Phương pháp kẹp điện áp
Để mô tả định lượng cơ chế quá trình hoạt hóa, chúng ta phải đo được các dòng ion cấu thành nên dòng màng tổng. Trong mục này, chúng ta mô tả cách hoàn thành việc này bằng phương pháp đo kẹp điện áp. Các thành phần dòng sau xuất hiện ...
Để mô tả định lượng cơ chế quá trình hoạt hóa, chúng ta phải đo được các dòng ion cấu thành nên dòng màng tổng. Trong mục này, chúng ta mô tả cách hoàn thành việc này bằng phương pháp đo kẹp điện áp.
Các thành phần dòng sau xuất hiện khi sợi thần kinh bị kích thích tại một đầu và điện áp cũng như dòng điện màng của xung truyền trong dây thần kinh được đo ở vùng ngoại biên:
Các dòng điện dọc trục do quá trình truyền xung thần kinh:
- Io = tổng dòng điện dọc bên ngoài sợi trục thần kinh
- Ii = tổng dòng điện dọc bên trong sợi trục thần kinh
Lưu ý rằng: Io = - Ii
Dòng xuyên màng im trên đơn vị chiều dài có được từ các đặc tính bản thân màng và được liệt kê như sau:
- Thành phần dòng điện dung imC trên đơn vị chiều dài
- Thành phần dòng điện ion imI trên đơn vị chiều dài bao gồm:
- Dòng natri imNa trên đơn vị chiều dài
- Dòng kali imK trên đơn vị chiều dài
- Dòng clo (hay dòng rò) iL trên đơn vị chiều dài
Mục đích của ta là chọn lọc đo được từng dòng ion một, đặc biệt là các dòng Na+ và K+. Chú ý rằng vì ta xét các dòng ion trong suốt quá trình truyền xung thần kinh, nên trở kháng màng (rm) không phải hằng số; nên nó được biểu diễn bằng ký hiệu tượng trưng là biến trở. Bất kì phép đo dòng màng tế bào nào với quá trình truyền xung thần kinh đều cho tổng các dòng này.
Dòng màng tổng (như trong hình 4.1) thỏa mãn phương trình 3.48 mà có thể được viết dưới dạng như sau:
(4.1)
Trong đó:
im = là dòng xuyên màng tổng trên đơn vị chiều dài (µA/cm chiều dài sợi trục)
imI = là thành phần dòng ion xuyên màng trên đơn vị chiều dài (µA/cm chiều dài sợi trục)
cm = là điện dung màng trên đơn vị chiều dài (µF/cm chiều dài sợi trục)
Vm = là điện áp màng (mV)
t = là thời gian (ms)
ri = trở kháng dọc trục nội bào trên đơn vị chiều dài (kΩ/cm chiều dài sợi trục)
ro = là trở kháng kẽ trên một đơn vị độ dài (kΩ/cm chiều dài sợi trục)
x = khoảng cách (cm)
Bằng cách đo Vm(t) và vận tốc quá trình truyền xung Θ, ta có thể tính được Vm(t – x/Θ) và từ đó tìm được im nhờ phương trình 4.1. Mặc dù việc xác định được im là hiển nhiên, nhưng độ chính xác phụ thuộc vào sự đồng nhất của mẫu cũng như sự hiểu biết về các thông số ri, ro, và Θ. Một phương pháp thỏa đáng hơn nữa là dựa trên sự khử các dòng dọc trục.
Bằng qui ước điện áp xuyên bào Vm thì điện thế nội bào Φi, và điện thế ngoại bào Φo có quan hệ với nhau: Vm = Φi - Φo. Ngoài ra dòng xuyên bào hướng dương cũng được chọn lựa khi hướng ngoại (đi từ bên trong ra bên ngoài tế bào). Những quy ước này được thể hiện ở phương trình 4.1. Hơn nữa, để duy trì tính nhất quán cách vẽ các mạch điện truyền thống trong các mạch tương đương của màng tế bào, điểm cuối tham chiếu, được chọn để làm điểm đầu cuối mô tả tín hiệu được đo bên ngoài tế bào, làm điểm trên cùng ở bên trong tế bào. Trong những hình vẽ sau minh họa thích hợp cho màng tế bào theo chiều dọc, bên trong màng được định vị bằng mặt bên trái và bên ngoài màng được định vị bằng mặt bên phải của màng tế bào.
![](/pictures/picfullsizes/2018/05/24/dvm1527146369.jpg)
(A) Nó được tính toán mà một sóng truyền được bắt đầu ở bên trái và có một vận tốc không đổi ở nơi điện áp được đo. Để nhận được dòng điện xuyên màng ta sử dụng phương trình 4.1; việc thực hiện sẽ yêu cầu đo vận tốc truyền lan vì vậy ²Vm/ x² = (1/Θ²) ²Vm/ t² được ước lượng.
(B) Một phần của phương pháp lõi dây dẫn thẳng (the linear core conductor model), (tính toán giới hạn môi trường ngoại bào) phản ánh phương pháp vật lý trên. (Chú ý rằng chúng ta chỉ xét các dòng ion trong suốt quá trình dẫn truyền xung động thần kinh, trở kháng màng rm không đổi; vì vậy được biểu diễn tượng trưng là biến trở. Để đánh giá nồng độ ion thay đổi theo thời gian do đó Em cũng biến đổi theo thời gian). Các quy ước này được giải thích ở bài này.
Với thiết bị đo thích hợp có thể kích thích đồng thời toàn bộ chiều dài sợi trục thần kinh. Khi đó điện áp màng tức thời biến đổi đồng nhất dọc theo toàn bộ chiều dài sợi trục thần kinh. Trạng thái này có thể được tạo nên bằng cách lồng vào một điện cực kích thích mỏng dọc theo trục của toàn bộc chiêu dài sợi thần kinh bị cắt ra, trong khi đặt một điện cực khác cùng chiều dài bằng kim loại có hình trụ bao bên ngoài sợi dây thần kinh đó. Điều này làm cho điện thế chỉ có thể thay đổi theo phương bán kính trục, và chỉ phát sinh ra dòng điện tỏa tròn. Hơn nữa, tất cả các nguyên tố màng vận hành đồng thời, vì vậy màng toàn bộ sợi trục thần kinh cũng đồng thời vận hành. Dó đó giữa các điện cực đồng tâm, đo được một dòng điện màng tuân theo phương trình:
Trong đó
im = dòng điện tổng trên đơn vị chiều dài [µA/cm chiều dài sợi trục]
imI = dòng ion tổng trên đơn vị chiều dài [µA/cm chiều dài sợi trục]
cm = điện dung được tạo ra trên đơn vị chiều dài [µF/cm chiều dài sợi trục]
Vì các thiết bị bảo đảm sự đồng đều dọc sợi trục, nó được mô tả là kẹp không gian. Mô hình đo dòng điện bằng kẹp không gian được minh họa trong hình 4.2.
Nguyên lý phương pháp đo kẹp không gian. (A) Cấu trúc vật lý của thiết bị mà đảm bảo sự đồng đều dọc trục, do đó dòng điện chỉ theo hướng tỏa tròn, vì vậy khử dòng một chiều. (B) Dòng điện tổng im, xuyên suốt màng (trên đơn vị chiều dài), bao gồm các thành phần là các dòng ion imI và các dòng điện dung imC.
Trong phương pháp kẹp không gian, dòng điện màng bao gồm thành phần tụ đóng vai trò như một nguồn dòng gây nhiễu. Thành phần điện dung có thể loại bỏ được bằng cách giữ điện áp màng không đổi trong suốt quá trình đo. Như vậy gọi là phương pháp kẹp điện áp. Do dòng điện dung, trước hết là vế phải phương trình 4.2, tỷ lệ với thời gian phát sinh điện áp, dòng điện dung sẽ bằng không khi điện áp phát sinh bằng không. Trong trường hợp này kết quả phương trình của dòng điện màng giảm là:
im = imI (4.3)
Và dòng điện màng chỉ còn là các dòng ion. (Tiếp theo thời điểm điện áp tăng vọt, một xung dòng ngắn xuất hiện do điện dung của màng. Nó mất đi rất nhanh và không ảnh hưởng đến việc đo các dòng nảy sinh từ sự kích hoạt).
được minh họa trong thiết bị kẹp không gian trên hình 4.3. Một nấc điện áp mong muốn phải được chuyển đổi giữa các điện cực bên trong và bên ngoài và dòng chảy giữa các điện cực này được đo (là dòng xuyên màng).
Thí nghiệm kẹp điện áp (A) Nguyên lý đơn giản của thí nghiệm. (B) Mô hình dòng điện của màng sợi thần kinh trong thí nghiệm kẹp điện áp.
Hiện nay mạch đo kẹp điện áp ở mức độ nào đó phức tạo hơn các phương pháp đã mô tả ở trên và được minh họa trên hình 4.4.
Các điện cực riêng biệt được dùng cho sự ứng dụng dòng điện (a, e) và nhận cảm điện áp (b, c) để tránh các lỗi điện áp do bề mặt điện cực chất điện phân và trở kháng trong dây điện cực dòng mỏng.
Hình 4.4 mô tả nguyên lý mạch đo được thực hiện bởi Hodgkin, Huxley, và Katz (1952). Mạch này gồm có một bộ khuếch đại đồng nhất (có trở kháng vào lớn) mà xác định được điện áp màng ( Vm) giữa bên trong dây thần kinh (b) và bên ngoài dây thần kinh (c).
Đầu ra được đưa tới một bộ cộng, tại đây sự chênh lệch giữa điện áp kẹp (Vc) và điện thế màng đo được (Vm) được xác định và khuếch đại. Đầu ra này, K(Vc - Vm), sẽ hướng tới bộ phát dòng điện. Bộ phát dòng này cung cấp dòng điện cho hệ thống các điện cực (a, e) và vì thế xuyên qua màng. Dòng điện được phát sinh trong suốt quá trình đo điện áp qua một điện trở hiệu chỉnh Rc.
Dòng này được điều chỉnh sao cho điện áp Vm càng tiến gần đến giá trị điện áp Vc, sau đó tín hiệu hồi tiếp được giảm về không. Khi K lớn, sự cân bằng được thiết lập về căn bản Vm = Vc và giữ nguyên giá trị đó. Đây là nguyên lý của hồi tiếp âm và điều khiển tỷ lệ.
Phép đo này được thực hiện với những dây thần kinh có kích thước lớn, đường kính của nó xấp xỉ khoảng 0,05 mm được lồng vào trong hai điện cực mô tả như trên hình 4.4 với dây thần kinh. (Chúng thường được chế tạo là những vòng xoắn ốc đan xen quấn quanh một lõi cách điện).
Bước điện áp và dòng màng trong thí nghiệm kẹp điện áp. Dòng điện được ứng dụng xuyên qua hai điện cực (a) và (e) trong khi điện áp xuyên màng Vm được đo ở hai điện cực (b) và (c). Nguồn dòng được điều khiển để duy trì điện áp màng ứng với một vài giá trị Vc được chọn.
Kẹp điện áp đối với điện áp Nernst natri
Hình 4.5 mô tả dòng xuyên màng đặc trưng thu được bằng phương pháp kẹp điện áp. Điện thế bên trong màng thay đổi đột ngột từ điện thế nghỉ -65 mV tới +20 mV với bước nhảy là +85 mV. Như vậy, một dòng ion bắt đầu đi vào cơ thể và ra khỏi cơ thể sau khoảng 2 ms và đạt tiệm cận với gí trị 2 mA/cm2.
Ta sẽ khảo sát sự xuất hiện dòng điện màng tế bào ứng với các mức điện áp khác nhau. Hình 4.6 cho thấy các kết quả thí nghiệm của 5 phép đo ở các bước điện áp từ 91-143 mV. Trong chuỗi đường cong này cần chú ý dòng điện màng lại được tạo nên bởi hai trạng thái: một trạng thái sớm và một trạng thái muộn như trên hình 4.5.
Dòng sớm có hướng vào phía trong đối với các bước điện áp nhỏ hơn. Khi bước điện áp tăng, biên độ của thành phần hướng vào trong giảm và biến mất hoàn toàn với bước điện áp 117 mV. Với các bước điện áp cao hơn, dòng sớm sẽ hướng ra ngoài và tăng tỷ lệ với bước điện áp. Mặt khác thành phần dòng màng muộn luôn hướng ra ngoài và đơn điệu tăng đến gần một giới hạn tiệm cận nào đó. Giới hạn này sẽ tăng lên khi hàm số của bậc thang điện áp tăng.
Tổng hợp điện áp màng nghỉ -65 mV và bước điện áp 117 mV được kết quả điện áp màng tế bào là +52 mV. Dựa vào nồng độ Na+ ở bên trong và bên ngoài màng, phương trình Nernst ước lượng được một điện áp cân bằng +50 mV. (Chú ý ví dụ trong mục 3.1.3). Vì vậy có thể kết luận rằng thành phần dòng điện sớm được tạo ra bởi các ion Na+ từ đó giảm đúng về 0 ở điện áp cân bằng Na+ và hướng vào trong khi Vm thấp hơn điện áp Nernst Na+ và hướng ra phía ngoài khi Vm lớn hơn điện áp Nernst Na+. Do đó thành phần hướng ra ngoài (thành phần muộn) phải phụ thuộc vào dòng ion K+. Bởi vì Cl- hướng về gần trạng thái cân bằng, nên đối với sợi thần kinh nghỉ thì khi tính thấm của Cl- không tăng trong suốt quá trình điện thế hoạt động dòng Cl- sẽ trở nên rất nhỏ so với Na+ và K+ và có thể bỏ qua.
![](/pictures/picfullsizes/2018/05/24/qsn1527146369.jpg)
Dãy các bước điện áp kẹp
Sự biến đổi của nồng độ ion
Một phương thức tiếp cận để chọn lựa đo lường dòng đơn ion Ka+ bằng cách dùng một bước kẹp điện áp tương ứng với điện thế Nernst Na+. Việc này có tác dụng khử dòng Na+. Bằng cách thay đổi có hệ thống nồng độ Na+ ở bên ngoài sợi thần kinh, và sau đó việc lựa chọn bước kẹp điện áp ở điện áp Nernst Na+ tương ứng, chúng ta có thể nghiên cứu được trạng thái đơn K+. Và khi trở lại việc đo dòng dưới điều kiện bình thường (với cả Na+ và K+), trừ dòng K+ còn lại là đơn dòng ion Na+.
Phương pháp này được mô tả ở hình 4.7. Hình này cho thấy kết quả của một thí nghiệm kẹp điện áp được thực hiện đầu tiên trong nước biển thường ở mức điện áp 56 mV. Hình 4.7.A mô tả điện thế Nernst ứng với các ion và các điện áp kẹp khác nhau. Đường cong trên hình 4.7.B diễn tả dòng điện màng tổng được đo bào gồm các dòng thành phần là Na+ và K+. Đường cong (C) là dòng màng được đo sau khi các ion Na+ trong màng đã giảm vì vậy mức điện áp 56 mV đạt tới điện áp mới Nernst Na+. Do đó đường cong này chỉ thể hiện dòng K+. Bằng cách trừ đường cong (C) cho (B) ta được đường cong (D) là dòng màng chỉ của các ion Na+ trong trạng thái ban đầu (Na+ không thay đổi). Các đường cong (C) và (D) là các thành phần mong muốn của (B). Chú ý rằng Hodgkin và Huxley đã giả sử rằng dòng K+ không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi các ion Na+ ở bên ngoài màng vì vậy đường cong (C) sẽ giống nhau đối với cả nước biển thường và nước biển nồng độ Na+ bị giảm bớt.
Một kỹ thuật rất thông minh cũng được phát triển bởi Baker, Hodgkin, và Shaw (1962) là cho phép một sự thay đổi để tạo ra các thành phần ion bên trong. Hình 4.8 mô tả cách chuẩn bị sợi thần kinh cho kiểu thí nghiệm của Hodgkin và Huxley. Với thí nghiệm này, đầu tiên là phải ép chặt bào tương ra ngoài; xong xuôi thì sử dụng con lăn (A). Sau đó rót đầy chất dịch lỏng (B) vào sợi trục. Điện thế màng được đo trong suốt quá trình xung lực hoạt động trước khi thực hiện (C) và sau khi thực hiện (D). Các phép đo tiếp theo quá trình hồi phục lại các điều kiện đầu cũng được thực hiện để đảm bảo rằng trạng thái điện của màng tế bào thần kinh không thay đổi.
![](/pictures/picfullsizes/2018/05/24/ize1527146369.jpg)
Sự chuẩn bị sợi thần kinh lớn của mực ống cho thí nghiệm kẹp điện áp,nơi nồng độ các ion bên trong tế bào thần kinh bị thay đổi. (A) Đầu tiên bào tương được đảy ra ngoài nhờ con lăn (B) Đổ đầy chất dịch lỏng vào sợi dây thần kinh (C) Các xung động thần kinh được đo trước khi truyền dịch (D) Các xung động thần kinh được đo sau khi truyền dịch.
Sự chặn các kênh ion nhờ các tác nhân hóa dược.
Các dòng ion Na+ và K+ cũng có thể bị tách riêng bằng cách đưa vào các tác nhân hóa dược để chặn chọn lọc các kênh Na+ và K+. Narahashi, Moore và trường đại học của họ cho rằng tetrodotoxin (TTX) chặn có chọn lọc dòng Na+ đi qua màng tế bào (Narahashi, Moore, and Scott, 1964; Moore et al., 1967). Armstrong và Hille (1972) thì cho rằng tetraethylammonium (TEA) sẽ chặn được dòng các ion K+. (Tetrodotoxin là hóa chất độc hại hiện có trong nội tạng của loài cá fugu ở Nhật Bản).
Hình 4.9 cho ta một chuỗi các thí nghiệm kẹp điện áp, bắt đầu ở điều kiện thường. Sau đó các kênh Na+ bị chặn bởi tetrodotoxin, và phép đo chỉ thể hiện dòng của ion K+. Về sau tetrodotoxin được phun ra xa, và một phương pháp điều khiển đo được thực hiện. Tiếp đến là kênh K+ bị chặn bằng tetraethylammonium sẽ cho phép đo chọn lọc được dòng ion Na+ (Hille, 1970).
Phương pháp đo chọn lọc dòng Na+ và K+ bằng cách lựa chọn việc chặn các kênh Na+ và K+ với các tác nhân hóa dược. (A) Đo điều khiển khi không có tác nhân hóa dược. (B) Đo sau khi đưa vào tetrodotoxin (TTX). (C) Đo điều khiển khi không có tác nhân hóa dược. (D) Đo sau khi đưa vào tetraethylammonium (TEA).