Người xưa có câu: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài tập làm văn số 5 lớp 11
Người xưa có câu: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài tập làm văn số 5 lớp 11 5 (100%) 2 đánh giá Xem nhanh nội dung1 Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm ...
Người xưa có câu: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài tập làm văn số 5 lớp 11 5 (100%) 2 đánh giá Xem nhanh nội dung1 Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài làm 1 2 Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài làm 2 3 Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài làm 3 Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài làm 1 Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du có một số phận chìm nổi lênh đênh chẳng khác nào nhân vật chính của truyện – nàng Kiều. Trước khi được thừa nhận với tư cách là kiệt tác truyện Nôm, là “quốc hồn quốc túy” của dân tộc, những tư tưởng tiến bộ trong tác phẩm bị che mờ, ẩn khuất. Đã có những quan niệm phủ nhận, thậm chí lên án tư tường của Truyện Kiều chẳng hạn như câu nói của người xưa: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Vậy ta cần hiểu vấn đề này ra sao? Thực ra, câu nói trên có dạng đầy đủ giống như một câu ca dao: Đàn ông chớ kể Phan Trần Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều Tác giả của hai câu trên đã nhìn các nhân vật văn học bằng hệ thống quan niệm khe khắt, khắc nghiệt của đạo Nho. Phan Trần hay Thúy Vân và đặc biệt là Thúy Kiều, họ đều là những người có quan niệm mới mẻ, táo bạo trong tình yêu đôi lứa, trong cách ứng xử thế thái nhân tình. “Đàn bà chớ kế Thúy Vân, Thúy Kiều” bởi trước hết những nhân vật này đã phá vỡ quan niệm phong kiến về tình yêu đôi lứa. Người xưa cho rằng “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Con cái không có quyền chủ động trong tình yêu, hôn nhân. Việc trăm năm đời người do cha mẹ tính kế vuông tròn, dạm hỏi nơi môn đăng hộ đối. Thậm chí có những người phải chấp nhận hôn ước từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Có khi đến lúc động phòng mới biết mặt vợ, mặt chồng… Những cuộc hôn nhân ấy không xuất phát từ tình yêu, họ sống với nhau cả đời chi bởi trách nhiệm và nghĩa vụ. Họ không hạnh phúc. Tình người thiếu nữ dẫu có dạt dào muôn trùng sóng vỗ cũng đành ghìm nén nguyện làm bến, làm bờ lặng im chờ đợi. Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. Có “trót dại” để tình ý lộ ra, người con gái sẽ bị dư luận khép vào tội “lăng loàn”, “dại trai”, “đĩ thõa”… Thúy Kiều thì ngược lại. Sau ngày Tết thanh minh – sau chút “lưu luyến ban đầu” “tình trong như đã mặt ngoài còn e” với chàng Kim, nàng đã ấp ủ trong tim hình bóng chàng trai “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa này”. Biết chàng ở kề ngay bên nhà, nàng đã có một hành động vô cùng táo bạo, có thể khiến cả hệ thống tư tưởng Nho gia lung lay sụp đổ. Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Chỉ xét về mặt thời gian của hành động đã thấy Thầy Kiều “cả gan” thế nào! “vườn khuya”, đêm khuya là thời điểm người ta ít ra ngoài bởi những điều trắc trở. Là nữ giới, lại càng kiêng kỵ hơn. Các nàng ngày ngày chỉ giam mình trong khuê phòng học đàn hát, thêu thùa. Bản thân Kiều cũng vốn “Êm đềm trướng rủ màn che” đấy chứ! Vậy mà đêm hôm nàng dám “một mình” vượt tường sang với Kim Trọng. Nam nam nữ nữ giữa đêm khuya khoắt tất có chuyện ám muội. Cái tư thế, tâm trạng của nàng mới hăm hở, vội vã làm sao “xăm xăm” – “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Thực hiện hành động dễ gây mối hiềm nghi như vậy nhưng nàng không chút dè dặt, e lệ. “Xăm xăm” là từ gợi tả dáng đi nhanh liền một mạch nhằm thẳng tới nơi đã định. Trong cái “xăm xăm” của Kiều, ta tưởng như nàng ngoài Kim Trọng ra chẳng còn biết ai nữa! Mối tình Kim – Kiều là mối tình táo bạo, đẹp đẽ hiếm có trong văn học Việt Nam nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Đến như Nguyễn Công Trứ đa tình nức tiếng, tám mươi vẫn tuyển những nàng hầu mười tám đôi mươi còn muốn gọi hồn Nguyễn Du đòi nọc ra đánh vì: sao nàng Kiều của Tố Như “bạo gan” đến thế! Và dĩ nhiên, xã hội phong kiến với những định kiến cổ hủ về quyền yêu, quyền sống con người sao có thế chấp nhận một người thiếu nữ khát khao tình yêu rất thành thực với mình như vậy? Người ta e dè Thúy Kiều còn bởi họ đã gán cho nàng một cái oanh danh: tà dâm. Có điều đó bởi trong mười lăm năm lưu lạc, Kiều đã phải chịu số “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Tức là kiếp gái lầu xanh “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”. Trong suy nghĩ thiển cận của lớp nhà nho hủ lậu, họ cho rằng Thúy Kiều hiện thân cổ vũ cho lối sống buông thả, lăng loàn, đĩ thõa – lối sống của gái lầu xanh “lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm”. Băng qua thăng trầm của thời gian, ngụp lặn vẫy vùng trong đầm lầy của định kiến, cho đến ngày nay Truyện Kiều vẫn rực rỡ như một kiệt tác lớn nhất của văn học Việt Nam. Điều đó khẳng định: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” chỉ là cái nhìn một chiều, phiến diện, hẹp hòi, ích kỷ. Thật vậy, tình yêu là thứ tình cảm cao quý thiêng liêng, nó thuộc về tất cả mọi người, không là đặc quyền của riêng tầng lớp, giai cấp, giới tính nào. Tình yêu cũng đến (và đi) tự nhiên như gió và nắng vậy, chẳng ai có thể ngăn cản hay cưỡng ép. Con người ai ai cũng biết yêu (không yêu sao có thể gọi là người?) chỉ có điều có ai dám nói ra điều đó hay không. Và Thúy Kiều đã dám thể hiện thành thực với lòng mình, nàng làm điều đó một cách chân thành cảm động! ở đặc điếm này của nhân vật, ngòi bút Nguyễn Du đã thể hiện giá trị nhân bản sâu sắc của mình. Nhưng ta cần hiểu thêm rằng tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng trong sáng, son sắt thủy chung đến vô ngần. Hiểu được điều này để ta trân trọng tình yêu của nàng hơn. Kiều không phải như ai “tường đông ong bướm”. Nàng thành thực, sôi nồi trong bày tỏ lòng yêu song cũng biết giới hạn, giữ gìn tiết hạnh. Khi Kim Trọng: Sóng tình dường đã xiêu xiêu Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. Thấy Kiều đã nhẹ nhàng nhắc nhở “Thưa rằng đừng lấy làm chơi”. Tình yêu em dành cho chàng là tình cảm thật lòng, sâu sắc không phải là thứ tình thoảng qua chơi bời buông thả. Bởi vậy: Đã cho vào bậc bố kinh Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu. Còn như: Ra tuồng trên bộc dưới đâu Thì con người ấy ai cầu mà chi. Sau câu nói này của Kiều, liệu còn ai dám coi thường nàng. Và Kim Trọng lại càng thêm “say vì sắc” “trọng vì tình” Kiều hơn. Mối tình đầu say mê trinh trắng ấy, nàng đã mang theo suốt quãng đời mười lăm năm chìm nổi. Phiêu dạt chân trời góc bể có khi nào Kiều dám lãng quên? Bán mình chuộc cha, nàng ngất lịm đi khi nghĩ về chàng Kim: Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây. “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân” bẽ bàng, người đầu tiên Kiều nhớ đến cùng là Kim Trọng: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Tình yêu nơi Thúy Kiều là thứ tình cảm chân chính mãnh liệt, là niềm mơ ước ngưỡng vọng của muôn vàn thế hệ. Chẳng những vậy, nỗi bất hạnh “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” của Kiều chỉ càng làm thắm thêm chữ hiếu, chữ trinh. Nhắc đến đây, tôi nhớ đến câu nói của một bà mẹ: “Nước Nam khổ nhất con Kiều”. Sự thực, người Việt Nam đã coi Kiều là một hình ảnh sống, sinh động chân thực. Và hơn hết đã dành cho con người ấy một tình thương bao la. Không thương sao được, và có lẽ còn hơn cả lòng thương là sự cảm phục. Sở dĩ Kiều phải nhục nhã ê chề đến thế vì nàng nghĩ đến cha mẹ, hai em. Nàng bán mình chuộc cha để giữ yên ấm cho gia đình. Vậy căn nguyên của nỗi đau trinh tiết chính là chữ hiếu cảm động nơi Kiều. Mặt khác, dẫu dấn thân vào chốn bùn lầy, nàng cũng khổ đau lắm chứ. Nàng tự thấy mình nhơ bẩn, tự hổ thẹn với chính mình: Mặt sao dày gió dạn sương Thân sao bướm chán ong chường bấy thân; Bẽ bàng mây sớm đèn khuya. Nàng cũng đâu lấy đó làm vui thú gì cho cam: Mặc người mưa sở mây Tần Riêng mình nào có biết xuân là gì. Rồi không chịu nổi nhục nhã, điều tất yếu đã đến: Kiều tự giải thoát mình. Không trốn khỏi được lầu xanh, nàng liều mình tự sát… Có thể nói, Thúy Kiều là một hình tượng văn học gây nhiều tranh cãi, là chủ đề bàn luận về sự xấu – đẹp ở đời. Gạt đi những khói sương còn che mờ đâu đó, Thúy Kiều tiêu biểu cho vẻ đẹp cũng như nỗi bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội Việt Nam. Qua Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gửi gắm nhiều tư tưởng tiến bộ mang ý nghĩa nhân văn sâu đậm. “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” – một câu ca mang ý nghĩa phủ nhận nhưng nó càng khiến người đọc tò mò, am hiểu. Qua đó ta hiểu và khẳng định giá trị của nhân vật, của tác phẩm và trân trọng tài năng của tác giả hơn nữa. Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài làm 2 Ông cha ta xưa kia có câu nói: Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều. Câu ý nói ấy mang ý nghĩa cấm đoán phận nữ nhi trong xã hội cũ không được đọc những câu chuyện tình lãng mạn, đàn ông không được đọc những câu chuyện tình ủy mị, nhu nhược, ảnh hưởng tới chí nam nhi. Đó là một quan niệm lạc hậu, không công bằng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của con người. Truyện Phan Trần là câu chuyện nói về chuyện chàng Phan Sinh yêu nàng Trần Liên, vì nhớ nhung nàng mà sinh ốm rồi tự vẫn. Đó là tư tưởng không thể chấp nhận đối với chí nam nhi lúc bấy giờ. Truyện Kiều là câu chuyện tình lãng mạn, nhưng đầy bi kịch. Trong xã hội cũ, tư tưởng xã hội chịu ảnh hưởng đạo Khổng nên phụ nữ không mấy được tự do và hạnh phúc theo ý mình. Người phụ nữ lúc bấy giờ sống phụ thuộc vào cha, vào chồng, vào con. Người phụ nữ nào đi quá giới hạn của "Tam Tòng, Tứ Đức" thì cuộc đời của họ coi như mất nhiều giá trị trước gia đình và xã hội. Tức là suốt cuộc đời họ bị chi phối bởi người đàn ông, tại gia tòng phụ người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha, Xuất giá tòng phu, phải theo chồng, Phu tử tòng tử, khi chồng chết phải theo con. Người phụ nữ trong xã hội xưa phải hội tụ cả bốn đức tính như: Công (biết ngành nghề và khôn khéo trong mọi việc làm), Dung (sắc diện khoan thai, hòa nhã), Ngôn (lời nói nhẹ nhàng, lễ độ), Hạnh (tính nết nhu mì, ngoan hiền, đạo đức). Tư tưởng để đánh giá về một người phụ nữ trong xã hội cũ là như vậy, qua khắt khe, quá tàn nhẫn. Nhưng trong truyện Kiều, nàng Kiều đã tự quyết định tình yêu khi chưa được sự cho phép của cha mẹ, tự sang nhà Kim Trọng, bán mình vào chốn lầu xanh làm gái thanh lâu, lấy nhiều người đàn ông… Đó là những hành động không thể chấp nhận được trong xã hội lúc bấy giờ. Nếu người phụ nữ đọc được họ sẽ bị ảnh hưởng, có tư tưởng không tốt, không phù hợp với lễ giáo mà ông cha đã đưa ra. Tất cả những người đọc truyện Kiều đều phải cho rằng, nàng Kiều là người đáng khinh, nhơ nhớp và mạt hạng: "Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm, Bán mình trong bấy nhiêu năm, Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai, Nghĩ đời mà ngán cho đời." Cũng có thể hiểu câu nói ấy theo hai nghĩa, là đàn bà thì không được đọc Truyện Kiều, còn đã như Thúy Kiều Thúy Vân thì không được gọi là đàn bà. Trong xã hội hiện nay, con người đã có những quan điểm thoáng hơn, vì vậy nàng Kiều là người bất hạnh, đáng thương chứ không đáng trách. Cửa ngoài vội rủ rèm the, Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Phận nữ nhi mà giữa đêm khuya đi sang nhà một người nam nhi, hành động bị cho là hành động sai trái và hư hỏng, khó chấp nhận. Nhưng đọc kĩ chúng ta mới hiểu được Kiều sang nhà Kim Trọng vào lúc đêm khuya chỉ để thề ước, không có bất kì sự lợi dụng vật chất hay thể xác nào. Chuyện đính ước thề nguyền là điều tất yếu của một tình yêu trong sáng. Có nhiều ý kiến cho rằng, hành động bán mình chuộc cha của Kiểu thê hiện giá trị đạo đức, luân lý bị suy đồi, có nhiều cách để kiếm ra tiền chuộc cha mà lại chọn cách hạ sách nhất. Nhưng thực tế, không phải nàng Kiều muốn bán mình chuộc cha mà chính cái xã hội thối nát kia đã dồn nàng vào bước đường cùng, nàng thấy nhục nhã ê chề nhưng vẫn nhắm mắt làm liều vì chữ hiếu. Nàng đã làm tròn bổn phận của một người con đúng với quan niệm của lễ giáo phong kiến, nhưng lại bị chính cái lễ giáo ấy chê trách. Nếu gia đình nàng không bị hãm hại, người đến mua Kiều về làm vợ không bán Kiều thì cuộc đời nàng đâu đến nỗi nổi chìm như vậy. Nàng đã cố gắng thoát ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp, nhưng nàng càng ngóc đầu lên, lại càng bị chìm sâu hơn. Hiểu hết được những khổ cực mà Kiều gánh chịu ta mới thấy khâm phục, trân trọng. Nàng không chỉ là một người tài sắc vẹn toàn mà còn là người có nhân cách sống cao quý và một tấm lòng trong sáng, thanh cao, giàu phẩm hạnh. Khắc họa hình ảnh nhân vật Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng nhân đạo đối với những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa. Tính chất nhân đạo và tính chất vượt thời đại của truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện rất sâu sắc. Chính tính chất vượt thời đại này gây ra sự hiểu biết chưa thấu đáo mà đã vội vàng kết luận của một bộ phận người xưa vốn lấy lễ nghĩa Nho giáo làm chuẩn mực tuyệt đối trong đánh giá con người. Quan niệm "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều" chỉ là một quan niệm cổ xưa và sai lầm. Chúng ta không nên đánh giá thấp về Kiều mà hãy mở tấm lòng cảm thông đối với nàng. Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài làm 3 Người xưa có câu: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.” Nguyên văn câu nói là: Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều. Ông cha ta ngày xưa rất khe khắt. Đàn bà con gái có một số truyện tình lãng mạn, hoặc khiêu khích bị cấm đọc đã đành. Đàn ông cũng bị cấm những truyện tình ủy mị, nhu nhược ảnh hưởng tới chí nam nhi "Đầu đội trời, chân đạp đất.". Truyện Phan Trần là một trong những chuyện các cụ cấm không cho đàn ông đọc vì chàng Phan Sinh chỉ vì quá yêu nàng Trần Kiều Liên mà sinh ra ốm tương tư rồi toan bề tự vận. Làm trai không thể yếu đuối, ươn hèn như vậy. Truyện Kiều cũng tương tự. Suốt trong thời kỳ Quân chủ, người Việt Nam chịu ảnh hưởng đạo Khổng nên phụ nữ không mấy được tự do và hạnh phúc theo ý mình. "Trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên một chồng" là một chứng minh cụ thể. Vì thế, người phụ nữ nào vượt ra ngoài "Tam Tòng, Tứ Đức" thì cuộc đời của họ coi như mất nhiều giá trị trước gia đình và xã hội. Tam Tòng: Tại gia tòng phụ (người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha), Xuất giá tòng phu (lúc lấy chồng phải theo chồng), Phu tử tòng tử (khi chồng chết phải theo con). Tứ đức: Công (biết ngành nghề và khôn khéo trong mọi việc làm), Dung (sắc diện khoan thai, hòa nhã), Ngôn (lời nói nhẹ nhàng, lễ độ), Hạnh (tính nết nhu mì, ngoan hiền, đạo đức). Trong cái xã hội phong kiến thối nát đề cao luân lý như vậy mà Kiều xuất hiện. Một cô gái tự quyết định tình yêu khi chưa được sự cho phép của cha mẹ, bán mình vào chốn lầu xanh làm gái thanh lâu, lấy nhiều người,… thì dưới con mắt của các nhà luân lý đạo đức vào thời xa xưa, đó là một truyện không tốt, có hại cho tuổi trẻ. Nhưng để hiểu được cái hay trong Truyện Kiều là một điều rất khó. Hầu như ai cũng cho Kiều là cô gái lầu xanh nhơ nhớp và mạt hạng: "Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm, Bán mình trong bấy nhiêu năm, Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai, Nghĩ đời mà ngán cho đời." Nguyễn Công Trứ. Câu "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều." có thể được hiểu theo hai nghĩa. Một là đàn bà không nên đọc hay kể về truyện Kiều. Hai là Kiều bị gạt ra khỏi lề xã hội, không còn ai xem nàng là đàn bà. Thực ra, Kiều đáng thương hơn đáng trách. Cửa ngoài vội rủ rèm the, Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Một "hồng nhan" mà lại "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" sang nhà người thương. Nhiều người cho rằng đây là hành động sai trái và hư hỏng. Nhưng Kiều sang nhà Kim Trọng vào lúc đêm khuya chỉ để thề ước, không có bất kì sự lợi dụng vật chất hay thể xác nào. Chuyện đính ước thề nguyền là điều tất yếu của một tình yêu trong sáng. Nói đến trường hợp Kiều bán mình chuộc cha. Nhiều ý kiến cho đây là trường hợp đạo đức, luân lý bị suy đồi, có nhiều cách để kiếm ra tiền chuộc cha, mà cách bán mình chỉ là hạ sách. Nhưng, liệu Kiều có thể làm gì khác hơn để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù? Nhà cửa, ruộng đất của gia đình nàng cũng ở mức "Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung" thì lấy gì ra bán cho đủ tiền? Gánh vác gia đình vốn là công việc của trang nam nhi. Nhưng Kiều, một hồng nhan liễu yếu đào tơ phải gánh trên vai gánh nặng gia đình, phải quên mình vì cha, làm tròn lễ giáo phong kiến trong đạo làm con đối với cha mẹ. Chính sự bất công, hủ lậu của chế độ phong kiến đã gián tiếp gây nên những oan trái trong cuộc đời Kiều. Nếu không có bọn xấu hãm hại cha nàng, một Mã Giám Sinh "Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.", một Sở Khanh, một Tú Bà, một Bạc Bà,… thì cuộc đời nàng có lẽ cũng không đau thương như thế. Nàng đáng thương vì cuộc đời phong trần đầy đau khổ của nàng là do chế độ phong kiến gây ra. Mặc dù nàng đã nhiều lần cố gượng dậy, vươn lên sống tốt đẹp hơn, nhưng lần nào cũng bị chế độ phong kiến đè xuống lại chốn bùn nhơ. Bằng chứng là khi đã thoát ra khỏi lầu xanh, cuộc đời đưa đẩy khiến nàng lọt vào tay Bạc Bà, một tay buôn người để rồi trở lại nơi ngục tù trụy lạc. Thúy Kiều là một cô gái đáng để người đời khâm phục, trân trọng. Nàng không chỉ là một người tài sắc vẹn toàn mà còn là người có nhân cách sống cao quý và một tấm lòng trong sáng, thanh cao, giàu phẩm hạnh. Nàng hiếu nghĩa với cha mẹ, chung thủy trong tình yêu, ý thức sâu sắc về nhân phẩm con người… Tuy sống trong nơi lầu xanh, nơi vui thú của đủ loại khách làng chơi, nhơ nhuốc và đầy cạm bẫy, nhưng suy nghĩ của nàng rất chín chắn. Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay? Tính chất nhân đạo và tính chất vượt thời đại của truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện rất sâu sắc. Chính tính chất vượt thời đại này gây ra sự hiểu biết chưa thấu đáo mà đã vội vàng kết luận của một bộ phận người xưa vốn lấy lễ nghĩa Nho giáo làm chuẩn mực tuyệt đối trong đánh giá con người. Vậy, quan niệm "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều" chỉ là một quan niệm cổ xưa và sai lầm. Thúy Kiều không có tội. Nàng chỉ là một hồng nhan khao khát tình yêu và hạnh phúc bình thường. Chúng ta hãy nhìn nhận về nàng trên cơ sở khách quan, khoa học, có tình có nghĩa hơn. Hãy đồng cảm với nàng. Và cho dù nàng có sai đi chăng nữa, thì nàng vẫn là một người phụ nữ đáng được trân trọng. Từ khóa tìm kiếm:người xưa có câu đàn bà chớ kể thúy vândan ba cho ke thuy kieu thuy van hay bay to suy nghi cua minh ve quan niem trenbài tập làm văn số 5 lớp 11tap lam van 11 nguoi xua co cau dan ba chua ke Thuy kieu thuy van y kien quan niem trenĐan ba chơ kê thúy vân thuy kiêu Anh chi hay noi ro ý kiên cua minh vê quan niêm trênNguơi sua co cau dan ba dung nhac den thuy kiêu thuy van anh chi suy nghi gi Bài viết liên quanCảm nhận của anh chị về hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao? – Bài tập làm văn số 5 lớp 11Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân – Bài tập làm văn số 5 lớp 11Bài tập trắc nghiệm GDCD lớp 10 Bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại (phần 3)Bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 11 Bài 1: Nhật Bản (phần 2)Đề kiểm tra số 2 (tiếp theo)Đề luyện thi đại học môn Địa lý số 17Đề kiểm tra 1 tiết Hóa học lớp 12 số 1 học kì 2 (Phần 3)Bài tập trắc nghiệm Vật lý lớp 12 Mẫu nguyên tử Bo (phần 1)
Xem nhanh nội dung
Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài làm 1
Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du có một số phận chìm nổi lênh đênh chẳng khác nào nhân vật chính của truyện – nàng Kiều. Trước khi được thừa nhận với tư cách là kiệt tác truyện Nôm, là “quốc hồn quốc túy” của dân tộc, những tư tưởng tiến bộ trong tác phẩm bị che mờ, ẩn khuất. Đã có những quan niệm phủ nhận, thậm chí lên án tư tường của Truyện Kiều chẳng hạn như câu nói của người xưa: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Vậy ta cần hiểu vấn đề này ra sao?
Thực ra, câu nói trên có dạng đầy đủ giống như một câu ca dao:
Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều
Tác giả của hai câu trên đã nhìn các nhân vật văn học bằng hệ thống quan niệm khe khắt, khắc nghiệt của đạo Nho.
Phan Trần hay Thúy Vân và đặc biệt là Thúy Kiều, họ đều là những người có quan niệm mới mẻ, táo bạo trong tình yêu đôi lứa, trong cách ứng xử thế thái nhân tình.
“Đàn bà chớ kế Thúy Vân, Thúy Kiều” bởi trước hết những nhân vật này đã phá vỡ quan niệm phong kiến về tình yêu đôi lứa. Người xưa cho rằng “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Con cái không có quyền chủ động trong tình yêu, hôn nhân. Việc trăm năm đời người do cha mẹ tính kế vuông tròn, dạm hỏi nơi môn đăng hộ đối. Thậm chí có những người phải chấp nhận hôn ước từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Có khi đến lúc động phòng mới biết mặt vợ, mặt chồng… Những cuộc hôn nhân ấy không xuất phát từ tình yêu, họ sống với nhau cả đời chi bởi trách nhiệm và nghĩa vụ. Họ không hạnh phúc. Tình người thiếu nữ dẫu có dạt dào muôn trùng sóng vỗ cũng đành ghìm nén nguyện làm bến, làm bờ lặng im chờ đợi.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Có “trót dại” để tình ý lộ ra, người con gái sẽ bị dư luận khép vào tội “lăng loàn”, “dại trai”, “đĩ thõa”…
Thúy Kiều thì ngược lại.
Sau ngày Tết thanh minh – sau chút “lưu luyến ban đầu” “tình trong như đã mặt ngoài còn e” với chàng Kim, nàng đã ấp ủ trong tim hình bóng chàng trai “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa này”. Biết chàng ở kề ngay bên nhà, nàng đã có một hành động vô cùng táo bạo, có thể khiến cả hệ thống tư tưởng Nho gia lung lay sụp đổ.
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Chỉ xét về mặt thời gian của hành động đã thấy Thầy Kiều “cả gan” thế nào! “vườn khuya”, đêm khuya là thời điểm người ta ít ra ngoài bởi những điều trắc trở. Là nữ giới, lại càng kiêng kỵ hơn. Các nàng ngày ngày chỉ giam mình trong khuê phòng học đàn hát, thêu thùa. Bản thân Kiều cũng vốn “Êm đềm trướng rủ màn che” đấy chứ! Vậy mà đêm hôm nàng dám “một mình” vượt tường sang với Kim Trọng. Nam nam nữ nữ giữa đêm khuya khoắt tất có chuyện ám muội. Cái tư thế, tâm trạng của nàng mới hăm hở, vội vã làm sao “xăm xăm” – “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Thực hiện hành động dễ gây mối hiềm nghi như vậy nhưng nàng không chút dè dặt, e lệ. “Xăm xăm” là từ gợi tả dáng đi nhanh liền một mạch nhằm thẳng tới nơi đã định. Trong cái “xăm xăm” của Kiều, ta tưởng như nàng ngoài Kim Trọng ra chẳng còn biết ai nữa!
Mối tình Kim – Kiều là mối tình táo bạo, đẹp đẽ hiếm có trong văn học Việt Nam nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Đến như Nguyễn Công Trứ đa tình nức tiếng, tám mươi vẫn tuyển những nàng hầu mười tám đôi mươi còn muốn gọi hồn Nguyễn Du đòi nọc ra đánh vì: sao nàng Kiều của Tố Như “bạo gan” đến thế! Và dĩ nhiên, xã hội phong kiến với những định kiến cổ hủ về quyền yêu, quyền sống con người sao có thế chấp nhận một người thiếu nữ khát khao tình yêu rất thành thực với mình như vậy?
Người ta e dè Thúy Kiều còn bởi họ đã gán cho nàng một cái oanh danh: tà dâm. Có điều đó bởi trong mười lăm năm lưu lạc, Kiều đã phải chịu số “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Tức là kiếp gái lầu xanh “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”. Trong suy nghĩ thiển cận của lớp nhà nho hủ lậu, họ cho rằng Thúy Kiều hiện thân cổ vũ cho lối sống buông thả, lăng loàn, đĩ thõa – lối sống của gái lầu xanh “lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm”.
Băng qua thăng trầm của thời gian, ngụp lặn vẫy vùng trong đầm lầy của định kiến, cho đến ngày nay Truyện Kiều vẫn rực rỡ như một kiệt tác lớn nhất của văn học Việt Nam. Điều đó khẳng định: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” chỉ là cái nhìn một chiều, phiến diện, hẹp hòi, ích kỷ.
Thật vậy, tình yêu là thứ tình cảm cao quý thiêng liêng, nó thuộc về tất cả mọi người, không là đặc quyền của riêng tầng lớp, giai cấp, giới tính nào. Tình yêu cũng đến (và đi) tự nhiên như gió và nắng vậy, chẳng ai có thể ngăn cản hay cưỡng ép. Con người ai ai cũng biết yêu (không yêu sao có thể gọi là người?) chỉ có điều có ai dám nói ra điều đó hay không. Và Thúy Kiều đã dám thể hiện thành thực với lòng mình, nàng làm điều đó một cách chân thành cảm động! ở đặc điếm này của nhân vật, ngòi bút Nguyễn Du đã thể hiện giá trị nhân bản sâu sắc của mình.
Nhưng ta cần hiểu thêm rằng tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng trong sáng, son sắt thủy chung đến vô ngần. Hiểu được điều này để ta trân trọng tình yêu của nàng hơn. Kiều không phải như ai “tường đông ong bướm”. Nàng thành thực, sôi nồi trong bày tỏ lòng yêu song cũng biết giới hạn, giữ gìn tiết hạnh. Khi Kim Trọng:
Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
Thấy Kiều đã nhẹ nhàng nhắc nhở “Thưa rằng đừng lấy làm chơi”. Tình yêu em dành cho chàng là tình cảm thật lòng, sâu sắc không phải là thứ tình thoảng qua chơi bời buông thả. Bởi vậy:
Đã cho vào bậc bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Còn như:
Ra tuồng trên bộc dưới đâu
Thì con người ấy ai cầu mà chi.
Sau câu nói này của Kiều, liệu còn ai dám coi thường nàng. Và Kim Trọng lại càng thêm “say vì sắc” “trọng vì tình” Kiều hơn. Mối tình đầu say mê trinh trắng ấy, nàng đã mang theo suốt quãng đời mười lăm năm chìm nổi. Phiêu dạt chân trời góc bể có khi nào Kiều dám lãng quên? Bán mình chuộc cha, nàng ngất lịm đi khi nghĩ về chàng Kim:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân” bẽ bàng, người đầu tiên Kiều nhớ đến cùng là Kim Trọng: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
Tình yêu nơi Thúy Kiều là thứ tình cảm chân chính mãnh liệt, là niềm mơ ước ngưỡng vọng của muôn vàn thế hệ.
Chẳng những vậy, nỗi bất hạnh “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” của Kiều chỉ càng làm thắm thêm chữ hiếu, chữ trinh. Nhắc đến đây, tôi nhớ đến câu nói của một bà mẹ: “Nước Nam khổ nhất con Kiều”. Sự thực, người Việt Nam đã coi Kiều là một hình ảnh sống, sinh động chân thực. Và hơn hết đã dành cho con người ấy một tình thương bao la.
Không thương sao được, và có lẽ còn hơn cả lòng thương là sự cảm phục. Sở dĩ Kiều phải nhục nhã ê chề đến thế vì nàng nghĩ đến cha mẹ, hai em. Nàng bán mình chuộc cha để giữ yên ấm cho gia đình. Vậy căn nguyên của nỗi đau trinh tiết chính là chữ hiếu cảm động nơi Kiều. Mặt khác, dẫu dấn thân vào chốn bùn lầy, nàng cũng khổ đau lắm chứ. Nàng tự thấy mình nhơ bẩn, tự hổ thẹn với chính mình:
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân;
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya.
Nàng cũng đâu lấy đó làm vui thú gì cho cam:
Mặc người mưa sở mây Tần
Riêng mình nào có biết xuân là gì.
Rồi không chịu nổi nhục nhã, điều tất yếu đã đến: Kiều tự giải thoát mình. Không trốn khỏi được lầu xanh, nàng liều mình tự sát…
Có thể nói, Thúy Kiều là một hình tượng văn học gây nhiều tranh cãi, là chủ đề bàn luận về sự xấu – đẹp ở đời. Gạt đi những khói sương còn che mờ đâu đó, Thúy Kiều tiêu biểu cho vẻ đẹp cũng như nỗi bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội Việt Nam. Qua Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gửi gắm nhiều tư tưởng tiến bộ mang ý nghĩa nhân văn sâu đậm.
“Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” – một câu ca mang ý nghĩa phủ nhận nhưng nó càng khiến người đọc tò mò, am hiểu. Qua đó ta hiểu và khẳng định giá trị của nhân vật, của tác phẩm và trân trọng tài năng của tác giả hơn nữa.
Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài làm 2
Ông cha ta xưa kia có câu nói:
Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
Câu ý nói ấy mang ý nghĩa cấm đoán phận nữ nhi trong xã hội cũ không được đọc những câu chuyện tình lãng mạn, đàn ông không được đọc những câu chuyện tình ủy mị, nhu nhược, ảnh hưởng tới chí nam nhi. Đó là một quan niệm lạc hậu, không công bằng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của con người.
Truyện Phan Trần là câu chuyện nói về chuyện chàng Phan Sinh yêu nàng Trần Liên, vì nhớ nhung nàng mà sinh ốm rồi tự vẫn. Đó là tư tưởng không thể chấp nhận đối với chí nam nhi lúc bấy giờ. Truyện Kiều là câu chuyện tình lãng mạn, nhưng đầy bi kịch.
Trong xã hội cũ, tư tưởng xã hội chịu ảnh hưởng đạo Khổng nên phụ nữ không mấy được tự do và hạnh phúc theo ý mình. Người phụ nữ lúc bấy giờ sống phụ thuộc vào cha, vào chồng, vào con. Người phụ nữ nào đi quá giới hạn của "Tam Tòng, Tứ Đức" thì cuộc đời của họ coi như mất nhiều giá trị trước gia đình và xã hội. Tức là suốt cuộc đời họ bị chi phối bởi người đàn ông, tại gia tòng phụ người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha, Xuất giá tòng phu, phải theo chồng, Phu tử tòng tử, khi chồng chết phải theo con. Người phụ nữ trong xã hội xưa phải hội tụ cả bốn đức tính như: Công (biết ngành nghề và khôn khéo trong mọi việc làm), Dung (sắc diện khoan thai, hòa nhã), Ngôn (lời nói nhẹ nhàng, lễ độ), Hạnh (tính nết nhu mì, ngoan hiền, đạo đức).
Tư tưởng để đánh giá về một người phụ nữ trong xã hội cũ là như vậy, qua khắt khe, quá tàn nhẫn. Nhưng trong truyện Kiều, nàng Kiều đã tự quyết định tình yêu khi chưa được sự cho phép của cha mẹ, tự sang nhà Kim Trọng, bán mình vào chốn lầu xanh làm gái thanh lâu, lấy nhiều người đàn ông… Đó là những hành động không thể chấp nhận được trong xã hội lúc bấy giờ. Nếu người phụ nữ đọc được họ sẽ bị ảnh hưởng, có tư tưởng không tốt, không phù hợp với lễ giáo mà ông cha đã đưa ra. Tất cả những người đọc truyện Kiều đều phải cho rằng, nàng Kiều là người đáng khinh, nhơ nhớp và mạt hạng:
"Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm,
Bán mình trong bấy nhiêu năm,
Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai,
Nghĩ đời mà ngán cho đời."
Cũng có thể hiểu câu nói ấy theo hai nghĩa, là đàn bà thì không được đọc Truyện Kiều, còn đã như Thúy Kiều Thúy Vân thì không được gọi là đàn bà. Trong xã hội hiện nay, con người đã có những quan điểm thoáng hơn, vì vậy nàng Kiều là người bất hạnh, đáng thương chứ không đáng trách.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Phận nữ nhi mà giữa đêm khuya đi sang nhà một người nam nhi, hành động bị cho là hành động sai trái và hư hỏng, khó chấp nhận. Nhưng đọc kĩ chúng ta mới hiểu được Kiều sang nhà Kim Trọng vào lúc đêm khuya chỉ để thề ước, không có bất kì sự lợi dụng vật chất hay thể xác nào. Chuyện đính ước thề nguyền là điều tất yếu của một tình yêu trong sáng.
Có nhiều ý kiến cho rằng, hành động bán mình chuộc cha của Kiểu thê hiện giá trị đạo đức, luân lý bị suy đồi, có nhiều cách để kiếm ra tiền chuộc cha mà lại chọn cách hạ sách nhất. Nhưng thực tế, không phải nàng Kiều muốn bán mình chuộc cha mà chính cái xã hội thối nát kia đã dồn nàng vào bước đường cùng, nàng thấy nhục nhã ê chề nhưng vẫn nhắm mắt làm liều vì chữ hiếu. Nàng đã làm tròn bổn phận của một người con đúng với quan niệm của lễ giáo phong kiến, nhưng lại bị chính cái lễ giáo ấy chê trách.
Nếu gia đình nàng không bị hãm hại, người đến mua Kiều về làm vợ không bán Kiều thì cuộc đời nàng đâu đến nỗi nổi chìm như vậy. Nàng đã cố gắng thoát ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp, nhưng nàng càng ngóc đầu lên, lại càng bị chìm sâu hơn.
Hiểu hết được những khổ cực mà Kiều gánh chịu ta mới thấy khâm phục, trân trọng. Nàng không chỉ là một người tài sắc vẹn toàn mà còn là người có nhân cách sống cao quý và một tấm lòng trong sáng, thanh cao, giàu phẩm hạnh. Khắc họa hình ảnh nhân vật Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng nhân đạo đối với những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa.
Tính chất nhân đạo và tính chất vượt thời đại của truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện rất sâu sắc. Chính tính chất vượt thời đại này gây ra sự hiểu biết chưa thấu đáo mà đã vội vàng kết luận của một bộ phận người xưa vốn lấy lễ nghĩa Nho giáo làm chuẩn mực tuyệt đối trong đánh giá con người.
Quan niệm "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều" chỉ là một quan niệm cổ xưa và sai lầm. Chúng ta không nên đánh giá thấp về Kiều mà hãy mở tấm lòng cảm thông đối với nàng.
Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên – Bài làm 3
Người xưa có câu: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.”
Nguyên văn câu nói là:
Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
Ông cha ta ngày xưa rất khe khắt. Đàn bà con gái có một số truyện tình lãng mạn, hoặc khiêu khích bị cấm đọc đã đành. Đàn ông cũng bị cấm những truyện tình ủy mị, nhu nhược ảnh hưởng tới chí nam nhi "Đầu đội trời, chân đạp đất.".
Truyện Phan Trần là một trong những chuyện các cụ cấm không cho đàn ông đọc vì chàng Phan Sinh chỉ vì quá yêu nàng Trần Kiều Liên mà sinh ra ốm tương tư rồi toan bề tự vận. Làm trai không thể yếu đuối, ươn hèn như vậy. Truyện Kiều cũng tương tự.
Suốt trong thời kỳ Quân chủ, người Việt Nam chịu ảnh hưởng đạo Khổng nên phụ nữ không mấy được tự do và hạnh phúc theo ý mình. "Trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên một chồng" là một chứng minh cụ thể. Vì thế, người phụ nữ nào vượt ra ngoài "Tam Tòng, Tứ Đức" thì cuộc đời của họ coi như mất nhiều giá trị trước gia đình và xã hội. Tam Tòng: Tại gia tòng phụ (người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha), Xuất giá tòng phu (lúc lấy chồng phải theo chồng), Phu tử tòng tử (khi chồng chết phải theo con). Tứ đức: Công (biết ngành nghề và khôn khéo trong mọi việc làm), Dung (sắc diện khoan thai, hòa nhã), Ngôn (lời nói nhẹ nhàng, lễ độ), Hạnh (tính nết nhu mì, ngoan hiền, đạo đức).
Trong cái xã hội phong kiến thối nát đề cao luân lý như vậy mà Kiều xuất hiện. Một cô gái tự quyết định tình yêu khi chưa được sự cho phép của cha mẹ, bán mình vào chốn lầu xanh làm gái thanh lâu, lấy nhiều người,… thì dưới con mắt của các nhà luân lý đạo đức vào thời xa xưa, đó là một truyện không tốt, có hại cho tuổi trẻ. Nhưng để hiểu được cái hay trong Truyện Kiều là một điều rất khó. Hầu như ai cũng cho Kiều là cô gái lầu xanh nhơ nhớp và mạt hạng:
"Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm,
Bán mình trong bấy nhiêu năm,
Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai,
Nghĩ đời mà ngán cho đời."
Nguyễn Công Trứ.
Câu "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều." có thể được hiểu theo hai nghĩa. Một là đàn bà không nên đọc hay kể về truyện Kiều. Hai là Kiều bị gạt ra khỏi lề xã hội, không còn ai xem nàng là đàn bà. Thực ra, Kiều đáng thương hơn đáng trách.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Một "hồng nhan" mà lại "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" sang nhà người thương. Nhiều người cho rằng đây là hành động sai trái và hư hỏng. Nhưng Kiều sang nhà Kim Trọng vào lúc đêm khuya chỉ để thề ước, không có bất kì sự lợi dụng vật chất hay thể xác nào. Chuyện đính ước thề nguyền là điều tất yếu của một tình yêu trong sáng.
Nói đến trường hợp Kiều bán mình chuộc cha. Nhiều ý kiến cho đây là trường hợp đạo đức, luân lý bị suy đồi, có nhiều cách để kiếm ra tiền chuộc cha, mà cách bán mình chỉ là hạ sách. Nhưng, liệu Kiều có thể làm gì khác hơn để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù? Nhà cửa, ruộng đất của gia đình nàng cũng ở mức "Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung" thì lấy gì ra bán cho đủ tiền? Gánh vác gia đình vốn là công việc của trang nam nhi. Nhưng Kiều, một hồng nhan liễu yếu đào tơ phải gánh trên vai gánh nặng gia đình, phải quên mình vì cha, làm tròn lễ giáo phong kiến trong đạo làm con đối với cha mẹ.
Chính sự bất công, hủ lậu của chế độ phong kiến đã gián tiếp gây nên những oan trái trong cuộc đời Kiều. Nếu không có bọn xấu hãm hại cha nàng, một Mã Giám Sinh "Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.", một Sở Khanh, một Tú Bà, một Bạc Bà,… thì cuộc đời nàng có lẽ cũng không đau thương như thế.
Nàng đáng thương vì cuộc đời phong trần đầy đau khổ của nàng là do chế độ phong kiến gây ra. Mặc dù nàng đã nhiều lần cố gượng dậy, vươn lên sống tốt đẹp hơn, nhưng lần nào cũng bị chế độ phong kiến đè xuống lại chốn bùn nhơ. Bằng chứng là khi đã thoát ra khỏi lầu xanh, cuộc đời đưa đẩy khiến nàng lọt vào tay Bạc Bà, một tay buôn người để rồi trở lại nơi ngục tù trụy lạc.
Thúy Kiều là một cô gái đáng để người đời khâm phục, trân trọng. Nàng không chỉ là một người tài sắc vẹn toàn mà còn là người có nhân cách sống cao quý và một tấm lòng trong sáng, thanh cao, giàu phẩm hạnh. Nàng hiếu nghĩa với cha mẹ, chung thủy trong tình yêu, ý thức sâu sắc về nhân phẩm con người… Tuy sống trong nơi lầu xanh, nơi vui thú của đủ loại khách làng chơi, nhơ nhuốc và đầy cạm bẫy, nhưng suy nghĩ của nàng rất chín chắn.
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Tính chất nhân đạo và tính chất vượt thời đại của truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện rất sâu sắc. Chính tính chất vượt thời đại này gây ra sự hiểu biết chưa thấu đáo mà đã vội vàng kết luận của một bộ phận người xưa vốn lấy lễ nghĩa Nho giáo làm chuẩn mực tuyệt đối trong đánh giá con người.
Vậy, quan niệm "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều" chỉ là một quan niệm cổ xưa và sai lầm.
Thúy Kiều không có tội. Nàng chỉ là một hồng nhan khao khát tình yêu và hạnh phúc bình thường. Chúng ta hãy nhìn nhận về nàng trên cơ sở khách quan, khoa học, có tình có nghĩa hơn. Hãy đồng cảm với nàng. Và cho dù nàng có sai đi chăng nữa, thì nàng vẫn là một người phụ nữ đáng được trân trọng.