18/06/2018, 16:51

Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ

Đặng Phương Nghi Nếu các nguồn sử liệu trong nước về Tây Sơn đã được xuất bản hay khai thác gần hết, thì còn nhiều các nguồn sử liệu ngoại quốc chưa được phát hành. Các nguyên bản đó hiện đang được lưu trữ tại các Nha Văn khố Âu châu mà hầu hết là các thư tính trao đổi giữa các Giáo ...

1 a a a a a a a a Quang Trung lên ngôi tại núi Bản.jpg

Đặng Phương Nghi

Nếu các nguồn sử liệu trong nước về Tây Sơn đã được xuất bản hay khai thác gần hết, thì còn nhiều các nguồn sử liệu ngoại quốc chưa được phát hành. Các nguyên bản đó hiện đang được lưu trữ tại các Nha Văn khố Âu châu mà hầu hết là các thư tính trao đổi giữa các Giáo sĩ ngoại quốc.
 

       Một số đã được đăng tải hoặc trong bộ Lettres Édifinates et Curieuses của Gia Tô hội, bộ Nouvelles lettres Édifinates của Hội Truyền giáo Ba Lê, và A. Launay, Documen Tây Sơn historiques sur la mission de Cochinchine, M. E. P, 1925, hoặc trong các Tập san như: Bulletin des Amis du Vieux Hué, Bulletin de la Société des Études Indochi-noises, Bulletin de       l’École francaise d’Éxtrême – Orient, Revue de l’Extrême – Orient, T’oung Pao Revue Indochinoise…Nhưng còn một số lớn chưa được khai thác hay xuất bản. Tài liệu về Tây Sơn còn nhiều, nhưng trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ có thể trích một vài bản văn chọn lọc. Hy vọng rằng tài liệu này sẽ góp thêm một chút ánh sáng cho sự hiểu biết về lịch sử Tây Sơn.

          Chắc chắn, việc sử dụng loại tài liệu này rất tế nhị vì các giáo sĩ không tránh khỏi chủ quan, nhưng nhờ nó ta có một ý niệm về dư luận quần chúng và tình trạng xã hội dưới thời Tây Sơn, không kể đến nhiều chi tiết quan trọng về “Các cuộc Bắc tiến” của Nguyễn Huệ mà không một tài liệu chính thức nào nói tới.  

           Những tài liệu trích dịch dưới đây là những trang nhật ký của Hội Truyền giáo ở Bắc kỳ, đã chép các việc xảy ra ở Bắc Kỳ rồi gửi về Hội Truyền giáo Trung ương ở Paris (Société des Missions estrangères de Paris). Thời kỳ này Giáo hội được điều khiển bởi Đức giám mục Davoust (Jean) 1728-1789. Ông đến Bắc kỳ năm 1753. Đến năm 1759, đi La Mã và Paris, nhưng tới năm 1782 lại trở sang Ma Cao và 1783, trở lại Bắc kỳ. Những trang nhật kỳ này đáng lẽ phải tàng trữ tại Thư viện Hội Truyền giáo Ba Lê, nhưng vào thời Cách mạng Pháp (khoảng năm 1792), Hội Truyền giáo Ba Lê bị thất lạc nhiều tài liệu, và những trang nhật ký này không hiểu lý do nào đã sang Nha Văn khố Quốc gia Ba Lê. Chính vì vậy, hầu như đã không có ai biết về tài liệu của Hội Truyền giáo Ba Lê này.

           (Tài liệu lưu trữ tại Nha Văn Quốc gia Bá Lê(Paris, Archives Nationales F5 ; A 22).

           Nhật ký về những sự kiện đáng ghi nhớ đã xảy ra trong địa phận Giáo hội Bắc Kỳ(1) về chính trị, dân sự và tôn giáo(1a) từ tháng 8-1787,cho tới trung tuần tháng 10-1788(tr.216)

            Từ hồi tướng Coũ Chỉnh(2) trở về thủ đô Bắc Kỳ vào cuối tháng 1-1787, và từ lúc tân chúa (hay kẻ thống trị) Quế(3) tự tử tho lời đồn vài tháng sau khi thấy đảng mình bị tiêu diệt và sự nghiệp của mình bị phá hủy hoàn toàn, quyền lực của nhà vua trẻ tuổi Chiêu Thoung(4) hình như đã hồi phục được sự vẻ vang xưa và mỗi ngày một củng cố trong khi các tiên vương như Cảnh Hưng, như chúng tôi đã từng nói, chỉ là những vị vua trên danh nghĩa và tượng trưng mà thôi.

           Các vụ quấy rối trước đây do “giặc Tây Sơn” gây nên chỉ còn rất hiếm trong nội địa Bắc Kỳ ; phần đông quân lính Tây Sơn đã rút vào Nam và chỉ còn một ít đóng tại xứ Nghệ An và vùng Bô Chinh(5) giáp giới Nam kỳ thượng(6). Nhưng than ôi, sự yên ổn đó chẳng được lâu dài.Tướng Coũ Chỉnh sám hối cho lòng tin cậy và sự khinh suất của ông, hay sự vị nể quá đáng đối với một kẻ thù nguy hiểm(Tây Sơn) vì ông tuồng như nhường cho họ miếng đất Bắc Kỳ trên để họ cai trị, có chỗ vùng vẫy và lối vào tiến chiếm vương quốc khi cơ hội thuận tiện. Vả lại, đáng lẽ tướng Chỉnh phải thận trọng và hiểu rằng tình trạng thái bình mà Bắc Kỳ đang hưởng từ 9, 10 tháng nay, là do sự ân cần và tính dũng mãnh của ông ít hơn là do tình thế chiến trận giữa ông bạo chúa đáng sợ miền Nam kỳ thượng, tục gọi là Đức Oung(7), em thứ 8 của tiếm vương Nhạc và người anh(Nhạc). Tiếm vương buộc lòng phải chịu dưới quyền của em mình và phải nhận mọi điều kiện em mình đặt ra. Quả nhiên, khi Đức Oung hành quân trở về, ông ta vẫn chưa hài lòng về sự bành trướng mới mẻ xứ Phú Xuân của ông. Ông không quên trở lại kế hoạch tiến chiếm Bắc Kỳ mà ông đã nghiên cứu lâu nay.

            Ngày 6-12-1787, tôi nhận được nhiều tin đặc biệt và 2 lá thư của ông Le Breton(8), người trợ tế đại diện cho tôi ở vùng giáp giới Nam kỳ đề ngày 20 và 23-11 cho rằng :

           1) Chừng một tháng nay, một vị tướng của tàu Attila(9) (Nguyễn Huệ) tên là Vach Quinh(10) đã trở lại xứ Nghệ mộ rất nhiều lính và bắt dân chúng cung cấp một số lượng gạo khá lớn.

           2) Từ hai, ba ngày nay, một vị quan khác, cao cấp hơn, trước gọi là Chương Nha, sau đổi thành Đô đốc, rồi Đức Oung và sau cùng gọi là Tiết chế(11) (tất cả các loạn tướng thời đó đều đổi tên như thay áo) cũng tới xứ này những 20 hay 25 con voi và 4.000 đến 5.000 lính Nam Kỳ, chắc là tính tiền lên về phía kinh thành của vương quốc này. Tuy nhiên thượng cấp của ông ta có lẽ chỉ có ý định gửi ông ta ra Bắc Kỳ để mộ lính, thu gạo và ở đó dò xét hành vi và mọi sự đòi hỏi của Coũ Chỉnh và Chiêu Thoung, vị vua bị điều khiển. Múc đích của viên tuyển mộ dân quân Bắc Kỳ là để thay thế các lính cũ của loạn quân Phú Xuân (Nguyễn Huệ) mà từ rầy chúng ta sẽ gọi là Bắc vương (sau ngày ông ta thắng Nhạc tức Thái Đoc(12) và chia lãnh thổ của ông ra làm ba phần chỉ để lại cho người anh 3 tỉnh nhỏ ở giữa quốc gia và cái chức vị Hoàng đế tuy long trọng nhưng lố bịch. Ông tự xưng là Bắc Bình vương tức vua xứ Bắc, biểu lộ như vậy mưu đồ thanh toán Bắc kỳ địa phận phía bắc Nam kỳ thượng). Vì đội ngũ đã bỏ rơi ông để theo Nhạc, trong hoặc sau thời kỳ chiến tranh giữa ông (kẻ chinh phục và phân phát vương vị) và tiếm vương (Nhạc). Ông bị lâm vào tình trạng phải thu thập trên lãnh thổ nhỏ bé của ông những thành phần thuộc giai cấp hạ lưu, những tay anh chị lưu manh, nông dân và cấp cho họ khí giới. Đó là những người lính được chỉ định hoặc để ngăn ngừa một sự tấn công bất thần của quân địch (tuy bị bại trận nhưng được tăng cường với rất nhiều đào binh) hoặc để trù định xâm chiếm Bắc kỳ. Sự đoàn do Tiết chế và Vanh Quinh chỉ huy được phân tán và chỉ định vào các cơ đội dân quân tuyển tại xứ Thanh Nghệ và Bố Chính (bộ phận dùng vào việc dưỡng binh). Sư đoàn này có nhiệm vụ giám sát, bắc buộc những người dân quân phải chiến đấu chống anh em họ. Họ tàn sát ngay tại chỗ những kẻ nào tìm cách trốn tránh hay từ chối đầu quân cho họ. Vì thế trong một cơ đội cứ một người lính Nam kỳ (của Tây Sơn) thì trung bình lại có khoảng 30 hay 100 lính Bắc kỳ.

           Trong một khoảng thời gian ngắn. Tiết chế đã thành lập được một quân đội có lẽ hơn 30.000 người. Quả nhiên, ông ta trực chỉ kinh đô và tới xứ Thanh vào trung tuần tháng chạp. Bấy giờ chính quyền Bắc kỳ mới thức tỉnh khỏi cơn mê ngu nguội của họ và trù liệu những biện pháp cần thiết để đẩy lùi quân địch hay ít nhất cũng ngăn không cho họ tiến vào xứ Nam để vào hoàng thành. Những trận đụng độ đầu tiên giữa hai bên xảy ra ngay sau ngày lễ Giáng sinh. Mặc dầu thỉnh thoảng thua mấy trận và thiệt hại một số lính chính quy, vài trăm lính tập Bắc kỳ, quân Tây Sơn vẫn tiến từ từ về bờ cõi xứ Nam (tức tỉnh Sơn Nam) và chỉ còn cách tư dinh tôi có nữa ngày đường, lại mệt hơn nữa là trong tình trạng nguy cấp như thế mà sự bất hòa lại thình lình bộc phát giữa Coũ Chỉnh và Đốc Chiên trấn thủ xứ Nam (mà tôi đã nhắc tới trong cuốn nhật ký viết năm trước).Sự lủng củng này bắt nguồn từ sự ghen ghét của Đốc Chiên trước uy danh lừng lẫy của Coũ Chỉnh. Đốc Chiên ghép cho Coũ Chỉnh tội ban phát những đặc ân phi pháp cho những kẻ tay chân và chỉ lo tới sự tiến cử họ trong khi đó chính ông và những quan lại dưới quyền ông mới là những kẻ tận tụy với việc nước lại không được đếm xỉa tới. Đốc Chiên vì tham vọng và đố kỵ, cho rằng thời cơ thuận tiện để báo thù Coũ Chỉnh đã tới và định nắm lấy nó nhưng ông nghĩ rằng hành động phản bội của ông không những gây tổn hại cho địch thủ (Coũ Chinh), cho cả nhà vua nói riêng và Vương quốc nói chung mà còn cho cả ông nữa. Ngày 30 tháng 12, một viên sĩ quan theo Công giáo chỉ huy một sư đoàn trọng yếu của hạm đội hoàng gia dưới quyền của Đốc Chiên có viết cho tôi một lá thư trong đó ông cho tôi hay rằng Đốc Chiên không những không đem lực lượng cản địch mà ngược lại còn dự định vượt tuyến vào Nam hàng Tây Sơn. Trước đây, ông ta cùng với Coũ Chỉnh hợp tác với Tây Sơn, (đồng thời tôi nhớ rằng) nhờ vậy ông ta được Tiết chế Tây Sơn ban cho một thẻ thông hành và một số hộ vệ quân. Vì Đốc Chiên đã nhiều lần tỏ ra dũng cảm và am tường chiến thuật của địch nên lính Bắc kỳ tin cậy và sẵn sàng tuân lệnh ông ta hơn các tướng khác. Tin tức về sự phản bội đó làm thay đổi tức thì cục diện chiến cuộc vì nó khuyến khích lòng can đảm của quân Tây Sơn và gây kinh hoàng trong đội ngũ lính Bắc kỳ. Tuy bị bạn đồng liêu bỏ rơi một cách hèn nhát như vậy, Coũ Chỉnh vẫn không nổi giận và giả vờ viết liên tiếp mấy cái thư cho Đốc Chiên, nhân danh Vua và Tổ quốc, khẩn thiết yêu cầu ông này từ bỏ ý định tai hại của ông và gác lại mối di hận sang một bên (vì lợi ích chung). Nhưng tính kiêu căng và sự ngoan cố chung của những kẻ bội phản làm hắn bỏ ngoài tai mọi điều khuyên răn. Bởi vậy Coũ Chỉnh bắt buộc phải đích thân chỉ huy đội ngũ còn lại và cấp tốc rời thủ đô để chặn đường và tấn công địch. Trong khi đó, một vị Hoàng thân (cậu hay chú bác của vua Lê Chiêu Thoung) được cử đi dẹp giặc, gây hoang mang trong dân cư kinh đô vì sự đào tẩu về kinh thành một cách quá vội vã của ông. Coũ Chỉnh tức giận và muốn trừng trị nghiêm khắc người này để làm gương và cảnh báo các vị quan và binh lính dưới quyền ông. Vì vậy ông tâu với vua rằng ông chỉ nhận lãnh trách nhiệm điều khiển cuộc chinh phạt quyết định sự thành bại của đất nước với điều kiện phải bêu đầu ông hoàng kia về hành vi hèn hạ của ông. Vua Chiêu Thoũng không dám từ chối sự đòi hỏi đó. (Chắc chắn hình phạt đáng sợ đó không phù hợp với phong tục Tây Phương và ở đấy mọi người sẽ coi đó là một hành động dã man). Sau đó vào ngày 4 (hoặc 5 gì đó) tháng giêng. Coũ Chỉnh lên đường. Theo nhiều lời đồn thì ông bị ám ảnh bởi những điều gở mà ông đã nhận thấy khi xem xét các tinh tú vì ông ta am hiểu cặn kẽ chiêm tinh thuật). Vả lại ông ta cũng biết rằng mình không được lòng quân sĩ của ông. Qủa nhiên, khi ông ra tới trận tuyến , ông nhận thấy rằng quân đội của ông sẵn sang đào ngũ hay chưa đánh mà đã muốn hành quân Tây Sơn. Trong tình trạng hiểm nghèo đó, vì sợ rơi vào tay Tiết chế, ông không làm gì khác hơn là rút lui một cách kín đáo vào đem 6 và 7 tháng giêng để trở về Hoàng thành. Người ta kể rằng khi tới nơi vừa thấy nhà vua, ông liền kêu rằng: “Bloi oi là Bloi! Nhà Lê đã mất rồi!”(13) rồi ông cầm lấy tay nhà vua. Cả hai vừa khóc vừa xuống một chiếc thuyền chở họ đi ẩn tại “xứ Boc” hay “xứ Bắc”.

          Không chậm trễ, Tiết chế xua quân tiến về kinh đô và vào thành với phần lớn quân sĩ của ông vào ngày mùng 9 tháng 1. Hôm sau chiến hạm Le Castries của Pháp qua ngang Bắc Kỳ.

          Ngày 10, tướng Nam kỳ cho quân đuổi theo Coũ Chỉnh để bắt ông này và mời vua Chiêu Thoũng trở về kinh thành. Cố nhiên nhà vua không dám nhận lời mời. Cuối cùng ngày 12, Coũ Chỉnh bị chính một người đồng hương (và cùng là một cựu chiến hữu) của ông là Ba Trang Thuoc(14)  bắt. Coũ Chỉnh kháng cự một cách dũng cảm nhưng khi thấy con trai ông bị giết một cách dã man ngay trước mặt ông và hơn nữa, theo người ta kể lại vì ông bị thương nặng nơi cánh tay, ông bị bắt buộc phải đầu hàng. Ngay đó, ông bị nhốt trong một cái cũi có buộc đầu con trai ông ở trên. Ông bị đưa về kinh đô. Người ta quả quyết rằng Tiết chế dự định gửi ông vào Phú Xuân để nộp ông cho “Nam kỳ bạo quân” hay Tân Bắc vương. Nhưng lính Bắc kỳ gọi là quân Tam Phủ(15), kẻ thù bất cộng đáy thiên của người tù nhân danh tiếng này, đã hò hét đòi giết ông ngay nên Tiết chế không dám khước từ. Đó là dư luận dân gian. Sự thật thì Tiết chế lúc đó có vẻ không những mong muốn độc lập mà còn hy vọng độc chiếm Bắc kỳ ly khai với chủ ông, nên ông đã rất mừng khi đã trừ được một kẻ địch đáng sợ như Coũ Chỉnh. Coũ Chỉnh, vị tướng bất hạnh bị xử tử tại Hoàng thành hôm 15 tháng 1 và thi thể trần truồng với cái đầu cảu ông bị bêu mấy giờ liền cho công chúng xem. Người ta kể rằng khi Tiết chế đọc bản án tử hình, kể tội ông là một kẻ nghịch lệnh và phản bội, không chịu đến gặp Bắc Vương mặc dù đã nhận được nhiều lệnh gọi, Coũ Chỉnh trả lời rằng : “Ông tốt phúc mà bắt được tôi vì nếu không, chính ông sẽ mất đầu (như tôi sắp mất đây) cuối năm nay”. Cái chết bi thảm của tướng Coũ Chỉnh như thế đó. Ông ta hình như chỉ “trèo cao để ngã đau”. Quyền lực của ông dưới thời vua Chiêu Thoũng mạnh đến nỗi vị vua này định cho ông nhập Hoàng gia bằng cách thừa tự ngài, việc ban thưởng này là rất hi hữu ở các quốc gia khác ! Coũ Chỉnh từ chối. Thực ra, chắc hẳn ông sợ rằng một ân sủng quá đáng như thế đối với dòng dõi ông có thể gây ác cảm và làm thiên hạ chống ông. Vả lại trong triều đình, việc gì ông cũng định đoạt cả. Ngay nhà vua cũng có vẻ nể sợ ông. Ngài hết sức tránh những việc có thể làm mất lòng ông. Đến nỗi một hôm, một số người có cửa hàng tại hoàng thành đến tố cáo với tướng Chỉnh rằng một vài vị hoàng thân, chú bác và cậu vua đến bức hiếp họ không cho họ buôn bán, Coũ Chỉnh bất bình bắt vua phải trừng phạt những người này. Chiêu Thoũng lập tức phải cho bắt mấy người đó nộp cho Coũ Chỉnh. Sau khi quở trách các vị này ông liền bắt họ phải bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Còn cấm họ từ rầy không được la cà trong phạm vi thành phố nếu không tuân lệnh sẽ bị trừng phạt. Lệnh cấm đó tỏ ra có hiệu nghiệm.

          Tiết chế mãn nguyện và tự đắc về thành tích đầu tiên của ông nên thế nào cũng bắt được Chiêu Thoũng. Ông còn khoe khoang rằng ông sẽ cho nhà vua trình diện dân chúng Hoàng thành nhân dịp chào đón năm mới (Bắc kỳ). Nhưng nhà vua này đã phải cải trang nay dưới hình thức này mai dưới hình khác , có khi phải đội lốt một người nông dân, phải chặt củi trong rừng. Rồi khiên lên trên vai (như chính ông đã thú nhận trong một bức thư cảm động mà ông gửi cho thần dân ông ít lâu sau). Nhờ vậy ông đã thoát khỏi cuộc truy tầm của bọn tay chân Tiết chế.

          Những người nào quen suy tưởng thời cuộc bằng nhân nhãn, chỉ coi cái ách vận của Chiêu Thoũng như một trò đùa tàn nhẫn của tạo hóa. Nhưng các giáo sĩ được biết rằng vị vua đó đã đánh dấu sự đăng quang của ông bằng cách chấp chiếu các bằng sắc cho dân những vùng muốn vị thành hoàng lên phẩm trật cao hơn với một giá rất đắt. Hành vi đó (đối với chúng tôi) bắt nguồn từ ba cái tật xấu (của quan lại cũng như của dân chúng) : lòng kiêu căng, tính biển lận và sự mê tín. Những vị giáo sĩ khi biết được cái tin chẳng lành đó, hình như đã tiên đoán, ngay lúc đó, một cuộc cách mạng mà hậu quả sẽ là sự chiếm đoạt ngai vàng và lãnh thổ bởi người ngoài. Họ đinh ninh rằng tại Coũ Chỉnh không những không chống sự mê tín dị đoan đó mà lại  còn khuyến khích nó một cách đê tiện. Chính ông đã nhận được bằng sắc(16) [do vua ban] và sai một anh lính cận vệ Công giáo mang tờ đó về quê ông(17) nên trước sau ông cũng gặp thảm họa nhục nhã.

          Còn tên Đốc Chiên bất trung, hắn không được hưởng lâu sự hoan hỉ của mối thù đã trả. Vài ngày sau sự thất bại và trước ngày hắn bắt và xử tử Coũ Chỉnh, hắn nhận được lời khuyến cáo của vài người bà con hắn ( đang bị Bắc vương giữ làm con tin) ở Phú Xuân bảo hắn chớ có đến thành này. Hắn bèn viết thư cho Coũ Chỉnh xin tha tội đào ngũ của hắn, viện cớ rằng đó là một mưu nhỏ do hắn nghĩ ra để tấn công quân Tây Sơn. Nhưng chẳng may lá thư của hắn của bị địch bắt được, thành thử hắn trở thành kẻ bội phản khả ố đối với hai bên. Tuy nhiên vì lúc đó, hắn có vẻ quả quyết và bị dồn vào thế phải chiến đấu với Tiết chế, nên vua Chiêu Thoũng định che đậy sự phản bội của hắn. Ông ra lệnh cho hắn phải tấn công tiền quân của địch, trong khi cánh quân khác sẽ đánh úp hậu quân còn lại. Từ lúc đó, tức là từ trung tuần tháng giêng, có nhiều trận đánh ác liệt giữa Đốc Chiên và Tiết chế.

          Đến cuối tháng 3, tháng 4 chiến tranh tuy ngăn trở sự hung đồ của Tiết chế nhưng không có hậu quả gì hơn là tăng gia sự tàn phá và sựu khốn cùng trên đất nước. Trong khi quân Nam kỳ làm chủ Hoàng thành và thủ phủ xứ Nam, vị trí bố phòng trọng yếu độc nhất của vương quốc và Đốc Chiên hãy còn đống đồn ở nơi cũ với chiếm thuyền và đủ loại tàu bè, giữ chắc thế thủ ; Tiết chế cùng Vach Quinh (vị tướng hung bạo mà tôi có nói ở đầu bài) và các quan tướng khác bố trí dọc bờ sông các đội vệ binh đủ loại đẻ dò xét động tỉnh của tướng Bắc kỳ. Những vị tướng Nam kỳ quấy phá Đốc Chiên không ngừng và phái bộ hạ đi khắp nơi sách nhiễu dân chúng đủ điều. Người ta chỉ nghe nói đến mộ lính, quyên gạo, quyên tiền. Khi một tổng vừa mới cấp cho Tiết chế một số lính mới đúng ngày đã hẹn (mỗi sự chậm trễ hoặc thiếu sót về vấn đề đó đều bị trừng trị tức thì) người ta lại thấy chẳng bao lâu, những con chim kên kên (chỉ những người lính mới đó) trở lại mang theo danh sách hay bản kê những người có tiếng giàu có hay sung túc [phú hộ], những kẻ có hiềm khích nhiều hay ít với chúng phải nộp bao nhiêu lượng gạo hay bao nhiêu tiền. Chúng khám xét nhà cửa lấy cớ để tìm kiếm khí giới làm cho tôi một bữa phải trốn giữa đồng ruộng, ngay buổi trưa lúc nắng chang chang trong khi chúng lục lọi và làm một bản kê khai tài sản của dinh thự tôi. Chúng còn đòi hỏi tất cả hội đoàn nông dân, làng mạc, thôn xóm phải trình cho chúng biết tình trạng hay bản kê khai chính xác những đất đai của họ nhằm mục đích trưng tập thuế má, và các phụ đảm công khác cùng mộ lính tráng. Tệ hơn nữa tạo nhiều nơi quân Tây Sơn còn tuyển các thiếu nữa trẻ. Chúng đã cướp nhiều cô khỏi tay cha mẹ để làm tỳ nữ hay làm cung nữ cho tên Tiết chế. Muốn dân Bắc kỳ không tài nào chống lại chúng, chúng cho các thủ hạ làm mật sứ đi khắp nơi triệt hạ tất cả những thành lũy hay gò (mô) đất [244] được dựng lên mấy năm trước để chống bọn giặc cướp tại các thôn làng. Nhưng tôi phải ngừng tại đây vì tôi bắt buộc phải thú nhận rằng mưu mô của họ, được sắp trước một cách tinh xảo quá. Những thủ đoạn quấy rối của chúng khiến tôi không thể (tự phụ) là đã trình bày được một ý niệm đầy đủ về tình trạng hỗn loạn và lộn xộn toàn diện… (quân Tay Sơn quấy nhiễu các vị giáo sĩ) [255]. Trong lúc đó Tiết chế vẫn đóng bản doanh tại Hoàng thành, trong phủ chúa được ông biến thành một thứ pháo đài. Ông không che giấu được sự bối rối tuy bề ngoài khinh miệt tướng Đốc Chiên. Ông sợ tướng này là vì bây giờ trong tay ông chỉ còn một số ít lính Tây Sơn (hay Nam kỳ) thực thụ mà thôi vì phần đông lính Nam chết đói hay mất hiệu lực chiến đấu, nguyên do là ở bệnh tật và chiến tranh. Không những ông không hy vọng gì về việc bạo quân Nam kỳ hay Bắc vương gửi quân tăng viện cho ông (tuy vậy ông không ngớt khoe khoang là vẫn nhận được đều đều quân tiếp viện để lung lạc tinh thần quân Bắc kỳ) mà ông còn lo sợ sự phẫn nộ của Bắc vương vì ông khăng khăng từ chối nhiều lần không chịu tuân lệnh gọi ông về Phú Xuân sau khi giết được Coũ Chỉnh. Ông lại còn tình nghi là đã có tham vọng chiếm ngai vàng Băc kỳ đáng lẽ là của chủ ông (Bắc vương) nhân lúc người này đang đánh nhau với Tiếm vương Nhạc, Bắc vương không thể đích thân ra Bắc kỳ để xem xét tận tường các hành động của Tiết chế. Ông phải giao nhiệm vụ đó cho một vị quan thân tín tên là Đại Tư mã(18) kẻ thù công khai của vị tướng tham vọng (Tiết chế). Vị quan này ra Bắc vào đầu tháng 2 với một quân đoàn 2.000 người. Ít lâu sau ông tới kinh đô. Ông không thèm đến chào Tiết chế mặc dù ông này chức lớn hơn. Ông lúc nào cũng tỏ vẻ lãnh đạm và có nhiều ác cảm với Tiết chế. Sự chia rẽ giữa tướng sĩ Nam kỳ cộng với những thắng lợi của Đốc Chiên và vài phe đảng Bắc kỳ khác chống lại Tiết chế bắt đầu làm chúng tôi hy vọng. Nhất là từ trung tuần tháng 4, chúng tôi hy vọng rằng  Bắc kỳ sắp thoát nạn quân Tây Sơn khốn nạn vì chúng không giấu diếm sự bối rối của chúng khi quân Tây Sơn thi nhau đào ngũ và ẩn trốn trong nhà những người dân nào chịu chứa chấp họ.

          Nhưng chúng tôi không ngờ rằng chúng tôi đang sống trước một cuộc đại cách mạng đặt Vương quốc này dưới uy quyền chúng. Thật vậy, vào cuối tháng 3(19) khi Bắc vương đã thắng hai, ba trận quân đội của Tiếm vương Nhạc được cử tới đánh ông (Bắc vương) để trả thù việc ông làm cho anh ông mất thể diện 1787(20), ông chỉ nghỉ tới cuộc chinh phạt Bắc kỳ dự định vào tháng 4. Lúc đó vua Chiêu Thoũng cùng với Đốc Chiên nhờ một chiến thuật đặc biệt, vừa mới phá tan một đội quân lớn của địch. Nghe tin Bắc vương sắp ra. Đốc Chiên vội bỏ dinh sở cũ để lên thuyền trốn ra biển(21). Mãi ngày hôm sau, 30 tháng 4, tin Đốc Chiên bỏ trốn (không rõ duyên cớ đính xác) mới đến tai tôi. Nhưng khi tới bờ biển, Đốc Chiên không có thì giờ thả neo để tìm kiếm lương thực tại vùng lân cận, thì một trận cuồng phong ngược chiều nỗi lên làm phân tán hạm đội của ông. Vì vậy hải quân ông rơi vào tay địch và ông bị bắt vào đầu tháng 5. Còn vua Chiêu Thoũng khó khăn lắm mới thoát nạn được, bằng cách băng qua rừng núi. Hiện giờ, người ta vẫn không biết đích xác vị hoàng đó ra sao. Dân Bắc kỳ không quên nhận xét (như một việc đáng lưu ý) rằng sự liên kết giữa vua và Đốc Chiên cũng là sự mở đầu tai vận của vị tướng từ trước tới giờ có tiếng là tốt số.

          Trong khi đó Bắc vương tiến rất mau, cầm đầu một đại binh cùng đoàn hộ giá gồm 150 con voi. 100 người nằm võng, rất nhiều kiệu sơn vàng lộng lẫy (một cái dành cho Bắc vương, và một cái cho công chúa Hân, cô của Chiêu Thoũng và vợ cả của ông)(22).  Ngày 2-5, tôi hay tin Bắc vương chỉ còn cách trú sở tôi có một ngày đường. Ngày mồng 7, tôi được biết ông đã vào kinh thành sáng mồng 4 nhưng không lộ vẻ vui tươi gì. Có người nói rằng quan Tiết chế có ra đón ông tại một địa điểm cách xa thủ đô nhưng thật ra là với ý định chặn đường và tấn công ông ; nhưng khi thấy ông được bảo vệ kỹ lưỡng quá, nên Tiết chế giả vờ vui vẻ như không hề có tình ý gì. Dù sao Bắc vương vẫn cho người bắt ông tức khắc. Sáng hôm sau, mồng 5 tháng 5, ông bị trói dẫn ra pháp trường và bị bắt quì ở đó cho công chúng xem, phơi mình dưới nắng gay gắt của mặt trời. ngày hôm sau ông bị xử trảm. Đó là vận số xứng đáng [227] cho một kẻ khác máu đã từng gieo tang tóc cho tổ quốc nói chung và Bắc kỳ nói riêng. Theo một lá thư của ông La Mothe(23) thì một người phu khiêng kiệu của các chúa Bắc kỳ đã bị đâm chết bằng một ngọn giáo theo lệnh Tiết chế (không cần phải qua một thủ tục nào cả) ở ngay trong dinh của ông 4 ngày trước khi ông bị xử trảm.

          Ngày 10 tháng 5, một ngày trước lễ Thánh Linh giáng lâm, một vị quan tư lệnh Bắc kỳ tên là Lê Thai(24) và anh (hay em) rể của Coũng Chỉnh bị quân Tiết chế bắt từ trước và bị giam giữ tại Hoàng thành, cũng bị Bắc vương ra lệnh xử trảm… (mưu toan rửa tội hai người nay bất thành)…

          Tuy Bắc vương ra Bắc để lật đổ loạn đảng Tiết chế và để giữ chắc công cuộc cai trị vương quốc được phó thác cho ông nhưng ông sợ vị thái tử hợp pháp của Nam kỳ (Nguyễn Ánh) trở về nay mai và xâm chiếm bất thình lình. Ông phải lập tức lên đường vào Nam với những binh lính mới mộ được tại Bắc kỳ để bố trí phòng thủ và kháng cự lại. “Tân Attila” đó chẳng bao giờ chịu ngồi không tại thủ đô. Ngày 11-5, ông đến cung điện vua Chiêu Thoũng, hình như để chiếm hữu ngai vàng. Song, ông thận trọng không dám công khai tự xưng là vua Bắc kỳ và đành lòng đặt sự cai trị vương quốc trong tay với 4, 5 vị quan Nam kỳ hay Tây Sơn: vị quan thứ nhất là Đại Tư Đồ(25) cháu rể ông và rể tiếm vương Nhạc ; vị quan thứ hai là Đại Tư Mã(26), sư phó ông (mà tôi [228] đã có nói tới) nổi tiếng là dũng cảm và thông minh trong việc điều khiển mọi công viêc (nhiều người trong đó có ông Serard(27) tin là vị này theo Công giáo).

          Ngày 15-5, Bắc vương – từ ít lâu nay ông chỉ tự nhận là Đức lệnh(28), nghĩa là vị Hoàng lập pháp – công bố một sắc lệnh mà nội dung là :

         1) Năm 1786, ông có ra cứu Bắc kỳ và tôn vương Chiêu Thoũng khỏi áp bức của vị Hoàng họ Trịnh định tiếm vị vua dưới cái tên Chúa.

         2) Ông đã giao cho Coũng Chỉnh nhiệm vụ trông nom nhà nước nhưng vị quan này không làm tròn nhiệm vụ đó vì thế ông phải phái Tiết chế ra triệt hạ và lật đổ Coũng Chỉnh, nhưng cuối cùng trái với sự mong đợi của ông, Tiết chế lại lạm dụng quyền thế để quấy nhiễu, hà hiếp dân chúng nên nhà vua (Bắc vương) phải đích thân đến tận nơi để tái lập trật tự.

         Sau vài dòng vào đề như trên, ông tiếp rằng : 4 ngày trước, nghĩa là ngày 11-5, các quan văn võ tới yết kiến ông có hảo ý đệ đơn xin tha cho hoàng tộc Lê và tôn thất chúa Trịnh. Đoạn ngỏ lời với dân Bắc kỳ, ông hỏi họ thích sống dưới chế độ nào: bị một ông hoàng huyết thống nhà Lê cai trị (ông giả vờ không nhắc đến tên Chiêu Thoũng) hay khẩn cầu ông ở lại điều khiển quốc gia để được hưởng một sự thái bình hoàn toàn và vĩnh cửu, dưới sự bảo hộ, giúp đỡ của ông. Ông kết thúc sắc lệnh đó bằng cách yêu cầu mọi công dân (không phân biệt giai cấp, phẩm tước và địa vị) cho biết ý định của họ về việc này.

          Cùng lúc ấy, một sắc dụ khác của Bắc vương công kích vua Chiêu Thoũng được ban hành. Nội dung của nó là :

          1) Vua Chiêu Thoũng là một kẻ vô ơn bạc nghĩa, phản bội sự trợ giúp của Bắc vương.

          2) Vị hoàng đó là một gánh nặng cho quân đội và thần dân của ông. Ông đã không ngừng sách nhiễu họ đủ kiểu đến nỗi họ phải buộc lòng rời bỏ nhà cửa ruộng vườn để tản mát khắp nơi.

          3) Chiêu Thoũng đã phạm trong tội [229] gian dâm và loạn luân ghê tởm với em gái ông và sát nhân vì ông đã cho giết một cách dã man cùng một lúc 3 người chú (bác hay cậu) ông và 1 người vợ của Cảnh Hưng, tổ phụ của ông (tuy nhiên Bắt vương không có trưng bằng cớ).Với những hành động bẩn thỉu và kinh tởm đó, ông không đáng sống chút nào vì thế Bắc vương cho hay rằng bất cứ ai bắt sống Chiêu Thoũng, mẹ và em trai ông ta(29) nộp cho chính quyền sở tại sẽ được tặng thưởng xứng đáng, nơi cư trú sẽ được miễn (suốt đời) khỏi phải trả các thứ thuế, phụ đảm và không phải làm sưu dịch ; ngược lại nếu ai biết chổ ẩn nấu của Chiêu Thoũng mà không báo ngay hay dám chứa chấp ông ta, nếu nhà cầm quyền mà biết được, sẽ bị xử tử tức thì không ân giảm, làng hoặc nơi trú ngụ sẽ bị phá hủy hoàn toàn và biến thành tro.

          Trong khi chờ đợi, vì Bắc vương sắp phải lên đường vào Nam, ông nhất định cho phá hủy thủ đô Bắc kỳ, gọi là Kẻ Cho(30), Kinh đô và Kinh kỳ và xây lại tại xứ Nghệ An một Hoàng thành mới(31) gần quốc gia nhỏ bé của ông (Phú Xuân) và gần Nam kỳ thượng, ở khoảng giữa hai vương quốc. Ông liền cấp tốc cho thực hiện kế hoạch này. Trước hết ông cho phá tất cả các biệt thự của các chúa cũ và của những người chuyên chế biện sự nhà Trịnh ở trong hoàng thành và cho chất lên thuyền những vật liệu, đồ đạt quí nhất và tài sản cùng với một số lớn gạo thu nhặt được để mang tới chỗ được chỉ định là nơi xây cất thành phố tương lai gọi là Phủ Thạch hay Thành Rum. Ông cũng không bỏ sót các dinh vua Chiêu Thoũng và cung điện các nhà vua nhà Lê (ông cho phá tan hết). Ông cho lấy đi tất cả những thứ ông thích, ngay cả đá lát nữa (theo lời đồn). Nhưng, như thế vẫn chưa làm ông thỏa mãn. Tôi nhận được nhiều lá thư và được nhiều người cho biết rằng vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6, Bắc vương nghĩ và kiếm đủ cách tịch thu tiền những kẻ giàu có. Ông lợi dụng một vị quan Trung Hoa tên là Thiẽm Bảy(32), con rễ vua Cảnh Hưng như ông tức là anh (hay em) “cột chèo” bằng cách bảo vị này kê khai những tên đại thương gia giàu có và  những tư nhân có nhiều tiền để ông xua lính vào cướp. Cuối cùng ông kiếm chuyện với tên đồng lõa ti tiện này (tức vị quan Trung Quốc). Ông cho tra tấn thật dã man tên đó cùng với vợ hắn để ép chúng làm tờ kê khai đít xác của cải của chúng. Ông đã thành công trong việc chiếm đoạt tài sản kếch xù của chúng.

          Mấy lá thư đó còn cho tôi biết rằng :

         1) Người ta không biết gì hơn nữa về các phản ứng của vị Bắc vương đang phẫn nộ vì sự thất bại của đội quân do ông phái đi dẹp các loạn quân Bắc kỳ còn lại và dân cư miền thượng.

           2) Bà góa phụ Cảnh Hưng, mẹ vợ ông có lần xin ông tha cho các vị quan Bắc kỳ, đặc biệt là cho Đốc Chiên. Người ta đồn rằng bà có cho Đốc Chiên 100 thoi (hay đỉnh) vàng để ông ta dùng vào việc mua chuộc các quan lại, bảo tồn cái đầu ông. Nhưng vì sợ hải trước sự phẫn nộ của con rễ bà, bà đã bỏ trốn. Bắc vương lập tức cho tịch thu đồ đạc và tài sản của bà Công chúa Bắc kỳ (tức là bà Hân) vợ ông bị đánh 20 roi theo lệnh ông. Hình như bà này đã oan trách chồng bà vì sợ ngược đãi đối với mẹ bà.

             3) Khi mẹ vợ ông bị điệu về triều đình, ông đã trách mắng bà thậm tệ vì mối cảm tình của bà đối với Đốc Chiên. Số vàng do bà cấp cho Đốc Chiên để chạy tội phải vào tay ông. Ông còn cho lấy cung của Đốc Chiên, vị tướng đáng thương này đã bị đóng gông gần một tháng nay. Rồi ông cho đánh vị tướng này 40 trượng vì tội từ chối, không chịu khai chổ vua Chiêu Thoũng ẩn trốn. Cuối cùng, ông ra lệnh xử trảm vị tướng này ngày 1 tháng 6.

              4) Ông vừa mới cho giết bào đệ vua Chiêu Thoũng; bị bắt khi đánh nhau với quân Tây Sơn.

          5) Ông còn giữ tại Hoàng thành tất cả các văn võ đại thần Bắc kỳ, không cho phép họ ra khỏi thành bất cứ vì nguyên do gì. Người ta không biết số mạng của họ rồi đây sẽ ra sao.

           6) Ông cho tuyển chọn rất nhiều thợ và nghệ sĩ đủ loại để mang họ theo ông. Ông dùng họ vào việc xây cất tân kinh thành. Ông bắt mỗi nghiệp đoàn [230] phải cấp cho ông ít nhất 15 người.

            7) Ông mới ra lệnh mộ một đội quân 240.000 người gồm toàn lính cũ thuộc cựu quân đội vương quốc, và nhiều dân quân mới. Trong thời gian 5 ngày, mọi khu vực phải cấp đầy đủ số lính mới. Số lính được tuyển mộ vượt hẳn nhu cầu chiến tranh của Bắc kỳ và gần gấp đôi số mà chính quyền trước có lệ tuyển và duy trì.

            8) Lại có lệnh mới bắt nộp ngay lập tức và cùng một lúc các thứ thuế được trả làm hai kỳ trước kia, các thứ thuế gạo tháng 2 và tháng 10, tất cả các thuế má khác chưa được trả đầy đủ ; không ai được than phiền hay bày tỏ ý kiến về việc đó. Các xã trưởng và phú hộ (hào mực) nào không tuân lệnh ngay sẽ bị đánh 100 trượng hoặc sẽ bị xử tử tùy theo họ phạm trọng tội hay khinh tội.

            Đó là đại khái kết quả của những cuộc hành quân và cách xử lý của Bắc vương trong thời gian ngắn ông lưu lại tại thủ đô Bắc kỳ. Ông rời nơi này sau ngày lễ thánh Jean(33) để về Phú Xuân chặn đường vị vua hợp pháp đang tìm cách chiếm lại đất đai của ông (Nguyễn Ánh). Ông hấp tấp đến nỗi ông chỉ ghé ở một ngày tại nơi được chỉ định xây thành phố mới. Theo thư của ông Breton nhận được hồi cuối tháng 7, cuộc hành trình gian khổ ấy cộng với cái khí tiết nóng bức quá độ đã làm nhiều binh lính, ngựa và voi phải bỏ mạng giữa đường. Từ ngày ông ấy trở vào Nam kỳ, chúng tôi không nhận được tin tức nào về việc làm và sức khỏe của ông ấy (Bắc vương)… (tác giả nói về tình trạng hiện tại)… Hiện thời, cả Bắc kỳ đều trong tình trạng chiến tranh, đâu đâu cũng thấy khí giới. Chỗ nào cũng có bè đảng. Tuy chúng không chịu kết hợp với nhau nhưng chúng cũng chẳng ghét quân Tây Sơn lắm. Thành thử quân Tây Sơn, tuy ít ỏi, [231] lợi dụng được sựu chia rẽ và bất hợp tác của chúng để tiêu diệt chúng dần dần nhờ khí giớ của những người dân Bắc kỳ bị họ bắt làm lính đi theo họ (quân Tây Sơn). Họ dùng những người dân Bắc  kỳ này làm mộc và đắp thành lũy. Từ ít lâu nay, người ta đếm được khoảng 5 hay 6 đối thủ tranh vương vị Bắc kỳ. Đầu tháng 4, tôi nhận được một đại chứng thư của một trong những tên giang hồ, tự nhận là con cháu một vương gia cũ họ Lý và là người kế vị chính thống(34) của ngôi vua. Hắn ta dùng những lời lẽ bay bướm nhưng mập mờ đại để khuyến cáo tôi tán trợ phe hắn. Hắn hứa sẽ dành nhiều đặc quyền cho tôn giáo mà tôi đang truyền bá, nếu thành công. Thư đó không đề năm thứ hai Chiêu Thoũng mà lại đề ngày thứ nhất xuân Mậu Thân, năm mặt trời chu chuyển (tức là năm 1778). Ai cũng biết rằng tôi không bao giờ trả lời một lá thư như thế.

            Ngày 13-8, tôi nhận được một lá thư của ông Serard đề ngày 10, cho biết rằng một thủ lĩnh một đảng nọ ở Bắc kỳ vừa mới tuyên bố : là con chúa một vị đại thần tên là Trạng Trình(35) người đã từng nâng vào hàng chất phẩm cao nhất tức là chức Tể tướng vương quốc). Hắn lại còn khoe khoang là được chỉ định làm vua theo một lời sấm truyền mà hắn bảo lấy trong cuốn Sam ki(36). Cuốn này đưuọc khắc lên đá và viết bởi vị sĩ phu trên (Trạng Trình). Vị sĩ phu này được dân Bắc kỳ coi là Nostradamus(37) của họ.

           Trong cuốn nhật ký này, tôi chưa nói tới các hoạn quan Bắc kỳ vì khi tôi bắt đầu viết cuốn này tôi chưa biết rõ đời sống của họ. Giờ đây, tôi chép lại bài trần thuật mà tôi vừa mới nhận được ngày 9 tháng 11. Tác giả của bài viết này là một vị linh mục tự nhận là người được mục kích nhiều sự việc ly kỳ nhất. Ông ta viết bài này theo lời dặn của tôi. Đây là bản dịch sát nghĩa của bài đó :

            Thưa đức ông, tôi lấy làm hân hạnh được dâng lên đức ông bài trần thuật này kèm với tất cả sự kính cẩn của tôi. Trước hết, tôi xin nói về những việc làm của ông hoàng lập pháp Đức lệnh hay Bắc vương, sau khi tới thủ đô Bắc kỳ. Khi vừa mới nhập thành, ngài lập tức ra chỉ thị cho các văn võ đại thần và các hoạn quan của cựu quốc vương Bắc kỳ, gọi là vua hay Đức thống trị, và của người nắm hết quyền hành lúc bấy giờ là chúa, phải tuân theo ý ngài, đến yết kiến (ra mắt) ngài ngay, không được chậm trễ, để bày tỏ lòng tôn kính ngài. Ai nấy đều tin chắc rằng Bắc vương ra Bắc kỳ là để chiếm ngai vàng vương quốc mà thôi. Song phần lớn các quan văn võ không vội tuân lệnh đó và chỉ có thiểu số quan lại đến ra mắt Bắc vương. Những người ra trình diện đều bị bắt ngay lập tức. Họ phải trả một số tiền chuộc ít hay nhiều tùy theo chức vụ và tư cách của họ nếu họ muốn chạy tội. Còn nếu không có tiền chuộc họ sẽ bị xử tử. Phần đông các vị quan bỏ trốn không chịu giáp mặt Bắc vương. Phẫn nộ trước các hành động kinh thị ý ngài, Bắc vương liền cho bắt họ lại và ra lệnh tịch thu tài sản của họ. Còn các hoạn quan, binh sinh ở tại triều đình vì vậy rất chóng giàu có (và ngày một giàu hơn). Ngài ra lệnh bắt họ lại, gây áp lực mạnh và canh chừng nghiêm ngặt để họ chịu nộp cho chính quyền vàng bạc lụa là của họ. Ngược lại, nếu họ cứ cứng đầu mãi, thì họ sẽ bị giết. Những kẻ giàu có vì muốn bảo đảm an ninh cho đời sống và gia đình họ nên chấp nhận trả cho chính quyền một số tiền lớn. Những người này, nhờ cách đó mà hưởng một đời sống khá dễ chịu. Nhưng họ sợ ngài lại làm khó dễ một lần nữa, nên bỏ trốn rất xa nơi [232] trú ngụ của họ. Các hoạn quan (tại hoàng thành) vì nghèo mà không thể nộp tiền cho nhà cầm quyền, đều bị trói tay sau lưng và đeo ở cổ một đồng tiền. Họ gồm 2 hoặc 300 người bị dẫn độ về Phú Xuân (tại Nam kỳ thượng) trong tình trạng đó. Nếu bỏ trốn mà bị bắt lại, họ sẽ bị xử tử liền tại chỗ. Đó là trường hợp một hoạn quan đã bỏ trốn từ hai ngày nay. Quân Tây Sơn ra lệnh cho dân làng ông phải đem nộp ông ta ngay nếu không cả làng sẽ bị trừng phạt. Dân làng buộc lòng phải tuân lệnh và vị quan khốn nạn lại rơi vào tay của quân Tây Sơn. Chúng liền xử tử ông và treo đầu ông bên lề đường… một hoạn quan khác trốn đi đã được một ngày thì chúng hay tin và cho người đuổi theo. Nhưng vì ông không dám về nhà, chúng bắt dân làng phải nộp cho chúng người anh (hoặc em) của ông nếu họ không muốn cả làng họ bị phá hủy. Rồi chúng mang người anh (em) đó theo các tù binh khác. Nhưng tới một quảng đường thấy không có cách nào bắt ông này công khai cả nên chúng đành thả ông ra. Quân Tây Sơn chỉ muốn moi tiền của các tù binh thôi nên gia đình bà con họ đến đón đường xin chuộc cho họ chúng chịu liền, (nếu họ nhận điều kiện của chúng). Thật là một cảnh tượng “đau lòng” khi thấy cha mẹ, anh em, vợ con ( ?) và họ hàng các hoạn quan vượt mấy dặm đường đi theo họ từ thủ đô tới một làng xa xôi hẻo lánh, vừa khóc vừa rên rỉ như đi đưa đám, rồi nhìn lại và nghe họ từ biệt nhau bằng những lời lẽ thật thắm thiết và cuối cùng chứng kiến cảnh quân Tây Sơn thúc dục những nạn nhân bạc mệnh và khốn nạn của họ lên đường. Đó là việc mà tôi đã chứng kiến tận mắt.

                                                                                                 Ký tên Thomas Diên

                                                                   Linh mục người Bắc kỳ.

          Nhưng vì loại người đó rất khả ố và đáng khinh đối với nông dân Bắc kỳ, dân chúng không chú mấy tới sự thất sủng của họ, và vì phần đông họ thù ghét Thiên Chúa giáo, nên đạo này chẳng tổn hại gì khi họ chết cả.

                                                                             Ngày 18-12-1788.

         Nhật ký về những sự kiện đáng ghi nhớ trong địa phận Giáo hội Bắc kỳ về chính trị, dân sự, tôn giáo từ tháng 10-1788 cho tới cuối tháng 7-1789.

          … Tiếm vương ấy (Bắc vương) đang bận xây tại Huế, theo một lá thư của đức ông La Bartette đề ngày 17-8 và nhận được ngày 24 tháng 10, một pháo đài rất cao rộng đã làm chết rất nhiều người (thợ), để bảo đảm thành phố đó chống lại mọi sự đánh úp hay công kích của Tự quân chính thống vì ông không ngớt lo sợ Tự quân trở về nay mai. Đức ông nói thêm rằng có tin đồn Bắc vương sẽ ra Bắc kỳ vào tháng 11.

          Ngày 25-10, tôi nhận được một lá thư gửi tới từ Hoàng thành đề ngày 21 báo rằng khi Hoàng đế Trung Hoa được một đơn thỉnh nguyện của mẹ và vợ(38) Chiêu Thoũng đã ẩn náu tại đế quốc đó, thông tri cho ngài vận khốn nguy của vua Chiêu Thoũng, theo lời đồn, Hoàng đế cho gửi 300.000 người vừa đi bộ lẫn đường bể sang cứu vua Chiêu Thoung chống quân Tây Sơn. Đồng thời tôi nhớ rằng các lãng tụ đảng Ô Bắc kỳ hình như phấn khởi bởi tin đó.Mới đây có âm mưu công kích giặc Tây Sơn khắp nơi ngõ hầu tiêu diệt họ. Nhưng kế hoạch hay ấy không thể tiến hành được, hoặc vì kế hoạch bị phát giác kịp thời, hoặc vì người chủ mưu dự định đó không dám hành động. Ngày 18-11, tôi đọc một lá thư dề ngày 20 tháng 9 của đức ông La Bartette gửi cho ông Le Breton, trong đó Đức ông cho biết rằng : Tiếm vương Phú Xuân hay Bắc vương vừa mới phong cho con trai ông làm Nam vương lúc đó mới có 7 tuổi, nhưng hoàng tử đó được coi như được 12 tuổi, vì theo như lời đồn, các quan muốn nịnh người cha nên tặng cho người con nhiều tuổi hơn(39).

           2)Bắc vương đã ấn định ngày 11 tháng 10 (Âm lịch) tức ngày mồng 8 tháng 11 là ngày ông tự phong mình làm Hoàng đế dưới danh hiệu “Quang Trung” ( có nghĩa là ánh sáng trung ương, tức là theo sự giải thích có lẽ đúng nhất, mặt trời của vũ trụ) đồng thời ông đang bận tính một kế hoạch vĩ đại theo như một sắc lệnh ban bố ngày 6 tháng 10 (Âm lịch) hay ngày 3 tháng 11 gởi cho đại thần Đại Tư mã và tất cả các quan hay sĩ quan Tây Sơn làm việc tại Bắc kỳ ; ngày 19, một giáo đồ Bắc kỳ rất thân với Đại tư mã có cho bản sao của sắc vị đó. Tự văn bản đó như sau :

           “Bởi sắc lệnh này ta cho các tướng Đại Tư mã, Đại đốc(40) và các sĩ quan khác biết rằng từ trước tới nay các vua chúa đều lấy luật pháp để cai trị thần dân và duy trì hòa bình, nên ta cũng noi gương các vị tiền bối mà đánh dấu ngày khởi đầu triều đại ta bằng cách soạn ra một bộ luật để dân chúng sống trên đất đai ta nghiêm ngặt tuân theo. Vì thế ta đã giao cho các quan tư pháp và tham chính viện nhiệm vụ hoàn tất tác phẩm đó trong 1, 2 tháng. Trong khi chờ đợi ta ban bố vài pháp quy yêu cầu mọi người và mỗi các ngươi đứng đắn thi hành. Nội dung điều lệ đó như sau :

            1) Nếu một sĩ quan hay binh lính nào phạm tội gì, các quan văn võ sẽ họp lại để xử họ và nếu họ đáng bị xử tử họ sẽ bị kết án tử hình.

          2) Song le trong thời chiến tranh, mỗi lần một vị chỉ huy sai bộ hạ mình đi đánh địch, bộ hạ đó phải tuyệt đối tin theo, người nào tử trận một cách can đảm sẽ được vẻ vang. Trái lại ai vì sợ chết mà bỏ trốn sẽ bị sỉ nhục. Bởi vậy ta cho phép xử tử tức thì những kẻ trốn bổn phận cũng như những kẻ cho địch có thời giờ dưỡng sức lại và tấn công vì hèn nhát hay vì chậm chạp ; sau rồi các tướng lãnh phải báo cáo hành động của họ trong trường hợp đó.

            3) Khi chiến tranh chấm dứt và khi quân đội tở về kinh đô và được trả lại cho chính quyền, không một quan chỉ huy nào được tự tiện xử tử một người ngang quyền hay ngang chức và ai mà vi phạm luật này sẽ không có hi vọng được khoan hồng.

            4) Một lần xảy ra chuyện gì liên quan đến quốc gia hay công ích, mọi người đều phải lưu ý ngay đến việc đó kẻo một sự chậm trễ nhỏ nhặt có thể gây trở ngại cho công việc.Thời bình, sự mau lẹ đó cũng cần thiết rồi, huống chi tại Bắc kỳ nơi cuộc chiến càng ngày càng ác liệt, một cuộc chiến mà các ông phải coi như việc trọng yếu bởi vì mỗi giây mỗi phút có thể mang lại nhiều sự thay đổi bất ngờ liên tiếp theo nhau như gió, như chớp hay như hơi và những biến chuyển đó lúc thì thuận, lúc thì nghịch thành thử không thể căn cứ trên cái gì chắc chắn được. Bởi vậy mỗi khi nhu cầu quốc gia hay tình hình chiến tranh bắt phải họp để thảo luận về những việc phải làm và mỗi khi ngày giờ họp được ấn định, các quan văn võ sẽ phải họp ngay lập tức vào ngày giờ đó [238] để bàn bạc và quyết định với nhau. Nếu bất đồ có người vì sơ suất mà quên tới nơi họp đúng giờ, ta cho phép Tư mã và Đại Đô phạt họ tùy theo lỗi nặng hay nhẹ.

            5) Nếu mỗi khi thuộc hạ quan chỉ huy chi đội hay thuộc hạ của ông đi đuổi bắt kẻ gian, đáng lẽ bảo vệ và che chở dân vô tội và hiền lành họ lại cưỡng đoạt của cải dân gian, áp bức đàn bà con gái, hay cướp phá những nơi họ đi qua thì cách cư xử đó thật đáng trách và chỉ mang đến cho dân chúng đáng thương sẽ đau khổ và thất vọng, vì họ phải chịu nhiều tai vạ hơn dưới thời Nhậm hay Tiết chế. Họ cư xử như vậy thì làm sao dân chúng yên lành được ? Và làm sao gọi hành động đó là giải phóng dân chúng khỏi áp bức, và làm sao phạt thủ phạm cho được ? Vậy ta ra lệnh cho các sĩ quan phải công bố trong trung đội hay binh đoàn mình điều nghiêm cấm, không được lấy bất cứ vật gì của dân dù là một ngọn cỏ, nhưng ta không ngớt tuyên cáo trước đây. Các sĩ quan sẽ chắc chắn làm vừa lòng ông ta và đúng theo tình ý ta nếu hết sức thi hành điều nghiêm cấm đó. Ai cư xử như vậy có thể tin rằng sau khi chia sẽ cùng ta những nỗi khổ nhọc và những mối hiểm nghèo của thời chiến này, họ cũng sẽ chia sẽ thanh danh và hưởng thú vui thời bình cùng ta. Vả lại nữa, không ai có quyền dựa vào sự vắng mặt hay sự cách xa của ta để phiền nhiễu cướp bóc dân chúng và uy hiếp đàn bà con gái. Chỉ có khi nào ngưng và dẹp được những bạo hành đó, họ mới có thể tự phụ giữ nổi chức vụ và bảo đảm an ninh cho cá nhân và gia đình họ, bằng không, đừng mong gì ta dung thứ họ.

             Đó là những điều ta muốn ngươi phải biết

             Ngày 3-10 (Âm lịch) năm Thái Đức (Tiếm vương Nhạc) thứ 11”.

             Lúc đó Bắc vương chưa thực thụ tự xưng

             Hoàng đế dưới danh hiệu Quang Trung(41).

          Ngày 29-11 tôi được tin trấn thủ xứ (Sơn) Nam của Tây Sơn tên là Đốc Thung(42) vừa mới có ý định sai người đi lùng bắt các giáo sĩ với hy vọng làm giàu nhờ sự bắt bớ đó…[239]… Ngày 13 tháng 11  ( ?), hai người lính Bắc kỳ, thuộc quân đội Tây Sơn chạy trốn đến nơi chúng tôi ở và kể lại rằng quân Nam kỳ đã bị đánh tan trong 6 cuộc giao chiến; một số lớn tử trận, quân còn lại thì tẩu tán. Tin đầu đó được đón tiếp theo nhanh chóng bởi nhiều tin khác: Chiều Ngày 15 và hôm 16, Đại tư mã và các sĩ quan Tây Sơn khác đã rời bỏ thủ đô và chạy trốn với dội ngũ, khí giới và hành lý họ. Nhưng không thấy ai bị bắt cả. Ngày 17, một phần quân đội Trung Hoa vào thủ đô cùng với vua Chiêu Thoũng. Ngày 19 xứ giả của Hoàng đé Trung Hoa là đại tướng chỉ huy quân đội Thiên hoàng tên gọi là Toũ Đốc(43) đã nhiệm mệnh và tuyên bố Chiêu Thoũng làm vua Bắc kỳ. Viên binh Trung Hoa gồm độ 280.000 người, một nửa đóng trong thành phố, nửa còn lại ở bên kia sông. Quân đội đó được cung cấp rất nhiều lương thực cần thiết mang từ bên Trung Hoa sang. Thành thử họ không phải là một gánh nặng cho Bắc kỳ và không hề quấy nhiễu dân chúng. Quân Trung Hoa đã phá tan tất cả các đồn vệ binh quân Tây Sơn lập trong kinh thành hay trong vùng lân cận. Người Nam kỳ nào rơi vào tay chúng đều bị xử tử không tha một ai(44).

          Đó là yếu lược một lá thư của một Linh mục trông coi giáo dân Hoàng thành viết cho tôi đề ngày 26-12 và tới tay tôi ngày hôm sau. Nhưng đấy không phải l

0