Về bài thơ của bà Từ Cung gởi vua Bảo Đại
Gia đình vua Bảo Đại với Đức Từ Cung, mẹ của vua Võ Hương An T rong khi lang thang trên cái không gian bao la của thế giới ảo, tôi đã bắt gặp một bài thơ lạ, lạ là vì tác giả của nó có một thân phận khác thường, lạ vì văn chương vốn không phải là nơi quen thuộc của tác ...
Võ Hương An
Trong khi lang thang trên cái không gian bao la của thế giới ảo, tôi đã bắt gặp một bài thơ lạ, lạ là vì tác giả của nó có một thân phận khác thường, lạ vì văn chương vốn không phải là nơi quen thuộc của tác giả. Xin mời bạn đọc thưởng thức bài thơ sau đây mà đừng vội để ý đến những lỗi về chính tả. Những dấu vết văn tự lý thú ấy sẽ được đánh dấu và bàn đến sau. Bài thơ vô đề, xin chép nguyên văn như sau:
Thương con đau ruột mẹ trăm chìu,
Thao thức canh tàng luống quạnh hiu!
Bóng xế thẩn thơ vường Thượng uyển,
Người buồn xui cảnh cũng buồn thiu!
Thương con thơ ấu đã không cha!
Du học nước người chẳng quản xa.
Thời thế phong trào đâu đã thấu,
Hai vai nặng một gánh sơn hà!
Nhớ con cách trở mấy năm trời!
Muông dặm sơn khê khó hết lời,
Dẹp nổi việc nhà vì việc nước,
Non xanh bể thẳm lúc đầy vơi!
Vắng con nào mẹ có vui chi!
Cắc ruột đau lòng nổi biệc ly,
Gác tía lầu hồng thôi cũng thế,
Thăm con cũng khó nổi mà đi!
Nhớ con xui dạ cứ bàn hoàng.
Thơ cũ đem coi lại mấy hàng.
Canh lụn chiêm bao mường tượng bóng.
Dực mình thức dậy cứ mơ màng…
Trông con lắm lúc dựa hiên ngoài,
Trước mặt hình con mượng tượng hoài…
Thua mẹ thầy Tăng khi tựa cửa,
Quạt nồng ấp lạnh ấy là ai?
Hỏi con kinh sử đã làu chưa?
Học hết chuyện nay, học chuyện xưa…
Cương vế một tay ngày một khó,
Cho bằng thiên hạ kẽo trời trưa.
Nhắn con lo học chớ làm lơ,
Trông bể văn minh thấu bợt bờ.
Bẻ cửi chuyện xưa con có biết?
Tốn hao của nước, uổng công chờ…
Dặng con ghi dạ, chớ nên nguôi,
Dẫu bực đế vương nữa cũng người,
Phải nhớ cương thường luân lý cũ,
Thương dân, thương nước, ích cho đời.
Khuyên con ngàn dặm bấy nhiêu câu,
Phật Thánh ngày đêm mẹ khẩn cầu,
Phù hộ cho con mau tấn đức,
Giữ nền xã tắc đặng bền lâu.
Nếu bạn đọc là người nhạy cảm với lịch sử thì cũng có thể đoán được tác giả là ai.
Xuất xứ bài thơ
Tôi khám phá bài thơ này nhân khi đọc tập san nghiên cứu của Trường Viễn Đông Bác Cổ — Bulletin de l’Ecole Francaise d’ Extrême-Orient, Tom XXXIII, 1933, tr.499-501 trên internet (.http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k93406q)
Tháng 9 năm 1932, sau khi hoàn tất học trình tại Pháp, vua Bảo Đại lên đường về Việt Nam trực tiếp cầm quyền, kết thúc một hành trình du học 10 năm, khởi đi từ tháng 5 năm 1922. Vào dịp này, J.Y.Claeys đã viết bài Le retour de S.M. Bảo-Đại ghi lại cuộc “ngự giá hồi loan” đó với khá nhiều chi tiết. Nhân nhắc lại một vài nét về thời du học của nhà vua trẻ tuổi, Claeys đã dẫn bài thơ trên và nói rằng đó là một trong những bài mà các bà Thái hậu (Reines-Mères) thỉnh thoảng làm rồi gởi cho vua. Bài thơ do một “ông quan trẻ đầy tương lai”(jeune mandarin de grand avenir) gởi cho Clayes cùng với bản dịch và cho phép đăng báo nhưng yêu cầu dấu tên.
Về tác giả bài thơ
Sau khi đọc bài thơ và biết được xuất xứ của nó – và nếu tin rằng những gì mà người cung cấp tin tức và người viết bài thường thuật là đúng sự thật — tôi nghĩ rằng đây là tác phẩm của không ai khác hơn là thân mẫu vua Bảo Đại (1926—1945), người mà năm 1933 vua đã long trọng tấn tôn làm Đoan Huy Hoàng Thái hậu, và giới cung đình và người Huế thường gọi là Đức Từ hay Đức Từ Cung.
Mặc dầu vua Khải Định (1916-1925) có 12 bà vợ (1) nhưng chẳng bà nào có con, ngoại trừ bà Nhứt giai Huệ Phi Hoàng Thị Cúc (bà Từ Cung) đã sinh ra Hoàng tử Vĩnh Thụy vào tháng 10 năm 1913. Vì vậy, khi Claeys viết rằng những bài thơ loại này là do các “Reines-Mères” (các Thái hậu) viết gởi cho vua Bảo Đại là không đúng, vì một cách chính thức, vua chỉ có một bà mẹ.
Theo hệ thống cửu giai, (2) vợ vua chia làm 9 bậc. Mặc dầu lúc sinh thời, vua Khải Định đã phong hai người làm Nhất giai Phi — bà Ân Phi Hồ Thị Chỉ, con của Học bộ Thượng thư Hồ Đắc Trung và bà Huệ Phi Hoàng Thị Cúc, con nhà tầm thường – nhưng vua Bảo Đại không thể gọi bà Ân phi là mẹ vì bà này chưa phải là chính cung hoàng hậu (phải là Hoàng Quí Phi). Lại nữa, trước khi mất, các đại thần đã có hỏi vua phép đối xử sau này với hai bà Phi như thế nào thì vua chỉ thị vắn tắt rằng “Tử quí mẫu vinh”, nghĩa là ai có con ở ngôi quí trọng thì đương nhiên mẹ được vinh hiển. Đó là lý do khiến ngôi sao Huệ Phi ngày càng sáng còn ngôi sao Ân Phi ngày càng mờ nhạt rồi đi vào quên lãng của mọi người.(3) Mặt khác, chỉ có người mẹ rứt ruột đẻ ra mới có một tình cảm thắm thiết đền thế để tỏ bày với con, chứ một người mẹ hờ thì không thể có một tình cảm lai láng như vậy.
Thời điểm sáng tác
Thái tử Vĩnh Thụy lên đường sang Pháp du học vào ngày 15/5/1922. Lúc đó ông hoàng con mới được 8 tuổi rưỡi. Tháng 8/1924, Thái tử về nước để dự lễ mừng “thọ” 40 tuổi của phụ hoàng (Tứ tuần đại khánh), và tháng 12 năm sau, 1925, lại về nước lần nữa để dự tang lễ vua cha và lên nối ngôi, làm vua Bảo Đại. Khoảng 1922-1925 không phải là thời gian để bài thơ ra đời, vì thời gian xa cách tuy có nhưng chưa đủ chín muồi để có một bài thơ như thế. Vả chăng, trong bài, ở khổ thứ 2 có một câu rất hữu ích giúp xác định thời gian sáng tác, ấy là:
Thương con thơ ấu đã không cha!
Vậy thì bài thơ phải được sáng tác sau khi vua khải Định băng hà, nghĩa là sau 1925 (vua Khải Định mất 5/11/1925, vua Bảo Đại lên nối ngôi ngày 8/1/1926). Nói rõ hơn, bài thơ này phải được sáng tác trong khoảng 1927-1931, một thời gian sau khi vua Khải Định qua đời và một hai năm trước khi vua Bảo Đại về nước. Vì sao không phải 1926? Vì sau đám tang vào tháng 1/1926, vua Bảo Đại còn ở lại 4 tháng nữa rồi mới trở qua Pháp tiếp tục việc học. Vì sao 1931 mà không phải 1932 ? Vì cuối năm 1932 thì “ngài hồi loan”, “Ả” (4) nghe vậy cũng đã phấn khởi trong lòng, còn nhớ thương chi nữa! Ở khổ thứ 7 có câu “ Hỏi con kinh sử đã làu chưa?” cho biết học trình còn dang dở và thời gian chờ đợi còn dài, nên càng trông càng nhớ càng thương.
Nhớ đến Khuê phụ thán của Thượng Tân Thị
Mặc dầu bài thơ được công bố trên một tập san nghiên cứu và mặc dầu tác giả bài viết đã nói rõ đấy là tác phẩm của Reines-Mères , nhưng điều này vẫn có thể không ngăn được sự nghi ngờ của mọi người, điển hình, khi tôi đem chuyện khám phá bài thơ kể cho cụ Trần Trọng Phúc — một nhân sĩ Huế lão thành ở Mountain View – nghe, ông cụ đã cười và hỏi tôi có biết bài Khuê Phụ thán của Thượng Tân Thị không? Biết đâu đây là một trường hợp Thượng Tân Thị khác?.
Xin nhắc lại chuyện xưa một chút. Khoảng 1919-1920, 10 bài Khuê phụ thán, làm theo thể
liên hoàn xuất hiện trên tạp chí Nam Phong xuất bản ở Hà Nội, ký tên Nguyễn Thị Phi, do Phan Sơn Đại sao lục. Bài thứ nhất như sau:
Chồng hỡi chồng! Con hỡi con!
Cùng nhau chia cách mấy năm tròn.
Bên trời góc biển lơi chim cá
Dạn gió dày sương tủi nước non.
Mộng điệp khéo vì ai lẽo đẽo.
Hồn quyên luống để thiếp thon von.
Ngày qua tháng lại trông đăm đắm.
Muôn đặm xa xa mắt đã mòn.
Việc hai vua Thành Thái và Duy Tân vì nghĩa nước mà bị lưu đày nơi viễn xứ đã để lại một
ấn tượng thương cảm sâu xa trong lòng người dân Việt, và vì vậy, khi đọc Khuê phụ thán, người ta liên tưởng ngay rằng người khuê phụ có số phận bi thảm đó không ai khác hơn là vợ vua Thành Thái, vì chỉ người trong cuộc mới có lời thơ thống thiết đến thế. Chính Sở Cuồng Lê Dư đã đưa ra thuyết này và được nhiều người tin theo. Khuê phụ thán đã được đón nhận, truyền tụng như một ngưỡng mộ. Thế nhưng sau đó, người ta biết rằng tác giả của nó không phải là bà vợ vua Thành Thái mà là của cụ Phan Quốc Cang ở Vĩnh Long.
Khi nhắc lại chuyện xưa, Cụ Phúc đã có hảo ý cảnh giác tôi một vụ Khuê phụ thán thứ hai; xin đa tạ hảo ý.
Vì sao người ta có thể nghi ngờ ?
Có nhiều lý do để nghi ngờ rằng bà Từ Cung không phải là tác giả của bài thơ này. Thứ nhất, chưa ai nghe nói “Đức Từ làm thơ”, thứ hai, xuất thân của Đức Từ không làm cho người ta tin tưởng ở khả năng thi phú của bà.
Mặc dầu qua hai bài ký trong Huế của một thời (5) tôi có nói qua về thời hàn vi của bà Từ Cung nhưng nay xin mời bạn đọc nghe những tiếng nói khác. Chẳng hạn, theo Nguyễn Lý Tưởng, bà Cúc (bà Từ Cung) “nguyên không phải là cung phi hay cung tần mà chỉ là một gái hầu của Ngọc Lâm Công Chúa (con vua Đồng Khánh), xuất thân từ gia đình bình dân.” (6) TheoTrần Gia Phụng, “Khi mới đến Huế, bà Cúc buôn bán nhỏ ở chợ An Cựu, gặp mẹ ruột của hoàng thân Bửu Đảo (sau này là vua Khải Định) là bà Tiên Cung (vợ vua Đồng Khánh), người không cùng làng nhưng cùng huyện Phú Lộc… Bà Tiên Cung nhận bà Cúc vào làm việc trong dinh của ông hoàng Bửu Đảo ở An Cựu (sau này xây thành An Định cung). Từ đó bà Cúc mới quen biết ông hoàng” (7) Dẫu rằng hai bên có nói khác nhau về chi tiết nhưng căn bản vẫn là một quãng đời vắng bóng học đường.
Chính vì xuất thân từ tầng lớp bình dân nên bà Hoàng Thị Cúc đã phải chịu cảnh lép vế ngay từ khi theo chồng bước vào cung cấm. Bà sanh cho ông hoàng Phụng Hóa (vua Khải Định) một con trai từ tháng 10/1913 nhưng khi vào cung, bà chỉ được phong làm Tam giai Huệ Tân vào năm 1917, trong khi tháng 12/1917, vua Khải Định chính thức đi cưới cô Hồ Thị Chỉ, nữ sinh xuất sắc của trường Đồng Khánh, ái nữ của quan Học bộ Thượng thư Hồ Đắc Trung, và phong ngay làm Nhất giai Ân phi, một đẳng cấp mà mãi đến năm 1923 bà Cúc mới leo tới.
Quả thật thời thơ ấu dân dã của Bà Từ Cung rất dễ gây cho người hiểu biết một sự nghi ngờ về khả năng làm thơ của bà. Nhưng điều này, theo tôi, không ngăn cản bà làm thơ nếu bà có thi hứng, có xúc động. Cả một kho tàng ca dao của ta há chẳng phải là nguồn thi hứng của giới chân lấm tay bùn một chữ không biết đó sao? Huống nữa, một khi đã bước chân vào cung cấm, tất cả đều phải học – học để nâng cao kiến thức, học để biết phép tắc, lễ nghi của nề nếp cung đình, bởi không phải chỉ cần có sắc đẹp và được vua yêu là đủ. Bà Từ Cung không đi ra ngoài khuôn khổ đó, nghĩa là phải học. Ai đã có dịp tiếp xúc với bà Từ Cung đều công nhận rằng trong cung cách ứng xử, bà rất đáng bậc mẫu nghi. Trong điều kiện bắt buộc phải nâng cấp và đầy đủ điều kiện thuận lợi để nâng cấp như thế, cộng thêm với tình thương và nỗi nhớ con ở phương xa, bà Từ Cung có đối cảnh sinh tình để làm thơ cũng không phải là chuyện không thể có.
Vì sao có thể tin Thái hậu là tác giả?
Tôi có 3 lý do để tin như thế:
1) Những người làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ là những chuyên viên đầy khả năng và thận trọng về mặt nghiên cứu, biên khảo, nghĩa là họ làm việc một cách có phương pháp, chứ không tùy tiện. Khi tiếp nhận bài thơ và bản dịch từ ông quan trẻ, hẳn J.Y Claeys cũng đã có một xác tín nào đó về xuất xứ và tác giả nên mới công bố trong bài báo. Thêm vào đó, khi tiếp nhận nguyên bản tiếng Việt từ tay Claeys, hẳn học giả Trần Văn Giáp cũng nắm vững xuất xứ và tác giả nên mới dịch lại bài thơ cho sát hơn, đúng hơn, và mặc dầu thấy rõ khuyết điểm nhưng vẫn tôn trọng nguyên bản nên không có một sửa chữa nào.
2) Mặc dầu “ông quan trẻ tuổi đầy tương lai” đã trao cho J.Y Claeys bài thơ có kèm theo bản dịch với một ít chú thích nhưng Claeys vẫn phải đưa nguyên văn tiếng Việt cho Phụ tá trường Viễn Đông Bác Cổ là học giả Trần Văn Giáp giải thích thêm. Học giả họ Trần sau đó đã cung cấp cho Clayes một bản dịch thứ hai có nhiều điểm khác với bản dịch đầu tiên. Ông cũng phê bình rằng bài thơ có hai chỗ bị khổ độc trong câu 2 của khổ thơ thứ 2 và trong câu 2 của khổ thứ 9.
Bài thơ vô đề này, mới nhìn, cứ tưởng là thơ mới, làm theo kiểu một khổ 4 câu, nhưng thật ra là 10 bài Đường thi tứ tuyệt, luật bằng vần bằng, công thức như sau (B=bằng; T= trắc):
B B T T T B B
T T B B T T B
T T B B B T T
B B T T T B B
Hai khổ (phải gọi bài mới đúng) có chữ bị khổ độc là : chữ nước trong câu 2 khổ thứ 2
Thương con thơ ấu đã không cha!
Du học nước người chẳng quản xa.
Thời thế phong trào đâu đã thấu,
Hai vai nặng một gánh sơn hà!
Và chữ đế trong câu 2 khổ thứ 9:
Dặng con ghi dạ, chớ nên nguôi,
Dẫu bực đế vương nữa cũng người,
Phải nhớ cương thường luân lý cũ,
Thương dân, thương nước, ích cho đời.
Theo luật thơ Đường, các chữ thứ 1, 3, 5 không cần phải tuân theo bằng, trắc (nhất, tam, ngũ bất luận) Tuy nhiên, nếu chữ thứ 3 trong câu 2 mà đổi bằng thành trắc thì khó đọc khó nghe, nghĩa là phạm khổ độc. Sở dĩ tôi phải dài dòng về điểm này vì đây là một chi tiết lý thú và hữu ích.
Thật vậy, bên cạnh lỗi về thi pháp như Trần Văn Giáp đã phê bình, những chữ viết sai về chính tả như đã đánh dấu ở trên (vường Thượng uyển, Muông dặm sơn khê, Cắcruột, nỗi biệc li, bàn hoàng, Dực mình, Dặng con ghi dạ) cho ta hiểu được điều gì? Nó giúp ta hiểu được rằng tác giả của bài thơ quả có được học hành nhưng chưa phải tới nơi tới chốn, không phải được đào tạo tại trường lớp có bài bản đàng hoàng, mà là một kiểu học ngang, học tắt. Điều này rất phù hợp với hoàn cảnh của bà Từ Cung. Nếu đem so sánh bài thơ này với 10 bài Khuê phụ thán, ta thấy rõ Khuê phụ thán thật là chải chuốt văn chương chứ không “thật thà” cả hình thức lẫn nội dung như bài thơ vô đề gởi thăm con này. Phải cảm ơn J.Y.Claeys và Trần Văn Giáp đã không vì “ngứa mắt” mà sửa chữa những lỗi hình thức, nhờ đó giúp thêm yếu tố xác quyết về tác giả.
3) Một yếu tố khác nữa không thể bỏ qua là cái ngôn ngữ Huế trong thơ. Trên niên san Tiếng Sông Hương (Dallas, Texas, 1993) tác giả Nguyễn Đặng có kể rằng trong một lần tiếp kiến viên Toàn quyền Đông Dương, bà Từ Cung có nói, “Tôi tra rồi, ăn nói tào lao xịt bộp..” làm cho viên quan đi theo mặc dầu rất giỏi tiếng Pháp nhưng không biết làm sao để phiên dịch cho đúng cái thành ngữ Huế rặt đó. Cái bản chất Huế rặt này thể hiện rất rõ trong bài thơ, dù tác giả quả tình muốn chải chuốt ít nhiều. Chẳng hạn:
– Thương con đau ruột mẹ trăm chìu.
Các nơi khác, quen nói là chiều. Người Huế khi nói chữ này thường bỏ mất âm ê, Ví dụ :
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chìu.
– Canh lụn chiêm bao mường tượng bóng
– Trước mặt hình con mượng tượng hoài.
Khi nhớ mang máng về một điều gì hay một hình ảnh nào đó, người ta dùng từ mường tượng và từ này, người Huế cũng nói thành mượng tượng. Tác giả đã lợi dụng sự biến âm này để làm cho câu thơ hợp với niêm luật hơn, kể cũng khéo.
– Dực mình thức giấc cứ mơ màng.
– Dẫu bực đế vương nữa cũng người
Khi bắt gặp chữ dực và bực này, tôi không khỏi vỗ đùi hứng thú. Nó gợi trong tôi tiếng nói thuở nào của mệ ngoại, của mẹ già! Người miền khác đọc là giật (giật mình) và bậc, nhưng Huế thì quen biến âm â thành ư, bởi thế mới có giựt (viết sai thành dực) thay chogiật, bực thay cho bậc.
Đã thế, khi phát âm lại không cần phân biệt c và t, gi và d, gi và nh. Do đó mới xuất hiện cái
chữ Dực mình không giống ai. Tương tự, ở dưới ta sẽ bắt gặp chữ dặngtrong câu Dặng con ghi dạ, chớ nên nguôi.
oOo
Xin nhớ rằng bài thơ đã được viết bằng quốc ngữ trước 1930, nghĩa là loại quốc ngữ chưa mấy hoàn chỉnh, chẳng hạn, người ta viết quấc gia, quấc ngữ là thường. Nếu không khắc khe quá về mặt hình thức ( chữ quốc ngữ viết chưa chỉnh, hai câu bị khổ độc), thì bài thơ của Đoan Huy Hoàng Thái hậu đáng kể là một bài thơ dễ thương, dễ cảm động lòng người. Theo truyền thống văn chương cổ điển, điển cố cũng được đưa vào (8) một cách chừng mực, chứng tỏ có đọc sách, ngoài ra không có gì là làm dáng thái quá. Nội dung bài thơ khai triển quanh mấy chữ: nhớ, thương, và dặn dò. Phần thương chiếm hai khổ đầu, phần nhớ chiếm 4 khổ giữa, và 3 khổ gần cuối dành cho dặn dò, khổ cuối cùng dành cho phần kết. Đó là một bố cục hợp lý và cân đối, phải chăng. Ngoài chuyện dặn con ráng chăm học như mọi bà mẹ khác, khổ thứ 9 khá cảm động:
Dặng con ghi dạ chớ nên nguôi,
Dẫu bực đế vương nữa cũng người,
Phải nhớ cương thường luân lý cũ,
Thương dân thương nước, ích cho đời.
Đây không phải là thơ khẩu khí. Đây là tấm lòng của một bà mẹ vua xuất thân dân dã nhưng thấm nhuần đạo nghĩa vì nước vì dân. Đoan Huy Hoàng Thái hậu làm thơ không phải để phổ biến, để khoe tài. Bà chỉ làm thơ vì con, vì vậy, bài thơ quí ở tâm tình trung thực.