Nói đến Tzara (1896-1963, tên thật là Sami Rosenstock) ắt ta phải nghĩ ngay đến một tinh thần cách mạng sôi nổi cuồng nhiệt. Con ác điểu Tzara và đồng bọn đã kêu lên những tiếng kỳ lạ, kiêu hãnh và rùng rợn để báo hiệu sự mở mang của phong trào siêu thực. Tzara vốn người Lỗ Na Ni, ra đời tại Moineste vào năm 1896. Các tác phẩm đáng để ý của Tzara gồm có La Première Aventure Céleste de M. Antipyrine (1916), Vingt-cinq poèmes (1918), L'Homme approximatif (1931), Où boivent les Loups (1932), La Face intérieure (1953) v.v... Tuy Tzara là người Lỗ Ma Ni nhưng chàng dùng tiếng Pháp để sáng tác. Trường thơ Đa Đa (école dadaiste) của Tzara đã qui tụ được một số cây viết trẻ tuổi như Benjamin Péret, Jean Cocteau, Philippe Soupault, Francis Picadia, và các thi sĩ siêu thực sau này như André Breton, Louis Aragon, Paul Éluard. Danh từ Đa Đa nghĩa là gì? Theo sự giải thích của các thi sĩ trong nhóm thì nó chẳng có nghĩa gì hết trọi. Nó có một giá trị tự do, độc lập không liên hệ gì đến những ý nghĩa trong ngôn ngữ hẹp hòi kiểu cách của loài người. Các thi sĩ Đa Đa ngông cuồng lắm. Họ coi thường cuộc đời. Họ muốn phá huỷ trật tự trong xã hội. Họ không thèm phân biệt cái Đẹp cái Xấu, không đếm xỉa đến cái Hay cái Dở. Họ coi bất cứ chuyện gì, bất cứ nhân vật nào cũng chỉ là trò đùa, là vô nghĩa. Văn chương là cái gì mới được chứ? Văn chương chỉ là sản phẩm của những quan niệm vớ vẩn của loài người. Trên cõi đời này nào có ai quan trọng gì đâu, ấy thế mà người nọ ca ngợi người kia, thế hệ nọ khen lao chê trách thế hệ khác. Thế hệ này nhắc đến các vĩ nhân như Jeanne d'Arc, Foch, Hugo, hay Pascal, v.v... nhưng nhìn kỹ, xét kỹ ta thấy các nhân vật ấy chả là cái cóc khô gì cả. Vĩ nhân? Vĩ nhân là cái quái gì. Trong sinh hoạt lúc nhúc hèn hạ của loài người chẳng có chi đáng gọi là cái Đẹp, là Nghệ thuật cả. Trong bài Machine à Écrire Dada nhà thơ Philippe Soupault viết:
Từ khi chúng ta ở cõi đời, có một vài thằng lười biếng đã cố gắng làm chúng ta tin rằng Nghệ thuật hiện hữu. Ngày nay chúng ta là những thằng còn lười biếng hơn nữa, chúng ta kêu lên rằng: Nghệ thuật chẳng là cái đếch gì cả.
Chẳng là cái gì cả...
... Ai sẽ nói cho tôi biết Nghệ thuật là cái gì?
Ai sẽ tự cho mình là hiểu cái Đẹp?
Tôi đứng về phía những kẻ nghe tôi nói để nêu ra một định nghĩa cho Nghệ thuật, cho cái Đẹp và những cái khác liên hệ đến chúng. Định nghĩa đó là:
Nghệ thuật + cái Đẹp = KHÔNG CÓ GÌ CẢ
(L'Art et la Beauté = RIEN)
Các nhà thơ Đa Đa coi thường cuộc đời, coi thường nghệ thuật, và chính sự coi thường đó được đặt làm nguyên tắc căn bản cho hành vi sống và cho sự sáng tác của họ. Sự coi thường đó mang lại cho nghệ sĩ một quyền tự do trong sáng tác, không bị lệ thuộc vào một ai, không bị chi phối bởi một luật lệ, hình thức gò bó nào hết. Trong lúc sáng tác, nghệ sĩ có quyền bỏ rơi tất cả những gì, tất cả những ai mà họ muốn bỏ rơi, kể cả độc giả, cả quần chúng. Ý nghĩa cố hữu của mỗi danh từ trong ngôn ngữ bị các nhà thơ Đa Đa xuyên tạc hết. Văn phạm và những lý luận, mực thước của ngôn ngữ bị họ vo viên ném vào sọt rác. Tristan Tzara, ông tổng chỉ huy của nhóm Đa Đa tuyên bố: Hãy đặt tất cả các chữ vào trong một chiếc mũ, rồi rút thăm, đó là thơ Đa Đa.[*] Và đây, mời các bạn đọc một đoạn thơ trong bài De nos Oiseaux của Tzara:
thế giới
một chiếc mũ với những đoá hoa
thế giới
một chiếc mũ với những đoá hoa
thế giới
cây đờn vỹ cầm tấu trên một đoá hoa
thế giới
một chiếc nhẫn làm cho một đoá hoa
một hoa hoa cho một bó những hoa hoa
một bót thuốc lá đầy hoa
một đôi găng tay cho những hoa
một đầu tầu có những con mắt bằng hoa
bằng da hoa những hoa hoa hoa của chúng ta của những hoa
và một quả trứng
và đây là một đoạn khác của Tzara, chúng tôi để nguyên văn Pháp ngữ không dịch vì có dịch ra chăng nữa cũng chẳng ích lợi gỉ cả:
tuyaux tuyaux arrange-vous
verticale coupée
interrompre
mécanisme drrr rrrrrrrrr barres écartées
ébranlement des rayons perce-nous trouve le chemin de la cité [**]
Đọc những đoạn thơ vừa dẫn các bạn có hiểu gì chăng? Hiểu hay không hiểu, mặc kệ, cái đó chẳng có gì liên hệ đến người sáng tác ra nó cả. Tác giả muốn viết sao thì viết, độc giả muốn đọc sao thì đọc; thi ca, nghệ thuật là cái quái gì mà nói đến chuyện hiểu với không hiểu. Francis Picabia tuyên bố: Các bạn không hiểu cái mà chúng tôi làm, có phải không? Này, các bạn thân mến ạ, chúng tôi còn hiểu nó ít hơn các bạn nữa.
Tuy nhiên, dầu nhóm Đa Đa ngang tàng, ngông nghênh đến mấy đi nữa, thật ra họ cũng chẳng đến nỗi vứt bỏ nghệ thuật như những lời tuyên bố của họ. Những lời tuyên bố đó phải chăng chỉ là một thái độ bực tức hằn học trước sự nghèo nàn gò bó của nghệ thuật nói riêng và cuộc sống nói chung. Cái hành vi tự do quá khích của nhóm Đa Đa thoạt trông qua ta thấy đầy tính chất phá hoại, nhưng thực ra chính cái tính chất phá phách đó đã tự nó có một tính chất xây dựng, mở rộng thêm cương vị hoạt động của nghệ thuật. Đừng tưởng lúc nào các thi sĩ Đa Đa cũng ngông cuồng như thế: nhiều khi họ cũng rất thận trọng trong việc sáng tạo, do đấy đã tạo ra được nhiều bài thơ đặc sắc tân kỳ. Nhưng ngay cả những phút ngông nghênh của họ, ta cũng tìm thấy ở họ một thái độ can đảm đáng yêu.
Dầu sao, phái Đa Đa cũng bị người ta kết án là có nhiều điểm lập dị. Do đó, nhóm đó chết yểu. Nhiều thi sĩ Đa Đa như Breton, Éluard, Aragon, dần dần ly khai nhóm để lập ra trường siêu thực. Dầu ly khai, họ vẫn phải nhận rằng: ngoài những cái dở, nhóm Đa Đa đã cấp cho họ nhiều cái hay cái đẹp làm nền tảng cho trường siêu thực.
Nguyễn Đăng Thường sưu tầm và biên tập. Trích từ Lê Huy Oanh, "Lược khảo phong trào thi ca siêu thực Pháp", trong tạp chí Văn Nghệ số 3, tháng Tư, 1961, Saigon. Nhan đề của trích đoạn do người sưu tầm đặt.
Nguồn: http://tienve.org/home/li...rtwork&artworkId=3824
Nói đến Tzara (1896-1963, tên thật là Sami Rosenstock) ắt ta phải nghĩ ngay đến một tinh thần cách mạng sôi nổi cuồng nhiệt. Con ác điểu Tzara và đồng bọn đã kêu lên những tiếng kỳ lạ, kiêu hãnh và rùng rợn để báo hiệu sự mở mang của phong trào siêu thực. Tzara vốn người Lỗ Na Ni, ra đời tại Moineste vào năm 1896. Các tác phẩm đáng để ý của Tzara gồm có La Première Aventure Céleste de M. Antipyrine (1916), Vingt-cinq poèmes (1918), L'Homme approximatif (1931), Où boivent les Loups (1932), La Face intérieure (1953) v.v... Tuy Tzara là người Lỗ Ma Ni nhưng chàng dùng tiếng Pháp để sáng tác. Trường thơ Đa Đa (école dadaiste) của Tzara đã qui tụ được một số cây viết trẻ tuổi như Benjamin Péret, Jean Cocteau, Philippe Soupault, Francis Picadia, và các thi sĩ siêu thực sau này như André Breton, …