Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhà nước
Khái niệm DNNN Nói đến doanh nghiệp chúng ta có thể có một khái niệm chung nhất: doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để tiến hành các hoạt động kinh doanh, thực hiện các chức năng sản xuất, chế biến, chế tạo ...
Khái niệm DNNN
Nói đến doanh nghiệp chúng ta có thể có một khái niệm chung nhất: doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để tiến hành các hoạt động kinh doanh, thực hiện các chức năng sản xuất, chế biến, chế tạo sản phẩm hoặc mua bán hàng hoá, làm dịch vụ cung ứng nhằm thoả mãn nhu cầu của thị trường, xã hội. Thông qua các hoạt động hữu ích đó, doanh nghiệp có thể đạt được nhiều mục đích khác nhau trong đó có mục đích căn bản là thu lợi nhuận hoặc lãi.
DNNN là một bộ phận của doanh nghiệp nói chung được hình thành và phát triển trong nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhưng tiêu thức cụ thể để phân loại và nhận biết về DNNN ở nhiều nước trên thế giới còn rất khác nhau. Mỗi quốc gia trong quan niệm của mình có thể nhấn mạnh tiêu chí này hay tiêu chí khác.
ở việt Nam trong những năm trước đây, khi nền kinh tế phát triển dựa trên quan niệm về mô hình kinh tế xã hội chủ yếu bao gồm hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể. Chúng ta thường có quan niệm về các XN quốc doanh, Công ty quốc doanh, Mậu dịch quốc doanh,… đó là những tổ chức do nhà nước: đầu tư vốn (100%), quyết định thành lập, quyết định phương hướng hoạt động, quyết định bộ máy quản lý và tuyển dụng người lao động theo chế độ biên chế ổn định. Sau quá trình đổi mới những năm vừa qua, chúng ta đã hoàn thiện dần quan niệm về DNNN. Điều này thể hiện rõ trong các văn bản pháp quy: nhiều Luật, Nghị định đều có đề cập đến khái niệm DNNN. Tiêu biểu như Luật DNNN được Quốc hội thông qua, ban hành ngày 20/04/1995.
Điều 1 của Luật qui định:” DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh, hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội do nhà nước giao.”
DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ các hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
Tại điều 3 của Luật: xác định vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý là vốn ngân sách cấp, vốn có nguồn gốc vốn ngân sách cấp và vốn của doanh nghiệp tự tích lũy.
Tóm lại: DNNN là một thực thể kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, ra đời và hoạt động kinh doanh độc lập chịu sự quản lý vĩ mô của nhà nước. DNNN là một tổ chức kinh tế khác với tổ chức hành chính và tổ chức sự nghiệp nhà nước, không chỉ lấy hoạt động kinh doanh, hoạt động công ích làm chủ yếu. Điều cơ bản là DNNN phải chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, các nguồn lực do nhà nước là chủ sở hữu giao cho doanh nghiệp.
Cũng theo Luật DNNN của Việt Nam các DNNN được chia ra theo các tiêu chí sau:
Theo mục tiêu hoạt động (2 loại)
+ DNNN hoạt động công ích: là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
+ DNNN hoạt động kinh doanh: là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Theo sở hữu (4 loại)
+ Loại DNNN chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước.
+ Loại DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nước nắm giữ không dưới 50% vốn.
+ Loại DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó phần sở hữu của nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của các cổ đông lớn nhất khác trong doanh nghiệp.
+ Loại DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nước sở hữu cổ phần đặc biệt để nắm giữ quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo thoả thuận được ghi trong Điều lệ doanh nghiệp.
Theo mô hình tổ chức hoạt động (2 nhóm)
+ DNNN độc lập, các Tổng công ty 90,91
+ DNNN thành viên của các Tổng công ty
Theo cấp chủ quản (3 nhóm)
+ DNNN do các Bộ quản lý
+ DNNN do địa phương quản lý
+ DNNN do các tổ chức đoàn thể quản lý
Theo qui mô kinh doanh (3nhóm)
+ DNNN qui mô lớn: vốn nhà nước trên 10 tỷ đồng, doanh thu trên 100 tỷ.
+ DNNN qui mô vừa: vốn nhà nước từ 5-10 tỷ đồng, doanh thu từ 50-100 tỷ.
+ DNNN qui mô nhỏ: vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, doanh thu dưới 50 tỷ.
Theo các ngành kinh tế kỹ thuật
Hiện nay do sản xuất của chúng ta chưa phát triển, do đó tuỳ thuộc ở từng địa phương có thể phân nhóm DNNN theo ngành chuyên môn hoá hẹp hoặc chuyên môn hoá tổng hợp, hoặc chia theo 4 nhóm ngành tổng hợp sau đây:
+ DNNN thuộc các ngành sản xuất nông lâm nghiệp và phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.
+ DNNN thuộc các ngành công nghiệp-xây dựng và phục vụ sản xuất công nghiệp.
+ DNNN thuộc các ngành thương mại, dịch vụ, vận tải, thông tin liên lạc.
+ DNNN thuộc các ngành còn lại
Vai trò của DNNN luôn được xem là một bộ phận trọng yếu của kinh tế nhà nước và vai trò của kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Vai trò đó được thể hiện trong 3 mối quan hệ:
- DNNN trong mối quan hệ với các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế. DNNN trực tiếp tham gia thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.
- Tương quan của DNNN trong hệ thống các giải pháp, công cụ kinh tế mà nhà nước lựa chọn để điều tiết, thúc đẩy và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế.
- Mối quan hệ của DNNN với hệ thống doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong ba mối quan hệ này, mối quan hệ thứ nhất quy định vai trò của DNNN trong những giai đoạn phát triển nhất định. Có thể vai trò của DNNN sẽ thay đổi tăng hoặc giảm, tuỳ theo chính sách và chiến lược phát triển. Trong hai mối quan hệ sau, vai trò của DNNN được đặt trong tương quan của việc lựa chọn phương pháp trực tiếp hay gián tiếp để điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế, ưu thế của các DNNN trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cộng so với hệ thống doanh nghiệp tư nhân.
Để đánh giá vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường, có thể nêu những nét chủ yếu sau.
* Vai trò kinh tế
Với một quốc gia đang trong quá trình quá độ lên CNXH, vấn đề quyết định là cần nhanh chóng đưa nền kinh tế từ trình độ lạc hậu chuyển lên trình độ tiên tiến hiện đại có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, điều tiết, định hướng cho các thành phần khác. Như vậy trong hệ thống doanh nghiệp của nền kinh tế nhiều thành phần, DNNN có vai trò là một bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước, kinh tế nhà nước và DNNN tiếp tục nắm giữ vai trò chủ đạo để thúc đẩy nền kinh tế phát triển đi lên CNXH.
Đặc điểm của các nước chậm phát triển là cơ cấu kinh tế bất hợp lý, công nghiệp chưa phát triển, nông nghiệp lạc hậu, thị trường giao lưu trao đổi hàng hóa hạn hẹp, tổ chức sản xuất phân tán, mức thu nhập bình quân của người dân thấp,…Để thực hiện chiến lược tăng tốc, rút ngắn và tạo dựng cơ sở kinh tế, nhà nước tất yếu phải lựa chọn giải pháp phát triển các DNNN, tăng cường kinh tế nhà nước. Việc phát triển các DNNN có hai ưu thế: thứ nhất, đó là ưu thế về khả năng huy động vốn và khả năng cạnh tranh để tham gia vào thị trường quốc tế; Thứ hai, với ưu thế về qui mô tập trung sản xuất, các DNNN có lợi thế hơn trong việc áp dụng công nghệ hiện đại. DNNN trở thành các đối tác chính để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động liên doanh liên kết.
Có nhiều khả năng để tập trung nguồn vốn, tổ chức sản xuất hiện đại, qui mô lớn và lợi thế về chuyển giao công nghệ, hội nhập với nền kinh tế thế giới…DNNN có vai trò quyết định trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển tăng tốc, rút ngắn khoảng cách giữa các nước chậm phát triển với các nước phát triển. Như vậy, xét ở cả hai khía cạnh, khía cạnh tạo lập những cơ sở kinh tế của lực lượng kinh tế nhà nước và khía cạnh phát triển thì DNNN là giải pháp tốt nhất để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, tại các nước phát triển DNNN không thể hiện rõ vai trò của một công cụ để Chính phủ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Nhưng tại các nước chậm phát triển, thực trạng hệ thống doanh nghiệp còn kém phát triển, khu vực doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ bé, lực lượng kinh tế vĩ mô của nhà nước còn hạn chế thì việc phát triển hệ thống DNNN với nhiều doanh nghiệp qui mô lớn, trình độ công nghệ cao,…là một giải pháp có tính quyết định đến việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng nhiều thành phần và mở cửa hội nhập. DNNN có thể trở thành những công cụ trực tiếp để tham gia khắc phục những hạn chế của kinh tế thị trường, khi nó có đủ khả năng cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công cộng có ý nghĩa đặc biệt đôí với sinh hoạt chung của xã hội mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng đầu tư.
Bên cạnh các ưu thế kể trên, DNNN vẫn còn có những nhược điểm, đó là: kém năng động trong kinh doanh, nếu DNNN phát triển mở rộng bao trùm toàn bộ nền kinh tế nó sẽ làm cho nền kinh tế rơi vào trạng thái thiếu tính đa dạng, trì trệ và kém hiệu quả.
Một cơ cấu kinh tế hợp lý trong mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp là sự cân bằng giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân và đặc biệt là khu vực DNNN và khu vực doanh nghiệp tư nhân. Cùng với quá trình phát triển DNNN sẽ diễn ra quá trình thay đổi phương pháp trong cơ chế quản lý của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế: chuyển từ việc sử dụng công cụ quản lý trực tiếp sang công cụ quản lý gián tiếp. Nhà nước điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế là chủ yếu, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh là chức năng của các doanh nghiệp.
* Vai trò chính tri
Đối với một quốc gia, các DNNN luôn có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng, nó là bộ phận định hướng về mặt kinh tế và là công cụ thực hiện các chính sách của nhà nước. Thực sự, hệ thống DNNN cung cấp cho nhà nước một cơ sở kinh tế để nhà nước trở thành một lực lượng chi phối trực tiếp đối với bộ phận kinh doanh tư nhân. Thêm vào đó, ở giai đoạn đầu của tiến trình phát triển, DNNN là bộ phận tạo nền tảng của kinh tế nhà nước. Nó cung cấp nguồn lực chính, chủ yếu cho hoạt động của nhà nước, đồng thời là công cụ trực tiếp hữu hiệu để thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng và thực hiện những mục tiêu kinh tế-xã hội do Chính phủ đề ra. Các DNNN còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh đối với mỗi quốc gia.
* Vai trò xã hội
Bên cạnh các mặt tích cực của mình nền kinh tế thị trường luôn có những khuyết tật như tạo ra sự phân hoá giàu nghèo, thất nghiệp,…Vì vậy, sự tồn tại của DNNN với việc sử dụng nhiều lao động, tăng công ăn việc làm và tăng thu nhập sẽ làm giảm bớt áp lực của sự bất bình đẳng. Và thông thường DNNN thực hiện các quyền, nghĩa vụ bảo hiểm cho người lao động tốt hơn các thành phần khác. Ngoài ra, mỗi quốc gia thường có những vùng xa xôi hẻo lánh, tại đó trình độ dân trí còn thấp, dân cư ở những vùng này phải chịu nhiều thiệt thòi vì sự phát triển kinh tế thấp hơn các vùng khác. Việc đầu tư cho các DNNN ở các vùng này có vai trò quyết định bảo đảm cung cấp các nhu cầu về dịch vụ công cộng, thiết yếu cho đời sống của dân cư vùng sâu, vùng xa; đảm bảo thực hiện đầy đủ và hiệu quả các chủ trương chính sách hỗ trợ phát triển của Chính phủ dành cho những vùng này.
Tình hình hoạt động của các DNNN ở nước ta trong những năm qua (từ 1986 đến nay)
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chỉ thị, nghị quyết về công tác sắp xếp DNNN, thể hiện quyết tâm đổi mới hệ thống DNNN. Quá trình thực hiện sắp xếp DNNN sau gần 10 năm đổi mới (bắt đầu từ NĐ 388/HĐBT ngày 20/11/1991) đã làm thay đổi và tạo ra nhiều chuyển biến đáng kể, góp phần tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta những năm qua. Công cuộc đổi mới DNNN đã thu được những thành tựu nhất định, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các DNNN, tiến tới thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Có thể tóm tắt những đặc trưng cơ bản về tình hình hoạt động của DNNN ở nước ta trong những năm qua bằng một số nhận xét sau đây.
Những kết quả đạt được
- Thực hiện Nghị định số 388/HĐBT ngày 20/11/1991 về quy chế thành lập và giải thể DNNN, tính đến cuối năm 1994 so với năm 1989 cả nước đã giảm từ 12.296 DNNN xuống còn khoảng 6.300 DNNN, như vậy, số DNNN đã giảm 51%. Từ cuối năm 1995 đến nay chúng ta vẫn kiên trì thực hiện sắp xếp DNNN, đặc biệt là áp dụng các hình thức cổ phần hoá, giải thể các DNNN thuộc diện thua lỗ, không có khả năng thanh toán, thí điểm vận dụng các hình thức bán khoán, cho thuê DNNN. Việc sắp xếp DNNN được các ngành, các địa phương tiếp tục quán triệt các Chỉ thị số 500/TTg ngày 25/05/1995, Chỉ thị số 20/TTg ngày 21/04/1998,…Tính đến thời điểm đầu năm 1999 trên cả nước chỉ còn lại 5.500 DNNN, trong đó có hơn 30% thuộc Trung ương quản lý và gần 70% do các địa phương quản lý.
Việc đổi mới sắp xếp lại các DNNN đã làm giảm bớt những trợ cấp trực tiếp từ ngân sách nhà nước. Tỷ lệ các khoản trợ cấp trực tiếp từ NSNN cho các DNNN giảm từ 8,5% GDP xuống 0,5% GDP. Trong khi đó đóng góp của DNNN vào GDP tăng từ 32,5% năm 1990 lên 42,3% năm 1995.
- Hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNN được nâng cao hơn so với trước đây, thể hiện ở việc tăng tỷ trọng DNNN có lãi, giảm tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ, tăng số lãi tuyệt đối nói chung vào lãi nộp ngân sách của DNNN, hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao. Cụ thể:
Đến cuối năm 1994 mỗi DNNN có bình quân khoảng 8 tỷ đồng tiền vốn (trước đây khoảng 3,3 tỷ). Số doanh nghiệp có dưới 100 lao động giảm đáng kể, doanh nghiệp có từ 500-1000 lao động tăng. DNNN do trung ương quản lý có vốn từ 8,2 tỷ đồng tăng lên 20 tỷ đồng, DNNN do địa phương quản lý có vốn từ 1,5 tỷ đồng tăng lên 3 tỷ đồng.
Hiệu quả sử dụng đồng vốn được cải thiện nhất định, tỷ suất lợi nhuận thực hiện so với doanh thu tăng từ 3,61% năm 1990 lên 4,98% năm 1994. Trong năm 1995, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 19,2% và trên doanh thu đạt 5,55%. Nếu ở năm 1992, một đồng vốn của nhà nước tạo ra 2,41 đồng doanh thu, 0,07 đồng lợi nhuận và 0,18 đồng nộp NSNN; thì đến năm 1997, một đồng vốn nhà nước đã tạo ra 3,58% đồng doanh thu, 0,2 đồng lợi nhuận và 0,325% đồng nộp ngân sách. Thu nộp NSNN của DNNN và tỷ lệ nộp ngân sách so với doanh thu không ngừng tăng từ 13,36% năm 1990 lên 16,83% năm 1995.
Số DNNN làm ăn có lãi tăng từ 65,3%năm 1991 đến 79% năm 1995, lãi ròng trong khu vực này tăng từ 3.275 tỷ đồng năm 1992 lên 7.175 tỷ đồng năm 1994 và tăng 13.480 tỷ đồng trong năm 1995. Số doanh nghiệp bị lỗ giảm từ 24,26% năm 1991 xuống còn 16,5% năm 1995.
- Trong thời gian qua Chính phủ đã thành lập 18 Tổng công ty có qui mô quốc gia (QĐ 91/TTg) và 73 Tổng công ty có qui mô nhỏ hơn (QĐ 90/TTg) nhằm tập trung vốn, kỹ thuật để tăng cường sức cạnh tranh và định hướng chiến lược của nhà nước trong các ngành kinh tế quan trọng. Các Tổng công ty nhà nước này thu hút gần 2000 DNNN, chiếm khoảng 30% tổng số DNNN đang hoạt động và khoảng 70% DNNN do trung ương quản lý. Các Tổng công ty nhà nước hiện nay chiếm khoảng 80% sản lượng và vốn của khu vực DNNN, có khả năng chi phối vào toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.
- Quyền tự chủ về sản xuất kinh doanh và về tài chính của DNNN đã được tăng cường, nhận thức của các DNNN đã thay đổi (từ mang tính chất bao cấp sang tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình). Cơ cấu kinh tế nói chung và trong khu vực kinh tế quốc doanh nói riêng đang chuyển biến theo hướng có lợi cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Các DNNN hiện nay đã và đang chiếm một tỷ lệ lớn trong lĩnh vực XNK góp phần tăng nhanh nguồn vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, đóng góp vào việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Những yếu kém tồn tại và khó khăn của DNNN trong thời gian qua
Mặc dù trong những năm qua, khu vực kinh tế nhà nước hay cụ thể hơn là các DNNN đã đạt được những chuyển biến tích cực và có những kết quả nhất định. Song vẫn còn có những trở ngại, yếu kém làm cản trở các DNNN thực hiện vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Có thể nêu ra các điểm chính sau:
- Từ năm 1996 đến nay mức tăng trưởng của DNNN cũng như toàn bộ nền kinh tế đã chững lại, có dấu hiệu trì trệ thấp hơn so với thời kỳ 1990-1994. Số DNNN hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ tăng lên. Tính đến đầu năm 1997 trong hơn 5000 DNNN chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp là hoạt động có hiệu quả và đóng góp hơn 80% tổng số nộp ngân sách của tất cả các DNNN. Số còn lại hoạt động kém hiệu quả, thậm chí có doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản. Trong một báo cáo năm 1998 thì số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả khoảng 40%, 20% không có lãi và 40% kinh doanh chưa có hiệu quả khi lỗ, khi lãi. Có doanh nghiệp được coi là làm ăn có lãi nhưng cả năm 1999 tổng số lãi làm ra chỉ có 195.000 đồng. Đến năm 2000, kiểm tra các quyết toán tài chính của DNNN đã đưa ra con số: khoảng 30% doanh nghiệp bị thua lỗ hoặc không có lãi.
- Cơ cấu DNNN trong các ngành nghề còn bất hợp lý và có sự dàn trải tại nhiều địa phương. Cơ cấu ngành và vùng vẫn có sự chồng chéo, số lượng các DNNN còn nhiều và nhỏ về qui mô. Theo thống kê của Ban chỉ đạo sắp xếp và phát triển doanh nghiệp trung ương thì trong tổng số các DNNN hiện nay số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,45%, tại 14 Tỉnh loại doanh nghiệp có vốn như vậy chiếm 90% và chủ yếu ở các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, du lịch. Số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng cũng chỉ chiếm 21%.
- Các DNNN hiện đang ở trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Có tới 60% DNNN không đủ vốn pháp định theo quy định tại Nghị định số 50/CP, vốn thực tế hoạt động chỉ đạt 80%. Phần lớn các doanh nghiệp hiện nay chỉ bảo đảm khoảng 10% vốn lưu động, tức còn thiếu 20% để đạt được mức tối thiểu về vốn lưu động hoạt động. Thêm vào đó, vốn lưu động chỉ có 50% được huy động vào kinh doanh, còn lại nằm trong tài sản, vật tư bị mất mát, kém phẩm chất, công nợ không thu hồi được, lỗ chưa được bù đắp. Tình trạng này dẫn tới các doanh nghiệp phải vay vốn ngân hàng với lãi suất cao nên hiệu quả đầu tư thấp, khó thu hồi vốn, khó trả nợ đến hạn, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Tỷ trọng nợ quá hạn, nợ khó đòi của các DNNN hiện nay ngày càng tăng, trong 14% nợ NHTM thì DNNN nợ 70%. Năm 1996 tổng số nợ là 174.797 tỷ đồng, năm 1999 là 199.060 tỷ đồng, cũng trong năm 1999 số nợ phải trả lên tới 62%. Việc thiếu vốn đã khiến cho các DNNN ít có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện đại hoá công nghệ, không có khả năng cạnh tranh.
- Trình độ công nghệ kỹ thuật của các DNNN nhìn chung còn rất lạc hậu, trung bình trình độ công nghệ của các DNNN lạc hậu so với mặt bằng công nghệ thế giới là khoảng 20 năm. Trong số các DNNN thuộc trung ương quản lý có tới 54,3% ở trình độ phổ thông, 41% ở trình độ cơ khí và chỉ có 4,7% ở trình độ tự động hoá, các DNNN thuộc địa phương trình độ còn thấp hơn. Vì trình độ công nghệ kỹ thuật kém nên năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp làm giảm khả năng cạnh tranh của các DNNN.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực DNNN trong những năm qua tăng trưởng chưa đồng đều giữa các ngành, chưa tương xứng với những tiềm lực phát triển mà nhà nước trang bị cho các DNNN. Nhà nước chưa có những biện pháp hiệu quả để thúc đẩy động lực hoạt động của các doanh nghiệp nhằm sử dụng hợp lý và tối ưu những nguồn lực mà các DNNN hiện có. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý các DNNN còn những hạn chế và chưa theo kịp sự phát triển chung, có nhiều cơ quan quản lý doanh nghiệp nhưng lại không có cơ quan nào chịu trách nhiệm về những hậu quả do các DNNN gây ra.
Những thành quả và tồn tại trên đây đang là thực trạng chung, phản ánh tình hình hoạt động của hầu hết các DNNN ở nước ta hiện nay. Trong quá trình đổi mới các DNNN chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc cải cách, tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp để bảo đảm cho các DNNN tiếp tục đảm nhận tốt vai trò của mình trong nền kinh tế. Trước mắt phải hình thành một cơ cấu hợp lý và đổi mới triệt để cả về số lượng, chất lượng và cơ chế hoạt động của các DNNN. Thực tiễn cho thấy, vấn đề khó khăn nhất cho hầu hết các doanh nghiệp hiện nay vẫn là vốn cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng ngân hàng rất cần thiết cho quá trình tăng trưởng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, ngân hàng phải sử dụng đồng vốn của mình có hiệu quả, phục vụ phát triển kinh tế đất nước nhất là đối với các DNNN đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Thực trạng DNNN trên địa bàn Thành phố Hà Nội (Tp.HN)
Theo báo cáo tổng hợp của Ban Đổi mới DNNN Tp.HN, tính đến đầu năm 1998 trên địa bàn thành phố có 849 DNNN, trong đó có 552 doanh nghiệp do trung ương quản lý và 297 doanh nghiệp thuộc Tp.HN quản lý. Trong tổng số 849 doanh nghiệp có 21 doanh nghiệp công ích (trung ương: 9 DN; thành phố: 12 DN).
Về vốn và công nghệ: năm 1997, tổng số vốn nhà nước của các DNNN trung ương là 8.416 tỷ đồng (khoảng 640 triệu USD), tổng số vốn các DNNN do thành phố quản lý năm 1997 là 1.833 tỷ đồng (khoảng 110 triệu USD), năm 1998 là 1.939,5 tỷ đồng. Năm 1997, tổng số vốn kinh doanh của các DNNN trung ương là 17.602 tỷ đồng. Tổng số vốn các DNNN thành phố quản lý là 2972,9 tỷ đồng, năm 1998 là 2618,8 tỷ đồng. Như vậy, có thể thấy vốn của DNNN thuộc thành phố còn quá nhỏ so với các DNNN trung ương: vốn kinh doanh của DNNN trung ương gần gấp 4 lần; vốn ngân sách gấp 2,5-3 lần; vốn tự bổ sung lớn hơn gấp 4 lần.
Hầu hết các DNNN trên địa bàn thành phố đều có công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị cũ, trừ một số doanh nghiệp mới được đầu tư từ năm 1995-1997, còn lại đều ít có khả năng thay đổi chất lượng sản phẩm hoặc tạo ra sản phẩm mới nếu không được đầu tư mới hoặc đầu tư cải tạo, hiện đại hoá công nghệ hiện có. Thực tế này ảnh hưởng nhiều đến khả năng cạnh tranh của các DNNN với các đối thủ khác ngay trên thị trường trong nước.
Về hiệu quả hoạt động kinh doanh: DNNN thuộc thành phố quản lý làm ăn có lãi năm 1997 là 78,6%, năm 1998 là 81,14%. Đặc biệt có một số doanh nghiệp đạt doanh thu lớn, đóng góp ngân sách cao, có vị trí quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố. Tuy nhiên, xu hướng số doanh nghiệp lỗ ngày càng tăng: tỷ trọng doanh nghiệp lỗ năm 1997 là 9,7%, năm 1998 là 14,5%. Nguyên nhân của tình trạng trên, theo các doanh nghiệp tự đánh giá là do: 30-40% lỗ do thiếu vốn, khoảng 30% lỗ do công nghệ lạc hậu, 10-15% lỗ do biến động thị trường.
Ngoài những đặc điểm chung của các DNNN, có thể đánh giá về đặc điểm và thực trạng phát triển các DNNN trên địa bàn Tp.HN như sau:
- So với DNNN do trung ương quản lý trên cùng địa bàn, phần lớn các DNNN thuộc thành phố quản lý đều thuộc nhóm doanh nghiệp qui mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh kém hơn.
- Chỉ có khoảng 15-20% DNNN thuộc diện kinh doanh hiệu quả, chuyển đổi và thích nghi nhanh chóng với cơ chế mới. Khoảng 60% DNNN làm ăn trung bình, cố gắng giữ vững trong tình hình khó khăn hiện nay. Năng lực sản xuất phát huy đến 80-100%, sức cạnh tranh của sản phảm không cao, khả năng ổn định và phát triển chưa chắc chắn.
- Khoảng 20% DNNN yếu kém thực sự, thua lỗ kéo dài, nợ đọng lớn. Việc làm, thu nhập của người lao động thấp, không ổn định. Nếu để kéo dài sự tồn tại của các DNNN loại này sẽ gây khó khăn, thất thoát tài sản nhà nước.
TDNH góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự có để hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc này không những hạn chế khả năng mở rộng sản xuất của doanh nghiệp mà còn tăng giá vốn của doanh nghiệp đó. Hiện nay, để thực hiện các quyết định đầu tư, một doanh nghiệp có thể sử dụng hai nhóm nguồn vốn: vốn tự có (hay vốn cổ phần) hoặc vốn đi vay. Nếu gọi:
Ke : giá vốn cổ phần thể hiện bằng mức lợi nhuận mà người sở hữu cổ phần được hưởng với tư cách là người góp vốn.
Kd : giá vốn vay, chính là lãi suất của khoản tiền vay
Ve,Vd : tương ứng là tỷ lệ sử dụng vốn cổ phần và vốn vay
Ko : giá vốn bình quân của doanh nghiệp
Ko = KeVe + KdVd
Vì lãi suất tiền vay không phụ thuộc thu nhập để tính thuế, ta có:
Ko = KeVe + Kd(1-T)Vd với T: tỷ lệ thuế TNDN
Rõ ràng càng sử dụng nhiều vốn vay, doanh nghiệp càng lợi dụng được nguồn vốn đang rẻ đi do ảnh hưởng của chính sách thuế. Mặc dù giá vốn cổ phần có thể tăng lên nhằm bù đắp sự tăng lên của rủi ro tài chính nhưng mức tăng của nó nhỏ hơn sự giảm đi của giá vốn vay, vì trong con mắt của các cổ đông mức rủi ro này đã được bù đắp bởi các lợi thế về thuế.
Về mặt lý thuyết, mặc dù vốn vay có nhiều lợi thế nhưng không phải lúc nào doanh nghiệp cũng vay được và muốn vay bao nhiêu tuỳ ý, vì khi vốn vay vượt quá mức nào đó giá vốn vay sẽ tăng lên và làm tăng chi phí vốn. Chính vì vậy, doanh nghệp phải xây dựng một cơ cấu vốn tối ưu, đó là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm mục đích đạt tối đa hoá giá trị thị trường của các doanh nghiệp tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất. Để có thể tận dụng tối đa lợi thế của nguồn vốn vay và đảm bảo một mức chi phí vốn rẻ nhất tại mức rủi ro có thể chấp nhận được.
Tuy nhiên, trong điều kiện ở nước ta hiện nay, các DNNN có thể đạt mức giá vốn bình quân rẻ hơn vì theo Quyết định 324 của Thống đốc NHNN về quy chế cho vay đối với khách hàng thì tỷ trọng vốn vay trong tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp không còn được coi là căn cứ để giới hạn mức cho vay. Đặc biệt đối với DNNN có thể vay vốn ngân hàng với tỷ lệ lớn hơn vốn tự có nhiều lần, chỉ cần có phương án kinh doanh khả thi. Điều đó có nghĩa là vốn TDNH giúp các DNNN giảm chi phí vốn, tạo cơ hội giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
TDNH bổ sung vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
NHTM với tư cách là một trung gian tài chính thực hiện một trong những chức năng chủ yếu của mình là tiến hành huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi sau đó cho vay ra đối với nền kinh tế. Thông qua các hoạt động cho vay của mình ngân hàng đã đảm bảo cho các doanh nghiệp nói chung, DNNN nói riêng không chỉ duy trì sản xuất kinh doanh mà còn tái sản xuất mở rộng.
Đối với các DNNN hiện nay, vốn vẫn luôn là vấn đề gây khó khăn nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp là phổ biến và nghiêm trọng. TDNH là hình thức tốt nhất để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động hoặc sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp bởi tính linh hoạt của nó. TDNH không chỉ còn là nguồn vốn bổ sung nữa mà đã dần trở thành một nguồn vốn chủ yếu, quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. TDNH giúp cho các doanh nghiệp không bỏ lỡ thời vụ làm ăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục, giúp quá trình lưu thông được thông suốt, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn xã hội.
Mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị trường,…để thực hiện được các khoản đầu tư đó doanh nghiệp không chỉ cần có vốn lưu động tạm thời mà còn phải có một lượng vốn cố định và ổn định lâu dài. Qui mô vốn đầu tư cho các yêu cầu trên đôi khi vượt quá khả năng vốn của doanh nghiệp. TDNH có thể giúp cho các doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu vốn phục vụ cho các hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh đó.
TDNH giúp các doanh nghiệp tăng cường quản lý và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả
Bản chất của TDNH không phải là hình thức cấp phát vốn mà là hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời hạn qui định. Do đó, các doanh nghiệp sau khi sử dụng vốn vay trong sản xuất kinh doanh không chỉ cần thu hồi vốn là đủ mà còn phải tìm ra nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng thì doanh nghiệp mới có thể trả được nợ và thu lãi.
Về phía ngân hàng, khả năng thu hồi khoản cho vay phụ thuộc rất lớn vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Vì vậy, trước khi cho vay ngân hàng thường xem xét đánh giá rất kỹ lưỡng phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp có phương án khả thi, lợi nhuận đủ cao để có thể trả nợ ngân hàng. Ngoài ra, doanh nghiệp muốn có được vốn vay ngân hàng thì phải hoàn thiện năng lực tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Thêm vào đó, trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ thực hiện qui trình giám sát, kiểm tra, kiểm soát trong và sau khi cho vay, thông qua việc làm đó ngân hàng giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đúng những điều khoản như đã thoả thuận trong hợp đồng, sử dụng vốn đúng mục đích để đem lại hiệu quả cao nhất.
Một yếu tố khác là do quyền lợi của ngân hàng luôn gắn chặt với quyền lợi của khách hàng, nên ngân hàng sẽ sẵn sàng hợp tác với doanh nghiệp để tháo gỡ những khó khăn trong phạm vi cho phép, tư vấn cho doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan, tạo điều kiện giúp doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
TDNH tác động tích cực đến nhịp độ phát triển, thúc đẩy cạnh tranh
Trong điều kiện nền kinh tế thị trưòng, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,…sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường, thoả mãn nhu cầu thị trường trên mọi phương diện, không những thoả mãn về phương diện giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá mà còn đòi hỏi thoả mãn cả trên phương diện thời gian, địa điểm. Hoạt động của các nhà doanh nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế nhất định theo qui định chung của thị trường thì mới đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh. Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán,…mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng vật liệu mới, mở rộng qui mô sản xuất một cách thích hợp,…Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối doanh nghiệp với thị trường, nguồn vốn TDNH cấp cho các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường, theo kịp với nhịp độ phát triển chung, từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
TDNH góp phần thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các DNNN hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu tập trung vốn đã đưa đến sự hình thành các công ty cổ phần, đó là một loại hình doanh nghiệp dựa trên cơ sở góp vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. ở điều kiện Việt Nam hiện nay, sự hình thành của các công ty cổ phần là một tất yếu. Hơn nữa, sự hình thành các công ty cổ phần còn là một đường hướng của nền kinh tế mở, qua đó có thể thu hút đầu tư từ tầng lớp dân cư và từ nước ngoài vào nước ta. Đây cũng là một biện pháp để kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Thực hiện theo xu hướng trên và để phù hợp với sự phát triển, tiếp tục khẳng định vài trò của kinh tế nhà nước trong những năm qua Đảng và Nhà nước qua đã và đang tiến hành cổ phần hoá các DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này. Và qua thực tiễn của quá trình thực hiện đã cho thấy rõ vai trò của các NHTM và đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng của nó đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của các công ty cổ phần nói chung và công ty cổ phần hoá từ DNNN nói riêng.
Công ty cổ phần dù mới thành lập hay cổ phần hoá, vốn vẫn còn hạn hẹp so với yêu cầu của kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Khi đó ngân hàng sẽ đóng vai trò là trợ thủ đắc lực cho các công ty cổ phần, tạo điều kiện cho các công ty cổ phần vay vốn tín dụng. Sau đó ngân hàng có thể giúp công ty quản lý vốn tại các tài khoản mở tại ngân hàng. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động sau này, khi các công ty cổ phần có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh công ty có thể huy động vốn bằng nhiều cách chẳng hạn như vay vốn TDNH hay tiến hành phát hành cổ phiếu, trái phiếu,…Trong quá trình đó công ty cổ phần có thể tìm được sự trợ giúp tích cực từ phía ngân hàng, từ khâu chuẩn bị tính toán số lượng phát hành, đấu thầu,…cho đến khi thu hồi vốn về cho công ty. Như vậy, với sự tham gia của các NHTM và đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng của nó các DNNN có thể có nhiều thuận lợi trong quá trình cổ phần hoá và do đó sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các DNNN hiện nay.