồi hỏi:

– Vậy theo ý ngươi, ta phải làm sao?

Tán lý Binh bộ Đặng Trần Thường đáp:

– Chi bằng ta đem thủy quân đánh úp lấy Phú Xuân, đó là cái kế vây Ngụy cứu Triệu, bỏ nơi phòng bị đánh nơi trễ nãi, khiến cho chúng mất nơi căn bản.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh trầm ngâm một lát đáp:

– Việc này để ta suy nghĩ thêm đã, ngoài ta ra, ngươi không nên nói thêm với ai nữa?

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh mật đem việc ấy bàn với Đô Thống chế Tả dinh Thần sách Lê Văn Duyệt. Đô Thống chế Tả dinh Thần sách Lê Văn Duyệt vốn thân với Đại Tướng quân Hậu dinh Võ Tánh, nghe thấy thế thì tức giận mắng Đặng Trần Thường là kẻ phản tặc, đoạn sai người về báo với Nam vương Nguyễn Phúc Ánh mật định kế phá Thị Nại.

Bấy giờ các tướng thủy quân là Nguyễn Văn Trương, Vũ Di Nguy, Trần Công Lại, Hoàng Văn Khánh chuẩn bị hỏa khí để đánh hỏa công, chuẩn bị hai mươi chiến thuyền con, đầu đóng ngàm đinh sắt, trên chứa cũi khô, tưới nhựa trám, cho đoàn chiến thuyền này đi đầu. Bấy giờ cần một tướng tiên phong, dẫn đoàn hỏa thuyền tiến vào cửa Thị Nại, lấy móc câu sắt móc hỏa thuyền vào thuyền địch rồi châm lửa đốt. Tướng đi tiên phong này cầm chắc cái chết. Đô Thống chế Trung dinh Thần sách Tống Viết Phúc xin đi, Nam vương Nguyễn Phúc Ánh thấy Tống Viết Phúc gan dạ, can đảm, thuận y cho. Lại cho người mật báo với Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành chuẩn bị phối hợp trên bộ. Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành liền sai các tướng đem quân bày trận, phao ngôn tin chuẩn bị cướp trại để kéo thêm thủy quân Tây Sơn từ Thị Nại về. Bấy giờ Cai đội Tiểu sai Nguyễn Cửu Kỷ vâng lệnh Nam vương Nguyễn Phúc Ánh đến doanh trại ở [] truyền tin, nhân tiện ban nhân sâm cho Đô Thống chế Tượng dinh Nguyễn Đức Xuyên đang bị ốm. Đô Thống chế Nguyễn Đức Xuyên hỏi Nguyễn Cửu Kỷ:

– Chẳng hay đại vương sai ai làm tướng tiên phong?

Cai đội Nguyễn Cửu Kỷ đáp:

– Vương thượng đinh cho Đô Thống chế Tống Viết Phúc làm tiên phong.

Đô Thống chế Tượng dinh Nguyễn Đức Xuyên liền đáp:

– Ngươi mau về báo lại với vương thượng, theo ý của Đức Xuyên này thì Tống Viết Phúc dẫu anh dũng nhưng phải cái vội tiến, Lê Văn Duyệt thì vừa dũng vừa có mưu, nếu sai Văn Duyệt đi thì việc chắc chắn thành công.

Cai đội Nguyễn Cửu Kỷ về báo lại, Nam vương Nguyễn Phúc Ánh suy nghĩ, rồi cho triệu Đô Thống chế Tả dinh Thần sách Lê Văn Duyệt về làm tướng tiên phong, chuẩn bị đánh hỏa công.

 

Mùa xuân tháng giêng năm Tân Dậu (1801), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 9 nhà Tây Sơn, Nam vương Nguyễn Phúc Ánh sai người đến doanh trại bộ binh, truyền chỉ phong cho Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành làm Tiết chế các đạo quân trên bộ, tất cả tướng sĩ các đạo Tiền dinh, Tiên Phong dinh, Hữu dinh quân Ngũ dinh, Trung – Tiền – Tả – Hữu – Hậu dinh quân Thần sách, Tả – Hữu đồn quân Ngự Lâm đều thuộc quyền Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành sai khiển. Lại ban lời hiểu dụ cho Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành:

– Mới đây đại binh từ Thị Dã tiến đánh, trèo non vượt biển, đướng xá cách trở, sợ khó thống quản được hết, nên đã đặc biệt hạ chỉ cho Tống Viết Phúc và Lê Văn Duyệt kiêm lĩnh hai đạo Tiền dinh và Hữu dinh Thần sách. Nay lũy giặc đã san bằng, các đạo trên bộ đã liên lạc được với nhau, nếu quyền chỉ  huy không có người chuyên trách, hiệu lệnh không thống nhất, thì quân các đạo không phối hợp với nhau? Từ nay về sau bốn dinh TrungTiền Hữu Hậu quân Thần sách đến quân sở bộ Ngũ dinh đều theo quyền tiếtchếcủa khanh, Tống Viết Phước không được kiêm lĩnh như trước nữa. Lại như quân đạo Cù  Mông[2] trước là ủy cho Hoàng Tường Đức một mình đảm đương một mặt, nay địa thế đã nối liền, cũng giao cho khanh điều độ cả. Còn như việc phân phái đánh giữ, nên điều bát tướng sĩ toàn dinh, chớ nên ra binh một đạo đơn lẻ. Kẻ nào trái mệnh lệnh thì xử ngay theo quân pháp.

Bấy giờ các tướng Nam triều đóng quân trên bộ đều nhỏ tuổi mà công lao đều kém hơn Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành, duy có mỗi Đại Tướng quân Hữu dinh Hoàng Tường Đức là lớn tuổi hơn Nguyễn Văn Thành rất nhiều, lại có công phò tá Nam vương Nguyễn Phúc Ánh rất lớn. Nam vương Nguyễn Phúc Ánh thường kể cái công phò tá ở Đồng Tuyên, xem Hoàng Tường Đức như Tứ Khuyển của Nguyên Thế Tổ Thành Cát Tư Hãnlà Bát Nhĩ Truật, Giả Lặc Miệt, Mộc Hoa Lê, Tốc Bất Đài, sợ Hoàng Tường Đức tự ái nên sai người đến ban chỉ dụ:

– Khanh là cựu tướng lão thành, triều đình vốn trông cậy. Nhưng nay quyền tiết chế bộ binh đã chuyên ủy cho Nguyễn Văn Thành, vậy từ nay về sau có sự điều khiển thì khanh nên lấy Xã Tắc làm trọng mà nghe theo, chớ nên để ý đến chỗ kẻ cao người thấp.

Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành, Đại Tướng quân Hữu dinh Hoàng Tường Đức cùng các tướng sĩ đều cúi đầu nhận chỉ, tuân theo mệnh lệnh.

Đại Tướng quân Hậu dinh Võ Tánh trong thành Bình Định thấy quân Tây Sơn ở bên ngoài thêm quân vây thành, vòng trong vòng ngoài đến mấy lớp, lo ngại bảo các tướng:

– Nguyễn Văn Thành ở mặt nam chưa biết chiến sự thắng bại thế nào. Thế quân Tây Sơn rất lớn, quân sĩ có vẻ e ngại. Phép giữ thành không gì bằng giữ lòng quân, nay cần một tướng đem quân ra đánh với Trần Quang Diệu một trận, làm nhụt nhuệ khí của hắn đi. Có thế mới giữ được lòng quân.

Phó Tướng quân Hậu dinh Trần Công Đề bàn:

– Trần Quang Diệu khinh ta, quá lắm. Chi bằng mở cổng thành kéo binh ra quyết chiến một trận. Dẫu không phá được vây cũng lấy lại cái tiếng quân Nam của ta.

Các tướng dinh Ngự Lâm quân là Đô thống chế Tiền đồn Đoàn Văn Cát, Phó Thống chế Tiền đồn Lê Văn Niệm, Phó Thống chế Trung  đồn Hoàng Công Thành, Hậu đồn ĐôThống chế Nguyễn Văn Phát đều xin đánh. Đại Tướng quân Hậu dinh Võ Tánh bàn:

– Quang Diệu ngày đêm vây thành, chỉ mong chúng ta giao chiến để cầu thắng. Nếu đánh ban ngày, chúng dễ biết hư nhược quân ta. Chi bằng đợi đến đêm kéo quân ra tập kích, đốt bộ trại của chúng.

Chúng tướng đều khen phải. Rồi sắp xếp tướng sĩ chuẩn bị kéo ra thành giao chiến. Khiến Phó Tướng quân Hậu dinh Trần Công Đề cùng các Vệ úy Phạm Văn Trường, Nguyễn Công Giao, Nguyễn  Văn Phụng, Ngô Văn Sở đem các vệ quân Hậu dinh làm đạo tiên phong,kéo ra trước để phá lũy. Bốn tướng Đô Thống chế Tiền đồn Đoàn Văn Cát, Phó Thống chế Tiền đồn Lê Văn Niệm, Đô Thống chế Trung đồn Phan Tiến Hoàng, Phó Thống chế Trung đồn Hoàng Công Thành đem quân hai đồn Tiền, Trung Ngự Lâm đi đạo thứ hai đánh Tam Tháp. ĐôThống chế Hậu đồn Nguyễn Văn Phát, Phó Thống chế Hồ Văn Viện đem quân Hậu đồn đi đạo thứ ba làm hậu quân. Phó Tướng quân Hậu dinh Nguyễn Văn Biện, Lưu thủ Nguyễn Văn Thịnh, Cai cơ Nguyễn Tiến Huyên, Cai đội Vũ Viết Bảo lưu giữ thành. Lại khiến Vệ úy  Nguyễn Văn Tường, Vệ úy  Phan Văn Thịnh sắp sẵn ba ngàn quân ở cửa Đông đợi sẵn.

Canh hai đêm ấy, quân Nam từ cửa đông ùa ra phá lũy. Quân canh Tây Sơn bên ngoài đột nhiên bị tập kích, tháo chạy tán loạn. Quân đi tuần nổi chiêng náo hiệu, Đại Đô đốc Lê Danh Phong và Nguyễn Văn Xuân đốc binh đến ngăn cản. Quân Nam tay cầm vũ khí, tay cầm đuốc ùa vào sáp chiến. Đạo quân thứ hai và ba trong thành vẫn nối tiếp nhau kéo về phía Tam Tháp công phá. Thiếu phó Trần Quang Diệu vội phái Đại Đô đốc Trần Đại Cựu, Lê Đình Chính đem thêm binh đến chận đánh, lại khiến bốn tướng Chu Hữu Mỹ, Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Khôn, Nguyễn Hoạch đốc quân công thành. Hai tướng Nguyễn Bá Phong, Vũ Văn Sự thì đem quân cắt đường về thành của quân Nam.

Tướng giữ đồn Tam Tháp bên phía Tây Sơn là [] thấy quân Nam ào đến kinh hoãng. Quân dùng đuốc đốt đồn trại ở Tam Tháp thành tro, lửa sáng rực cả một góc trời. Lát sau quân Tây Sơn kéo đến chặn đường về mặt sau, rồi bủa vây bốn mặt. Quân hai nhà lại giao chiến kịch liệt.

Bấy giờ Đại Tướng quân Võ Tánh đứng trên thành lượt trận, thấy thế quân nhà đã lâm nguy, liền lệnh mở toan của Đông cùng các tướng Vệ úy Nguyễn Văn Tường, Vệ úy Phan Văn Thịnh và Thống binh Cai cơ Nguyễn Tiến Huyên kéo binh ra đột vây. Phó Tướng quân Nguyễn Văn Biện thì bắn pháo hiệu để bên ngoài thu quân về thành. Bấy giờ quân Tây Sơn quyết tận diệt quân Nam, dùng kỵ binh đột trận rất dữ dội, Phó Tướng quân Hậu dinh Trần Công Đề cùng các Vệ úy Phạm Văn Trường,Nguyễn Công  Giao, Nguyễn Văn Phụng, các Phó vệ úy Nguyễn Văn Sĩ, Trần Văn Ất, Nguyễn Văn Đạo, Trương Văn Chử, Phạm Văn Hương, Dương Văn Lộc, Võ Văn Toán, Vũ Hạo lần lượt trúng tên đạn, tử thương tại trận. Các Cai cơ Nguyễn Chử, Phạm Chử, Cai cơHoàng Thận, Bùi Tuấn, Nguyễn Thiệu đều chết trong đám loạn quân. Bên phía quân Ngự Lâm, các tướng Đoàn Văn Cát, Hoàng Công Thành, Nguyễn Văn Phát đều trọng thương. Quân Tây Sơn khóa chặt đường về cửa Đông rất vững, Đại Tướng quân Võ Tánh đốc quân đánh rấn, các tướng Tây Sơn phải thoái lui, quân bên ngoài nhờ vậy thông được đường về thành nhưng các tướng Vệ úy Nguyễn Văn Tường, Phan Văn Thịnh, Chánh trưởng chi [Nguyễn] Hiền, Phó Trưởng chi Phạm Văn Khánh, Nguyễn Văn Cần đều tử trận.

Đại Tướng quân Nguyễn Văn Thành ở bên ngoài thấy có cháy lớn, biết có giao chiến, truyền toàn quân nổi lửa, thúc trống giả cách tiến quân để giải nguy. Đại Tổng quản Trần Quang Diệu thấy quân Nam đã thu quân về hết thành, sợ Nguyễn Văn Thành tập kích ngã ngoài, cũng hạ lệnh thu quân, triệt quân cách thành một dặm đề phòng. Trận kịch chiến này quân Nam trong thành thiệt hơn ba ngàn, bị thương hơn năm ngàn, tướng soái gần hai mươi viên. Bên phía Tây Sơn, đồn Tam Tháp cùng lương thảo ở đấy tan thành tro, tướng sĩ chết và bị thương hơn năm ngàn người. 

Sáng hôm sau Đại Đô đốc Nguyễn Văn Toàn lại đem binh đến đánh cửa Đông thành. Bấy giờ Đô Thống chế Đoàn Văn Cát tuy bị thương vẫn đốc quân giữ cửa thành, vốn có thân với Nguyễn Văn Toàn lúc trước, cất tiếng hỏi:

– Cảnh Thịnh ngu tối, thất bại chỉ trong nay mai. Ông sao chẳng sớm liệu đi?

Đại Đô đốc Nguyễn Văn Toàn có ý thẹn, hạ lệnh lui quân. Thiếu phó Trần Quang Diệu thấy quân trong thành còn vững bèn kéo thêm quân từ hai hướng Tây và Nam về vây giữ mặt Đông thành. Đại Tướng quân Hậu dinh Võ Tánh lên vọng lâu nhìn xuống thấy quân Tây Sơn sau mặt lũy hàng hàng lớp lớp, còn đông hơn trước, thở dài nói với các tướng:

– Trần Quang Diệu không sợ quân trong thành đột kích, hắn không chịu lui binh ra sau mà tăng thêm quân vây thành, ý chừng không xem viện binh của ta ở ngoài ra gì. Nếu đại vương và Nguyễn Văn Thành một mực tiến đánh, ắt trúng phải kế của hắn.

Bèn hỏi ai có thể trốn ra ngoài báo tin, [] xin đi, Đại Tướng quân Hậu dinh Võ Tánh viết thư bọc sáp, sai đem về thủy trại Cù Mông báo với Nam vương Nguyễn Phúc Ánh xin đem viện binh bỏ việc giải vây thành Bình Định mà đánh thẳng ra Phú Xuân.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh hay tin quân trong thành giao chiến với quân của Trần Quang Diệu, tướng sĩ tử thương vô số, sai người đến thúc giục Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành:

– Đại binh tiến đánh đã lâu, tướng quân đánh trận luôn được toàn thắng, nhưng sau lại dừng quân  khiến giặc có dịp đắp thành cao, đào hào sâu tự vệ. Lấy đó mà suy, thì quân ta không sợ đánh không  thắng, chỉ sợ không chịu đánh thôi. Nay trong thành dám xông ra ngoài đánh phá vây là trông cậy có quân  ngoại  viện. Nếu tướng quân cứ dừng quân mãi thì trong ngoài cách hẳn, nhân tâm tất loạn. Tướng quân nên nhắm cơ hội mà tiến đánh để giải bớt lao khổ cho tướng sĩ trong thành, thỏa tấm lòng xa gần quy phụ. Cái công bình định ngày nay trông cả vào tướng quân. Ta đã chỉnh bị thủy binh đợi để tiếp ứng. Nên sớm  liệu đi.

Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành nhận chỉ dụ, đích thân đi tuần để tìm cách tiến đánh. Các tướng Tây Sơn đã rào kín kết mọi lối tiến quân, những nơi hiểm yếu đều lập trại, ngày đêm canh phòng cẩn mật. Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành hết kế, sai Đô Thống chế Tống Viết Phúc và Lê Chất thử tiến binh đánh mặt Vân Sơn và Phú Trung. Quân Tây Sơn ở trên cao giữ vững, dùng súng, gỗ, đá bắn ra như mưa. Hai tướng không tiến binh được lại phải thu binh quay về.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh thấy mặt bộ không thể tiến binh, bèn quyết ý dùng thủy quân phá cửa Thị Nại. Tham mưu Trung dinh Đặng Đức Siêu báo đêm rằm tháng giêng tới sẽ có gió thuận, Nam vương Nguyễn Phúc Ánh triệu Đô Thống chế Lê Văn Duyệt và các tướng thủy quân vào trướng đợi lệnh. Nam vương Nguyễn Phúc Ánh nói:

– Báo đền ơn nước chỉ mỗi ở trận này. Các khanh sống thì cùng nhau hưởng phú quý, chết thì triều đình sẽ hương khói phụng thờ.

Các tướng đều quyết liều chết, xin đi. Đại tướng Trung thủy dinh Vũ Di Nguy xin lãnh hỏa thuyền đi tiền đội, để Đô Thống chế Lê Văn Duyệt ở sau chỉ huy chiến thuyền vào đánh phá. Đô Thống chế Lê Văn Duyệt vốn trọng Vũ Di Nguy, không muốn Vũ Di Nguy mất mạng, xin thay tướng khác. Vũ Di Nguy một mực liều chết xin đi, nói:

– Thần sống đến chừng này tuổi kể đã thọ lắm rồi, nay quyết liều chết với Tây Sơn một trận. Một mạng thần đổi lấy thủy quân Tây Sơn là xứng lắm.

Đô Thống chế Lê Văn Duyệt vứt chiếc đèn báo hiệu thủy quân nơi trướng xuống đất, cố can ngăn:

– Vũ Di Nguy không chịu sửa sang khí giới, dẫu có ham đánh cũng là chết uổng mạng mà thôi, xin cho tướng khác thay thế.

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh đáp:

– Trận này chưa biết ai còn sống hay chết. Lão tướng đã muốn tận trung với triều đình, ta cũng không nên phụ tấm lòng ấy.

Bèn đem ngự tửu ra đích thân rót cho Vũ Di Nguy ba bát lớn uống cạn, còn lại ban thưởng cho các tướng. Đoạn sai Đô Thống chế Lê Văn Duyệt và Thủy dinh Đại Tướng quân Nguyễn Văn Trương điều bát các đạo thủy binh.

Tiền chi Hiệu úy Hoàng Văn Khánh đem ba ngàn thủy binh đi thuyền nhỏ cập bờ, lẻn xuống Da Áo đặt phục binh sau núi. Hễ thấy lửa hiệu ở Tiêu Cơ phát ra thì đánh hãm lũy giặc, không cho bộ binh Tây Sơn kéo đi tiếp cứu thủy trại.

Trần Công Hiến đem ba ngàn thủy binh đi thuyền nhỏ lén đến đồn Tiêu Cơ phóng hỏa, ngăn không cho bộ quân Tây Sơn trên bờ bắn xuống đoàn chiến thuyền Nam Hà.

Tống Phúc Lương, Trần Đăng Long đem mười tám chiến thuyền, sáu ngàn thủy binh, giả cờ hiệu thủy quân Tây Sơn đi tuần, tiến sau Trần Công Hiến, đánh phá bộ trại Tiêu Cơ, tiếp ứng cho thủy quân tiến vào.

Tướng quân Trung thủy dinh Vũ Di Nguy đem mười tám hỏa thuyền đi tiên phong tiến vào thủy trại Tây Sơn ở Thị Nại, dùng câu liêm sắt móc vào chiến thuyền Tây Sơn để kéo hỏa thuyền đâm vào rồi châm lửa đốt. Đô Thông chế Lê Văn Duyệt đem một vạn thủy binh đi đạo thứ hai chỉ huy.

Thủy dinh Đại tướng quân Nguyễn Văn Trương và Nam vương Nguyễn Phúc Ánh đem hai vạn thủy binh đi đạo thứ ba, đợi lệnh của Đô Thống chế Lê Văn Duyệt.

Giám quân Thần sách dinh Chưởng cơ Phạm Văn Nhân và Nhị hoàng tử Nguyễn Phúc Hy ở nhà giữ thủy trại Cù Mông

Nam vương Nguyễn Phúc Ánh cho người đi Vân Sơn báo tin cho Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành, hẹn đến đêm trung tuần tháng giêng khi thấy hiệu lửa Tiêu Cơ phát ra thì xuất binh đánh mặt bộ để chia binh thế trên bộ của Tây Sơn.

Đêm trung tuần tháng giêng, ánh trăng vằng vặt, gió nam trở chiều thổi về hướng đông bắc. Đô Thống chế Tả dinh Thần sách Lê Văn Duyệt lệnh cho Trần Công Hiến đem thủy binh nhắm hướng bộ trại Tiêu Cơ tiến phát. Trần Công Hiến đích thân đi trước, quân sĩ đều cải trang quân phục của Tây Sơn tiến vào đổ bộ. Đến độ canh ba thì tiến sát trại Tiêu Cơ, gặp quân Tây Sơn do Đô ty Nguyễn Văn Độ đi tuần. Trần Công Hiến vẫy quân tiến sát, Đô ty Nguyễn Văn Độ tưởng toán quân khác đến đổi canh, bị Trần Công Hiến bắt sống. Đám quân theo tuần cũng bị bắt hết, không một người nào thoát chạy về báo tin. Trần Công Hiến tra hỏi, biết được mật khẩu, lập tức cho người về sau báo Đô Thống chế Lê Văn Duyệt và Thuỷ dinh Đại Tướng quân Nguyễn Văn Trương, thúc tiến binh.

Đô Thống chế Lê Văn Duyệt được tin lập tức ra lệnh tiến quân. Đại tướng Trung thủy dinh Vũ Di Nguy đem đoàn hỏa thuyền tiến trước, Lê Văn Duyệt cùng các tướng tiến cách sau một quãng, hai đạo nhắm hướng thủy trại Tây Sơn ở Thị Nại Khẩu thẳng tiến. Thủy dinh Đại Tướng quân Nguyễn Văn Trương và Nam vương Nguyễn Phúc Ánh huy động đại đội chiến thuyền đi sau cùng.

Bấy giờ thủy quân Nam Hà do hai tướng Tống Phúc Lương và Trần Đăng Long đã đổ bộ lên bờ phục bên ngoài trại Tiêu Cơ. Trần Công Hiến thấy quân nhà đã đến tiếp ứng, lập tức sai quân châm lửa phóng hỏa đốt Tiêu Cơ cháy bùng lên như đuốc. Quân sĩ Tây Sơn canh giữ trại bị bất ngờ, hoảng loạn, ùa ra ngoài chống đánh.

Đại Đô đốc Vũ Văn Thành ở thủy trại thấy Tiêu Cơ phát hỏa, biết quân Nam phục kích, tiếp quân vào báo, thủy binh Nam Hà đang thẳng tiến vào cửa thủy trại, lập tức báo động toàn thủy trại. Đô đốc [Nguyễn Văn] Trà nói:

– Tiêu Cơ là nơi quân giặc phải tranh trước khi đánh thủy trại, xin cho tôi lãnh quân đi cứu.

Đại Đô đốc Vũ Văn Thành liền phát cho Đô đốc [Nguyễn Văn] Trà năm ngàn quân đi cứu Tiêu Cơ, lại cho người đi báo quân giữ Phương Mai chuẩn bị đón đánh đòn chiến thuyền Nam Hà tiến vào phá thủy trại.

Đại Tư đồ Vũ Văn Dũng thấy Tiêu Cơ bốc cháy, gió nam đã chuyển hướng, biết mình trúng kế lập tức kéo quân về cứu ứng thủy trại.. Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành thấy lửa Tiêu Cơ phát ra, lệnh cho Tống Viết Phúc, Lê Chất, Nguyễn Văn Tánh, Trương Tấn Bửu, Nguyễn Đức Xuyên chia năm đường tiến đánh bộ trại Tây Sơn ở mặt nam. Thiếu phó Trần Quang Diệu nghe tin cấp báo, lệnh cho toàn quân nghiêm giữ trận, không được vọng động lại cho triệt quân ở bốn cổng thành ra sau một dặm, phục sẵn hai bên đường đề phòng quân Võ Tánh ở trong kéo ra tập kích .

Tướng giữ Tiêu Cơ là Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ sau phút bất thần, lập tức chỉ huy quân giữ vững trại, rồi dẫn tinh binh ra ngoài đón đánh Trần Công Hiến. Bên trong các thuộc tướng dựng lại súng thần công, chỉ huy binh sĩ nhắm vào đoàn hỏa thuyền của Vũ Di Nguy rãi đạn pháo xuống như mưa. Đại tướng Trung thủy dinh Vũ Di Nguy trúng đạn pháo bay mất đầu, ngã xuống nước chết tốt. Viên phó tướng đi theo hoảng sợ, lệnh dừng đoàn hỏa thuyền xin tháo lui. Đô Thống chế Lê Văn Duyệt hay tin, sai quân sĩ thuộc quyền cầm gươm lệnh của mình đến trước lập tức chém đầu thị uy, đốc thúc toàn quân mặc súng đạn, tiến nhanh về hướng thủy trại Tây Sơn.

Thi sĩ Ngô Giáp Đậu có thơ khenĐại Tướng Trung thủy dinh Vũ Di Nguy:

            Ngũ doanh lâu lỗ trùng thành ngoại

                Vạn khoảng ba đào nhất trận trung

                Hùng khái dục lăng Lê Tả tướng

                Chiến tranh tâm phó Nguyễn Tiên phong

Tạm dịch:

            Chiến thuyền lớp lớp như thành lũy

                Sóng biển dâng tràn chực đổ tung

                Hùng khí muốn trên Lê tả tướng[3]

                Đọ tài nào kém Nguyễn tiên phong[4]

Bấy giờ Đại Tư đồ Vũ Văn Dũng sai Đô đốc Nguyễn Hoạch kéo quân đi trước, còn cách Tiêu Cơ nửa dặm đường thì phục binh hai tướng Tống Phúc Lương và Trần Đăng Long nổi lên đánh cắt vào đội hình. Thế là trên bộ, quân hai nhà lại lao vào giao chiến ác liệt trên bãi cát.

Tư khấu [Phạm Công] Định thấy lửa ở Tiêu Cơ vẫn còn bốc cháy biết quân nhà ở đấy lâm nguy, liền cho người đi cứu ứng. Bấy giờ Đô đốc [Nguyễn Văn] Trà kéo quân từ thủy trại Thị Nại lên bộ tiếp ứng cho Tiêu Cơ, vừa qua hẽm núi thì quân phục của Hiệu úy Hoàng Văn Khánh đổ ra chém giết. Đô đốc [Nguyễn Văn] Trà trở tay không kịp bị giết ngay giữa trận. Toán quân cứu ứng tan vỡ bỏ chạy.

Hiệu úy Hoàng Văn Khánh, Trần Công Hiến hợp quân, theo đường bộ kéo về phía sau thủy trại Tây Sơn ở Thị Nại phóng hỏa, toàn quân đều lớp cầm gươm, lớp cầm súng hỏa mai chĩa thẳng về trước. Đại Đô đốc Vũ Văn Thành truyền quân sĩ cứ việc giữ vững thủy trại,  rồi kéo chiến thuyền ra ngoài thủy trại đón đánh thủy binh Nam Hà.

Bấy giờ đoàn hỏa thuyền Nam Hà đã tiến sát vào cửa thủy trại Thị Nại. Pháo từ trên các đại thuyền Định Quốc cùng hai hỏa đài Tiêu Cơ, Phương Mai bắn ra như mưa, quân sĩ Nam Hà trúng đạn tử thương rất nhiều. Phó Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thư đốc đoàn hỏa thuyền đâm vào các đại thuyền Định Quốc, các thuyền khác thì chia nhau tìm ngã rẽ chạy vào thủy trại. Đại tướng Tiền thủy dinh Nguyễn Văn Huấn, Phó tướng Tiền thủy dinh Hoàng Văn Định, Phó tướng Tả thủy dinh Nguyễn Hữu Nghị, Vệ úy Nguyễn Vĩnh Hựu, Chánh Tiền chi Tiền thủy dinh Nguyễn Văn Cẩm, Phó Hậu chi Trung thủy dinh Nguyễn Văn Liễu,Trần Văn Đạolần lượt trúng đạn pháo rơi xuống biển mà chết. Phó Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thư cùng hai em trai cũng dính đạn tử thương. Cả một cửa biển sáng rực lửa, tiếng súng lẫn tiếng hò hét vang vọng, khói lửa mịt mù.

Đại Đô đốc Vũ Văn Thành lệnh kéo các chiến thuyền ra ngoài để yểm trợ cho các đại thuyền. Bấy giờ các đại thuyền Định Quốc có mạn thành cao, bọc đồng vẫn chưa trúng hỏa. Đích thân Đại Đô đốc Vũ Văn Thành lên mạn thuyền Định Quốc chỉ huy tướng sĩ chống trả.

Đô Thống chế Lê Văn Duyệt lệnh cho các chiến thuyền thuộc đạo quân của mình tiếp tục tiến vào, lại giục Đại Tướng quân Thủy dinh Nguyễn Văn Trương đốc thủy binh tiến mau tiếp ứng. Nam vương Nguyễn Phúc Ánh thấy tướng sĩ tử thương quá nhiều, sai người đến truyền lệnh cho Lê Văn Duyệt tạm lui quân. Đô Thống chế Lê Văn Duyệt thề chết không chịu lui, thúc quân tiến đánh hăng hơn. Bây giờ hai đạo chiến thuyền Nam Hà dưới quyền Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Trương thi nhau ùa vào tiến đánh thủy trại Tây Sơn đông như kiến.

Thủy dinh Đại Tướng quân Nguyễn Văn Trương sai quân sĩ dùng hỏa đuốc quăng lên các đại thuyền Định Quốc, hỏa thuyền thì đâm vào các chiến thuyền Tây Sơn. Khói lửa bùng lên, hai bên súng thần công từ các pháo đài Tiêu Cơ và Phương Mai vẫn nhằm bắn vào thủy quân Nam Hà. Chiến thuyền Tây Sơn chen nhau ở cửa thủy trại chật hẹp, khó bề xoay trở lại bị gió đông bắc thổi đến, lần lượt bốc cháy, hai đại thuyền Định Quốc cũng lần lượt bốc hỏa. Đại Tư đồVũ Văn Dũng bấy giờ đã đánh tan quân của Tống Phúc Lương và Trần Đăng Long ở trên bộ kéo đến dàn trận trên bờ. Biết thế trận thủy quân đã vỡ, lập tức truyền thủy quân bỏ thuyền lên bộ. Đại Đô đốc Vũ Văn Thành sai người lên bờ báo tin:

– Toàn bộ thủy quân nằm ở trong tay tôi. Văn Thành naychỉ biết lấy cái chết đền nợ nước.

Chỉ trong canh giờ,hai chiếc đại thuyền Định Quốc cháy bùng lên rồi chìm hẳn, thủy quân Tây Sơn rối loạn. Đô Thống chế Lê Văn Duyệt và Đại Tướng quân Thủy dinh Nguyễn Văn Trương đốc thúc đại đội thủy quân tiến vào bắn phá. Thủy trại Tây Sơn tan hoang, các chiến thuyền lớp bốc cháy, lớp trúng đạn pháo chìm hẳn. Các tướng thủy quân Tây Sơn vẫn còn cố sức chống cự thêm hơn hai canh giờ nữa mới chịu triệt quân lên bộ. Thế là toàn bộ thủy quân Tây Sơn ở Thị Nại sau một đêm đã tan thành tro bụi, toàn bộ lương thảo, khí giới, tài vật đều chôn vùi sâu dưới đầm nước. Quân sĩ thiệt gần hai vạn, chiến thuyền lớn nhỏ mất gồm một vạn tám ngàn chiếc. Bên phía Nam Hà, dẫu thắng trận nhưng cũng thiệt hơn sáu ngàn binh sĩ, vài mươi viên chiến tướng tử trận vùi xác dưới đáy biển. Trận này được người đời sau gọi là Thiên hạ đệ nhất vũ công.

Sau này Đại Tướng quân Tiền dinh Nguyễn Văn Thành có làm bài văn tế tướng sĩ trận vong trong trận thủy chiến Thị Nại. Bài văn tế ấy như sau:

Văn tế tướng sĩ trận vong

Than ôi!

 Trời Đông Phố vận ra Sóc Cảnh[5], trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay;

Nước Lô hà chảy xuống Lương giang[6], nghĩ mấy kẻ điêu linh[7] những từ thuở nọ,

Cho hay sinh là ký mà tử là quy; mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.

Xót thay! Tình dưới viên mao[8], phận trong giới trụ[9].

Ba nghìn họp con em đất Bái, cung tên ngang dọc chí nam nhi;

Hai trăm vây cờ cõi non Kỳ[10], cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ.

Dấn thân cho nước, son sắt một lòng;

Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sơn mấy độ.

Kẻ thời theo cơ đích [11] chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây[12] thề chẳng đội trời chung;

Kẻ thời đón việt mao [13] trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc[14] quyết thu về đất cũ.

Nằm gai nếm mật [11], chung nỗi ân ưu;

mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.

Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh, Thuận [12],

đã mấy buổi sơn phong hải lễ [13], trời Cao, Quang [14] soi tỏ tấm kiên trinh,

rồi lai từ Đồn Bàn, Nam, Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long [15],

biết bao phen vũ pháo vân thê [16], đất Lũng, Thục [17] lăn vào nơi hiểm cố.

Phận truy tùy, ngẫm lại cũng cơ duyên;

trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.

Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng [18] theo đạn lạc tên bay;

kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa [19] mặc bèo trôi sóng vỗ.

Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc [20], mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương [21];

mặt chinh phụ khôn vẽ nét gian nan, lập lòe lửa trời, soi chừng cổ độ [22]. 

Ôi!

Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu [23],

nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ [24].

Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có,

nợ áo cơm phải trả đến hình hài; những là khen dạ đá gan vàng,

bóng bạch câu [25] xem nửa phút như không, ơn dầy đội cũng cam trong phế phủ [26].

Phận dù không gác khói đài mây [27]; danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.

Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chả quản ngàn sương đệm giá,

những chờ xem cao thấp bức cân thường [28]; tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng,

kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn Vũ lộ [29]. 

Vâng thượng đức hồi loan[15] tháng trước,

Đoàn ứng nghĩa dẫn Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh[16] cũng vậy,

Giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang;

Mà những người từng thượng trận ngày xưa,

Dắp tấu công tự ngọ, vị, thân, dậu[17] đến giờ,

Treo tính tự để nằm trong lá số.

Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui; dịp trống dồn hoa; chốn tươi chốn ủ.

Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt,

Cái sinh không, cái tử cũng là không;

Nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng,

Phân thủy có phận chung sao không có[18]. 

Bản chức nay,

Vâng việc biên phòng, chạnh lòng niềm viễn thú.

Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh;

Trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió.

Bâng khuâng kẻ khuất với người còn; tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.

Nền phủ định[19] tới đây còn xốc nỗi, vu lòng một lễ, chén rượu thoi vàng;

chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ,

có cảm thông thì tới đó khuyên mời; dù linh thinh hãy nghe lời dặn dỗ.

Buổi chinh chi

0