05/02/2018, 12:21

Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu – Bài tập làm văn số 3 lớp 11

Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu – Bài tập làm văn số 3 lớp 11 4.38 (87.5%) 8 đánh giá Xem nhanh nội dung1 Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 2 Vẻ ...

Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu – Bài tập làm văn số 3 lớp 11 4.38 (87.5%) 8 đánh giá Xem nhanh nội dung1 Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 2 Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 2 3 Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 3 Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 Bài làm Trong văn học trung đại, do hạn chế về tư tưởng, những tác phẩm viết về người nông dân còn vô cùng hiếm hoi và chưa thực sự giành được nhiều thành công. Đến Nguyễn Đình Chiểu – ngọn cờ tiêu biểu của nền văn học yêu nước chống ngoại xâm đầu thế kỉ XX, ông đã rất thành công khi xây dựng hình tượng người nghĩa sĩ yêu nước trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Qua đây, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, vẻ đẹp người nông dân mới hiện lên trọn vẹn và sâu sắc. Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc được tác giả viết sau đêm ngày 14 tháng 12 năm 1861, đêm những người nghĩa sĩ cần Giuộc tấn công vào đồn giặc: cuộc khởi nghĩa thất bại, 21 nghĩa sĩ đã hi sinh. Vói bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, văn chương có cái nhìn tiến bộ, mới mẻ về hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân. Nguyền Đình Chiếu đã khắc hoạ được một tượng đài nghệ thuật bất hủ “Vô tiền khoáng hậu” sừng sững trang trọng về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có của họ ở ngoài đời – những người nông dân xây dựng và bảo vệ, đánh giặc cứu nước. Hình ảnh của những người nông dân là vấn đề trung tâm của bài văn tế, là đối tượng ngưỡng mộ, yêu mến, tiếc thương đồng thời cũng là linh hồn của tác phẩm. Có thể nói toàn bộ bài văn tế là ca khúc bi tráng về những người nghĩa sĩ nông dân xả thân vì đất nước tuy “thất thế” nhưng vẫn “hiên ngang”. Người nông dân được tác già eiới thiệu trong tác phẩm là nhừng người nông dân hết sức bình thường vô danh. Tnrớc khi thực dân Pháp sang xâm lược, họ là nhừng người nông dân thuần tuý, chắt phác, cần cù, giản dị, cuộc đời nđièo khô, hiên lành, chịu thương chịu khó: “Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”. Gánh nặng cuộc đời đè lên đôi vai nhỏ bé, gầy yếu của họ. Cả đời của họ đâu có ra khỏi lũy tre làng, chỉ quanh quẩn với những con trâu, với cánh đồng quê. Họ sống trong nền nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn giữa thế kỷ XIX: “chỉ biết mộng trâu”. Đặc biệt, ngay từ những dòng đầu tiên của bài văn tế, Nguyền Đình Chiểu đã khẳng định, ghi công những người nông dân ở khía cạnh mà bây lâu nay lịch sử chưa bao giờ thừa nhận: “Mười năm công vỡ lượng chưa chắc còn danh nỗi tợ phao”. Đó là công lao lao động và sản xuất của cải vật chất để duy trì và phát triển đời sống dân tộc. Một đất nước sống dựa vào nông nghiệp như Việt Nam thì lực lượng sản xuất chủ yếu là ai nếu không phải là nhừng người nông dân lam lũ, chịu thương chịu khó? Nhưng chưa khi nào lịch sử thừa nhận điều ấy. Ngợi ca sự phát triển của đất nước người ta chỉ hô tụng những bậc minh quân, thiên tử: Đời vua Thái tô, Thái tông Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn, Không ai nhắc đến những khổ cực một nắng hai sương, đầu tắt mặt tối của người dân lao động. Những người nông dân, vẻ đẹp đầu tiên hiện lên từ họ là vẻ đẹp của những con người lao động âm thầm cống hiến, mang lại sự sống, sự phát triển cho hàng ngàn năm đất nước. Cũng chính bởi sự chất phác, quanh năm “chỉ biết ruộng trâu” nên họ đâu biết gì về quân sự, về chiến đấu “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, “mắt chưa từng ngó” những cung kiếm, đao gươm chiến đấu. Thế mà những con người như vậy khi thực dân Pháp xâm lược, họ phấp phổng lo âu trông mong vào triều đình đợi chờ lệnh chiến đấu. Bị vua quan bỏ rơi, họ đã dám một mình đứng lên chống lại kẻ thù, nhận lấy trách nhiệm cứu nước thiêng liêng một cách tự nguyện để bảo vệ độc lập: “Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Do đâu mà họ có sức mạnh, tinh thần tự nguyện ấy? Đó chỉ có thể là lòng yêu nước thiết tha máu thịt, lòng căm thù giặc khôn nguôi quyết không đội trời chung với chúng. Đã ba năm giặc tới xâm lược, mười tháng giặc đóng đồn “bòng bong che trắng lốp”, “ống khói chạy đen xì” người nông dân lòng đầy căm thù, “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Chẳng thấy vua quan đâu, họ đã tự ý thức được sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc mình, họ tự đứng lên đánh giặc chỉ với những trang bị vũ khí vô cùng thô sơ và thiếu thốn. Họ không phải là lính chính qui của triều đình, chưa từng được tập luyện, chưa được võ trang. Họ chiến đấu bằng những gì vẫn dùng trong sinh hoạt hàng ngày, trong sản xuất: Ngoài cật có một manh ảo vải, nào đợi mamg bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tâm vông, chỉ nài săm dao tu nón gõ. Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi (…) gươm đeo dung bằng lưỡi dao phay. Những vũ khí thô sơ phải chống chọi với những vũ khí tối tân: “súng”, “tàu sắt”, ‘tàu đồng”, “đạn to”, “đạn nhỏ”; quả là trứng chọi với đá! Bù lại, những người lính nông dân có dũng khí, có lòng quả cảm vô song – một thứ vũ khí sắc bén nhất. Họ có tinh thần dám đánh, dám hi sinh của người nghĩa sĩ. Khi vào trận với những quân trang, vũ khí ấy, chắc chắn họ biết sẽ có hi sinh tổn thất nhưng không vì thế mà họ lùi bước, khuất phục. Ngược lại, tất cả xin “ra tay, ra sức”, dâng hết sức mình cho Tố quốc. Đó là một tấm lòng cao cả, một khí phách hiên ngang, là ý thức, trách nhiệm lớn lao với đất nước. Dù chỉ có vũ khí thô sơ nhưng những người nghĩa sĩ vẫn sẵn sàng ra trận, địch lại với những súng ống, tàu xe: "Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trong giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ở sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ. Những nghĩa sĩ đã dũng cảm xông vào trận mạc, xả thân không chút mưu lợi đắn đo, tất cả họ đều tự nguyện: “nào đợi ai đòi, ai bắt”, “chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ” dù với trang bị thô sơ. Nhưng hãy xem họ vào trận, bao nhiêu lời văn là bấy nhiêu chất hùng ca, hừng hực khí phách, rực lửa chiến đấu của một trận chiến quyết liệt, hào hùng. Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân ở đây đã hiện lên thành một anh hùng lồng lộng giữa đất trời, giữa chiến trường. Hình ảnh ấy đã làm chủ trận chiến lớn lao mãnh liệt, nó áp đảo tất cả. Với những vũ khí thô sơ của mình, họ đã làm nên sức mạnh như vũ bão, hiếm có: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang”, “chém ngược”. Họ đã ghi được những chiến công oanh liệt như đốt nhà dạy đạo, chém đầu quan hai, làm giặc kinh hãi vô cùng “mã tà ma ní hồn kinh”. Cà đoàn văn là một bức tranh công đồn hào hùng tuyệt đẹp, gợi lên cảnh chiến đấu hào hùng mạnh mẽ, quyết chiến quên mình vì nước. Họ hi sinh với một quan niệm sống vô cùng cao đẹp ‘Thà chết vinh còn hơn sống nhục”, “thà chết đứng còn hơn sống quỳ”. Họ thà hi sinh còn hơn là phải sống với giặc, quyết không đội trời chung với giặc. Đó cũng chính là truyền thông tốt đẹp của dân tộc ta không bao giờ chịu khuất phục. Mặc dù họ đã mất đi nhưng nỗi lo “binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đò”. Với những lời văn hào sảng, khí thế, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một bức tranh công đồn hào hùng, anh dũng của người nông dân. Thật vậy, lịch sử không chỉ cố tình bỏ quên công lao dựng nước mà còn ấu trĩ vì hiếm khi nhắc đến vai trò giữ nước của những con người quả cảm ấy. Không có họ ngã xuống, tuôn máu, liệu có được những Bạch Đằng, liệu có những Chi Lăng… lẫy lừng vang dội? Nhưng những gì được ghi nhận chỉ còn là những cái tên tướng tên vua… ở một khía cạnh nào đó, lời than “Giãi thây trăm họ làm công một người” đã đúng khi nói về sự lãng quên đối với người nông dân nghĩa sĩ. Sau trận đánh, một kết cục bi thảm đã diễn ra – kết cục đã được biết trước: Họ – những con người yêu nước – đã anh dũng hi sinh: “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây”. Cái chết nhẹ tựa lông hồng mà hiên ngang, lẫm liệt. Ra đi, họ vẫn còn lo cho nước, cho dân, họ vẫn còn tiếp tục chiến đấu. Tình cảm thiêng liêng cảm động ấy còn theo họ đến tận chốn thiên đường đầy ánh sáng. Đọc những dòng văn như thế không ai nén nỗi rưng rưng, ngậm ngùi: “Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được trả thù kia”. Họ không còn nữa nhưng ý chí của họ, tấm gương về họ vẫn còn mãi để nêu gương cho người sống, động viên cổ vũ mọi người tiếp tục chiến đấu để trả thù quân xâm lược. Những người nghĩa sĩ cần Giuộc, ta đã bắt gặp lại hình ảnh họ đâu đó nơi những chiến sĩ “năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt. Gan không núng chí không sờn” làm nên trận Điện Biên Phủ lẫy lừng; hay những con người chống Mĩ quả cảm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai”,… Người nghĩa sĩ nông dân cấp Giuộc đã mất đi song hình ảnh văn còn mãi mãi. Họ đà trở thành bất hủ, danh tiết của họ rạng rỡ muôn đời, tên tuổi họ trở thành bất tử. Họ là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa yêu nước. Viết về những người nghĩa sĩ nông dân bỏ mình vì quê hương, đất nước, tác phẩm chứa đựng bao nỗi xót xa, thương cảm của tác giả. Lòng tiếc thương của tác giả thật vô hạn. Từ việc thương cho số phận của người nông dân “cui cút làm ăn” trong đời thường đến thương cho họ phải chết một cách oan uổng trong cuộc chiến đấu không cân sức. “Đoái sông cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sâu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ”. Nhà thơ và tất cả mọi người đều khóc vì thương xót cho số phận người nghĩa sĩ. Không những thế nhà thơ còn xót thương cho những người còn sống: “Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều, não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xé dật dờ trước ngõ”, đã thể hiện lòng thương tiếc của tác giả thật chân tình, tha thiết và cảm động. Ông còn chia sẻ nỗi đau với họ. Với Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, Nguyền Đình Chiểu đã bất tử hóa hình tượng người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Ông đã xây dựng được bức tượng đài nghệ thuật bất hủ về người nghĩa sĩ nông dân hiên ngang, dũng cảm trong tác phẳm của mình. Bài văn tế như một cái mốc, một minh chứng về tấm lòng yêu nước, về phẩm chất của người nông dân lao động. Bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyền Đình Chiểu xứng đáng là một “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Nó xứng đáng là một khúc ca hùng tráng của nền văn học Việt Nam. Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 2 Nguyễn Đình Chiểu được đánh giá là một ngôi sao sáng trren bầu tời văn học Việt Nam với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Một trong số đó là văn tế ngiã sĩ Cần Giuộc. Ở đó, hình tượng người nông dân nghĩa sĩ được xây dựng rất thành công với tất cả phẩm chất tốt đẹp. Vì sao lại có hình tượng người nông dân nghĩa sĩ. Bởi họ “vốn chẳng phải quân cơ quân vệ theo dòng ở lính diễn binh” mà “ chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Đó vốn là những người nông dân hiền lành chất phát quanh năm “ chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ”. Cuộc sống của ho vốn bình yên giản dị. Nhưng khi đât nước bị giặc pháp xâm lược, chút bình yên cuối cùng trong cuộc sống của họ cũng bị đạp đổ thì người nông dân đã đứng lên đâu tranh đánh đưởi quân xâm lược, bảo vệ đât nước, bảo vệ bình yên trên mỗi nếp nhà của chính họ và trở thành những người nông dân nghĩa sĩ. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một bức tượng đài bất hủ và hoàn thiện hất về người nông dân nghĩa sĩ. Trước khi có hiến sự, họ là những người nông dân cần cù chất phác với cuộc sống chỉ có “ việc cày, việc cấy, việc cuốc, việc bừa, tay vốn quên làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngõ”Con người và cuộc sống của họ thật sự hết sức hiền lành và giản dị. Nhưng khi có thực dân Pháp tràn vào nước ta thì mọi thứ lại có sự xáo trộng. Trong tư tưởng, thái độ, tình cảm của người nông dân nghĩa sĩ đã xuất hiện những nét mới. Họ ngày ngày lo lắng trông chờ tin tức của triều đình” trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Trong lòng họ giấy lên nỗi căm phẫn, căm thù giặc cao độ: “ bưax thấy bòng bong cho trắng lốp muốn tới ăn gan, ngày xem ống khõi chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Với tinh thần đó, họ đã có ý thức tự nguyện ra trận đánh giặc, bảo vệ đât nước” Nào đợi ai đoi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn lình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tat bộ hổ”. Từ những người nông dân hiền lành chất phác quanh năm “ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, họ trở thành người nghĩa sĩ đánh giặc dũng cảm:” mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn, chín chục tận binh thư không chờ bày bố”, “ ngoài cật mang một manh áo vải nào đợi mạng bao tấu, bầu ngoi, trong tay cầm một ngọn tầm vôn chi nài sắm sao tu ngón gõ”. Chiến đáu trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn như thế nhưng họ chẳng bao giờ nhụt chí, luông quyết tâm đánh đuổi kẻ thù, “ coigiặc cũng như không, nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. Và cuối cùng dù hi sinh nhưng cái chết của những người nông dân nghĩa sĩ thật cao thượng và đáng tự hào “ một trận ngiã đánh tây, tuy là mât tiếng vang như mõ”. Hình tượng người nông dân ngiã sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã truyền lại cho thế hệ trẻ tiếp sau tinh thần và ý chí quyết tâm xây dựng và bảo vệ đất nước vững bền. Hình tượng đó cũng được các nhà văn thế hệ tiếp nối như Ngô Tất Tố, Nam Cao tiếp tục thể hiện, phát triển, hoàn thiện trong suốt tiến trình lịch xử văn học nước nhà. Có thể nói nếu như văn ttế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong nững tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và nền văn học giai đoạn cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX nói chung, thì hình tượng nhân vật người nghĩa sĩ chính là cốt lõi làm nên sự thầnh công đó. Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 3 Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước dùng con mắt yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước. Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại: Hỡi ôi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ Họ đâu đã quen nghi tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ lẫm. Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruống, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu: “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…” Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đển tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan. Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắng đuổi hươu Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó” Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiên họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không. Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lường, chênh lệch với kẻ thù “Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ” Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động (hè trước, ó sau…) những động tác quyết liệt (đốt, chém…). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy , lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lí sống phù hợp đến muôn đời: “Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà c chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ” Tinh thần ấy, ý chí ấy vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc. “Ôi thôi thôi!” Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nới chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm “Đau đơn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trứơc ngõ” Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong.. “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ” Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị. Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù – “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sống. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời. Từ khóa tìm kiếm:vẻ đẹp hình tượng người nông dân trong văn tế nghĩa sĩ cần giuộcvẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong văn tế nghĩa sĩ cần giuộcvẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểuviêt văn về đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuôc của Nguyễn đình chiểucảm nhận của em về vẻ đẹp người nông dân nghĩa sĩ trong bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộchình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong văn tế Bài viết liên quanSo sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” trích trong “Truyện Kiều” – Bài tập làm văn số 3 lớp 11Nguyễn khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ có điểm khác nhau như thế nào? Hãy làm rõ ý kiến của mình? – Bài tập làm văn số 3 lớp 11Những cảm nhận sâu sắc của anh chị qua tìm hiểu cuộc đời nhà văn Nguyễn Đình Chiểu – Bài tập làm văn số 3 lớp 11Bài tập trắc nghiệm GDCD lớp 12 Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội (phần 1)Đề kiểm tra Hóa học lớp 11 số 3 (tiếp)Bình luận câu nói của F.Sile: Tình yêu là niềm say mê đem lại hạnh phúc cho người khácĐề luyện thi đại học môn Địa lý số 4Bài tập trắc nghiệm Hóa học lớp 12 Bài 13: Đại cương về polime (Tiếp theo)

Xem nhanh nội dung

Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong "Văn tế  nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1

Bài làm

Trong văn học trung đại, do hạn chế về tư tưởng, những tác phẩm viết về người nông dân còn vô cùng hiếm hoi và chưa thực sự giành được nhiều thành công. Đến Nguyễn Đình Chiểu – ngọn cờ tiêu biểu của nền văn học yêu nước chống ngoại xâm đầu thế kỉ XX, ông đã rất thành công khi xây dựng hình tượng người nghĩa sĩ yêu nước trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Qua đây, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, vẻ đẹp người nông dân mới hiện lên trọn vẹn và sâu sắc.

Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc được tác giả viết sau đêm ngày 14 tháng 12 năm 1861, đêm những người nghĩa sĩ cần Giuộc tấn công vào đồn giặc: cuộc khởi nghĩa thất bại, 21 nghĩa sĩ đã hi sinh. Vói bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, văn chương có cái nhìn tiến bộ, mới mẻ về hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân. Nguyền Đình Chiếu đã khắc hoạ được một tượng đài nghệ thuật bất hủ “Vô tiền khoáng hậu” sừng sững trang trọng về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có của họ ở ngoài đời – những người nông dân xây dựng và bảo vệ, đánh giặc cứu nước. Hình ảnh của những người nông dân là vấn đề trung tâm của bài văn tế, là đối tượng ngưỡng mộ, yêu mến, tiếc thương đồng thời cũng là linh hồn của tác phẩm. Có thể nói toàn bộ bài văn tế là ca khúc bi tráng về những người nghĩa sĩ nông dân xả thân vì đất nước tuy “thất thế” nhưng vẫn “hiên ngang”.

Người nông dân được tác già eiới thiệu trong tác phẩm là nhừng người nông dân hết sức bình thường vô danh. Tnrớc khi thực dân Pháp sang xâm lược, họ là nhừng người nông dân thuần tuý, chắt phác, cần cù, giản dị, cuộc đời nđièo khô, hiên lành, chịu thương chịu khó: “Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”. Gánh nặng cuộc đời đè lên đôi vai nhỏ bé, gầy yếu của họ. Cả đời của họ đâu có ra khỏi lũy tre làng, chỉ quanh quẩn với những con trâu, với cánh đồng quê. Họ sống trong nền nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn giữa thế kỷ XIX: “chỉ biết mộng trâu”. Đặc biệt, ngay từ những dòng đầu tiên của bài văn tế, Nguyền Đình Chiểu đã khẳng định, ghi công những người nông dân ở khía cạnh mà bây lâu nay lịch sử chưa bao giờ thừa nhận: “Mười năm công vỡ lượng chưa chắc còn danh nỗi tợ phao”. Đó là công lao lao động và sản xuất của cải vật chất để duy trì và phát triển đời sống dân tộc. Một đất nước sống dựa vào nông nghiệp như Việt Nam thì lực lượng sản xuất chủ yếu là ai nếu không phải là nhừng người nông dân lam lũ, chịu thương chịu khó? Nhưng chưa khi nào lịch sử thừa nhận điều ấy. Ngợi ca sự phát triển của đất nước người ta chỉ hô tụng những bậc minh quân, thiên tử:

Đời vua Thái tô, Thái tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn,

Không ai nhắc đến những khổ cực một nắng hai sương, đầu tắt mặt tối của người dân lao động.

Những người nông dân, vẻ đẹp đầu tiên hiện lên từ họ là vẻ đẹp của những con người lao động âm thầm cống hiến, mang lại sự sống, sự phát triển cho hàng ngàn năm đất nước.

Cũng chính bởi sự chất phác, quanh năm “chỉ biết ruộng trâu” nên họ đâu biết gì về quân sự, về chiến đấu “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, “mắt chưa từng ngó” những cung kiếm, đao gươm chiến đấu. Thế mà những con người như vậy khi thực dân Pháp xâm lược, họ phấp phổng lo âu trông mong vào triều đình đợi chờ lệnh chiến đấu. Bị vua quan bỏ rơi, họ đã dám một mình đứng lên chống lại kẻ thù, nhận lấy trách nhiệm cứu nước thiêng liêng một cách tự nguyện để bảo vệ độc lập: “Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

Do đâu mà họ có sức mạnh, tinh thần tự nguyện ấy? Đó chỉ có thể là lòng yêu nước thiết tha máu thịt, lòng căm thù giặc khôn nguôi quyết không đội trời chung với chúng. Đã ba năm giặc tới xâm lược, mười tháng giặc đóng đồn “bòng bong che trắng lốp”, “ống khói chạy đen xì” người nông dân lòng đầy căm thù, “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Chẳng thấy vua quan đâu, họ đã tự ý thức được sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc mình, họ tự đứng lên đánh giặc chỉ với những trang bị vũ khí vô cùng thô sơ và thiếu thốn. Họ không phải là lính chính qui của triều đình, chưa từng được tập luyện, chưa được võ trang. Họ chiến đấu bằng những gì vẫn dùng trong sinh hoạt hàng ngày, trong sản xuất:

Ngoài cật có một manh ảo vải, nào đợi mamg bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tâm vông, chỉ nài săm dao tu nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi (…) gươm đeo dung bằng lưỡi dao phay.

Những vũ khí thô sơ phải chống chọi với những vũ khí tối tân: “súng”, “tàu sắt”, ‘tàu đồng”, “đạn to”, “đạn nhỏ”; quả là trứng chọi với đá! Bù lại, những người lính nông dân có dũng khí, có lòng quả cảm vô song – một thứ vũ khí sắc bén nhất. Họ có tinh thần dám đánh, dám hi sinh của người nghĩa sĩ. Khi vào trận với những quân trang, vũ khí ấy, chắc chắn họ biết sẽ có hi sinh tổn thất nhưng không vì thế mà họ lùi bước, khuất phục. Ngược lại, tất cả xin “ra tay, ra sức”, dâng hết sức mình cho Tố quốc. Đó là một tấm lòng cao cả, một khí phách hiên ngang, là ý thức, trách nhiệm lớn lao với đất nước. Dù chỉ có vũ khí thô sơ nhưng những người nghĩa sĩ vẫn sẵn sàng ra trận, địch lại với những súng ống, tàu xe:

"Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trong giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ở sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.

Những nghĩa sĩ đã dũng cảm xông vào trận mạc, xả thân không chút mưu lợi đắn đo, tất cả họ đều tự nguyện: “nào đợi ai đòi, ai bắt”, “chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ” dù với trang bị thô sơ. Nhưng hãy xem họ vào trận, bao nhiêu lời văn là bấy nhiêu chất hùng ca, hừng hực khí phách, rực lửa chiến đấu của một trận chiến quyết liệt, hào hùng. Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân ở đây đã hiện lên thành một anh hùng lồng lộng giữa đất trời, giữa chiến trường. Hình ảnh ấy đã làm chủ trận chiến lớn lao mãnh liệt, nó áp đảo tất cả. Với những vũ khí thô sơ của mình, họ đã làm nên sức mạnh như vũ bão, hiếm có: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang”, “chém ngược”. Họ đã ghi được những chiến công oanh liệt như đốt nhà dạy đạo, chém đầu quan hai, làm giặc kinh hãi vô cùng “mã tà ma ní hồn kinh”. Cà đoàn văn là một bức tranh công đồn hào hùng tuyệt đẹp, gợi lên cảnh chiến đấu hào hùng mạnh mẽ, quyết chiến quên mình vì nước. Họ hi sinh với một quan niệm sống vô cùng cao đẹp ‘Thà chết vinh còn hơn sống nhục”, “thà chết đứng còn hơn sống quỳ”. Họ thà hi sinh còn hơn là phải sống với giặc, quyết không đội trời chung với giặc. Đó cũng chính là truyền thông tốt đẹp của dân tộc ta không bao giờ chịu khuất phục. Mặc dù họ đã mất đi nhưng nỗi lo “binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đò”.

Với những lời văn hào sảng, khí thế, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một bức tranh công đồn hào hùng, anh dũng của người nông dân. Thật vậy, lịch sử không chỉ cố tình bỏ quên công lao dựng nước mà còn ấu trĩ vì hiếm khi nhắc đến vai trò giữ nước của những con người quả cảm ấy. Không có họ ngã xuống, tuôn máu, liệu có được những Bạch Đằng, liệu có những Chi Lăng… lẫy lừng vang dội? Nhưng những gì được ghi nhận chỉ còn là những cái tên tướng tên vua… ở một khía cạnh nào đó, lời than “Giãi thây trăm họ làm công một người” đã đúng khi nói về sự lãng quên đối với người nông dân nghĩa sĩ.

Sau trận đánh, một kết cục bi thảm đã diễn ra – kết cục đã được biết trước: Họ – những con người yêu nước – đã anh dũng hi sinh: “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây”. Cái chết nhẹ tựa lông hồng mà hiên ngang, lẫm liệt.

Ra đi, họ vẫn còn lo cho nước, cho dân, họ vẫn còn tiếp tục chiến đấu. Tình cảm thiêng liêng cảm động ấy còn theo họ đến tận chốn thiên đường đầy ánh sáng. Đọc những dòng văn như thế không ai nén nỗi rưng rưng, ngậm ngùi: “Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được trả thù kia”.

Họ không còn nữa nhưng ý chí của họ, tấm gương về họ vẫn còn mãi để nêu gương cho người sống, động viên cổ vũ mọi người tiếp tục chiến đấu để trả thù quân xâm lược. Những người nghĩa sĩ cần Giuộc, ta đã bắt gặp lại hình ảnh họ đâu đó nơi những chiến sĩ “năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt. Gan không núng chí không sờn” làm nên trận Điện Biên Phủ lẫy lừng; hay những con người chống Mĩ quả cảm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai”,…

Người nghĩa sĩ nông dân cấp Giuộc đã mất đi song hình ảnh văn còn mãi mãi. Họ đà trở thành bất hủ, danh tiết của họ rạng rỡ muôn đời, tên tuổi họ trở thành bất tử. Họ là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa yêu nước. Viết về những người nghĩa sĩ nông dân bỏ mình vì quê hương, đất nước, tác phẩm chứa đựng bao nỗi xót xa, thương cảm của tác giả. Lòng tiếc thương của tác giả thật vô hạn. Từ việc thương cho số phận của người nông dân “cui cút làm ăn” trong đời thường đến thương cho họ phải chết một cách oan uổng trong cuộc chiến đấu không cân sức. “Đoái sông cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sâu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ”. Nhà thơ và tất cả mọi người đều khóc vì thương xót cho số phận người nghĩa sĩ. Không những thế nhà thơ còn xót thương cho những người còn sống: “Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều, não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xé dật dờ trước ngõ”, đã thể hiện lòng thương tiếc của tác giả thật chân tình, tha thiết và cảm động. Ông còn chia sẻ nỗi đau với họ.

Với Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, Nguyền Đình Chiểu đã bất tử hóa hình tượng người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Ông đã xây dựng được bức tượng đài nghệ thuật bất hủ về người nghĩa sĩ nông dân hiên ngang, dũng cảm trong tác phẳm của mình. Bài văn tế như một cái mốc, một minh chứng về tấm lòng yêu nước, về phẩm chất của người nông dân lao động. Bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyền Đình Chiểu xứng đáng là một “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Nó xứng đáng là một khúc ca hùng tráng của nền văn học Việt Nam.

Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong "Văn tế  nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 2

Nguyễn Đình Chiểu được đánh giá là một ngôi sao sáng trren bầu tời văn học Việt Nam với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Một trong số đó là văn tế ngiã sĩ Cần Giuộc. Ở đó, hình tượng người nông dân nghĩa sĩ được xây dựng rất thành công với tất cả phẩm chất tốt đẹp.

Vì sao lại có hình tượng người nông dân nghĩa sĩ. Bởi họ “vốn chẳng phải quân cơ quân vệ theo dòng ở lính diễn binh” mà “ chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Đó vốn là những người nông dân hiền lành chất phát quanh năm “ chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ”. Cuộc sống của ho vốn bình yên giản dị. Nhưng khi đât nước bị giặc pháp xâm lược, chút bình yên cuối cùng trong cuộc sống của họ cũng bị đạp đổ thì người nông dân đã đứng lên đâu tranh đánh đưởi quân xâm lược, bảo vệ đât nước, bảo vệ bình yên trên mỗi nếp nhà của chính họ và trở thành những người nông dân nghĩa sĩ.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một bức tượng đài bất hủ và hoàn thiện hất về người nông dân nghĩa sĩ. Trước khi có hiến sự, họ là những người nông dân cần cù chất phác với cuộc sống chỉ có “ việc cày, việc cấy, việc cuốc, việc bừa, tay vốn quên làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngõ”Con người và cuộc sống của họ thật sự hết sức hiền lành và giản dị. Nhưng khi có thực dân Pháp tràn vào nước ta thì mọi thứ lại có sự xáo trộng. Trong tư tưởng, thái độ, tình cảm của người nông dân nghĩa sĩ đã xuất hiện những nét mới. Họ ngày ngày lo lắng trông chờ tin tức của triều đình” trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Trong lòng họ giấy lên nỗi căm phẫn, căm thù giặc cao độ: “ bưax thấy bòng bong cho trắng lốp muốn tới ăn gan, ngày xem ống khõi chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Với tinh thần đó, họ đã có ý thức tự nguyện ra trận đánh giặc, bảo vệ đât nước” Nào đợi ai đoi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn lình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tat bộ hổ”. Từ những người nông dân hiền lành chất phác quanh năm “ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, họ trở thành người nghĩa sĩ đánh giặc dũng cảm:” mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn, chín chục tận binh thư không chờ bày bố”, “ ngoài cật mang một manh áo vải nào đợi mạng bao tấu, bầu ngoi, trong tay cầm một ngọn tầm vôn chi nài sắm sao tu ngón gõ”. Chiến đáu trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn như thế nhưng họ chẳng bao giờ nhụt chí, luông quyết tâm đánh đuổi kẻ thù, “ coigiặc cũng như không, nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. Và cuối cùng dù hi sinh nhưng cái chết của những người nông dân nghĩa sĩ thật cao thượng và đáng tự hào “ một trận ngiã đánh tây, tuy là mât tiếng vang như mõ”.

Hình tượng người nông dân ngiã sĩ trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã truyền lại cho thế hệ trẻ tiếp sau tinh thần và ý chí quyết tâm xây dựng và bảo vệ đất nước vững bền. Hình tượng đó cũng được các nhà văn thế hệ tiếp nối như Ngô Tất Tố, Nam Cao tiếp tục thể hiện, phát triển, hoàn thiện trong suốt tiến trình lịch xử văn học nước nhà.

Có thể nói nếu như văn ttế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong nững tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và nền văn học giai đoạn cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX nói chung, thì hình tượng nhân vật người nghĩa sĩ chính là cốt lõi làm nên sự thầnh công đó.

Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong "Văn tế  nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 3

Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước dùng con mắt yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.

Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:

Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ

Họ đâu đã quen nghi tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ lẫm.

Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruống, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:

“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”

Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đển tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan.

Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắng đuổi hươu

Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”

Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiên họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.

Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lường, chênh lệch với kẻ thù

“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”

Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động (hè trước, ó sau…) những động tác quyết liệt (đốt, chém…). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy , lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lí sống phù hợp đến muôn đời:

“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà c chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”

Tinh thần ấy, ý chí ấy vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.

“Ôi thôi thôi!”

Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nới chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm

“Đau đơn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trứơc ngõ”

Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..

“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”

Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.

Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù – “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sống. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.


Từ khóa tìm kiếm:

Mariazic1

0 chủ đề

23882 bài viết

Có thể bạn quan tâm
0