Tranh Tố Nữ
là tên một loại tranh dân gian thuộc dòng tranh Hàng Trống của Việt Nam. thuộc thể loại tranh Tứ Bình (bao gồm 4 bức tranh), thể hiện 4 thiếu nữ Việt Nam có trang phục xưa, vấn tóc, mặc áo dài và đều đang đứng với 4 cử chỉ khác nhau: cô thổi sáo, cô cầm ...
là tên một loại tranh dân gian thuộc dòng tranh Hàng Trống của Việt Nam. thuộc thể loại tranh Tứ Bình (bao gồm 4 bức tranh), thể hiện 4 thiếu nữ Việt Nam có trang phục xưa, vấn tóc, mặc áo dài và đều đang đứng với 4 cử chỉ khác nhau: cô thổi sáo, cô cầm xênh phách, cô cầm quạt và cô gảy đàn nguyệt. Mỗi người một vẻ đẹp và mang nét mặt thể hiện tâm hồn thiếu nữ Việt Nam xưa. Đi kèm theo mỗi bức tranh là có một bài thơ tứ tuyệt, viết bằng chữ Hán. Bộ tranh này mang đậm nét văn hoá dân tộc.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ Đề tranh Tố Nữ:
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh
Xiếu mai chi dám tình trăng gió
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ
Trách người thợ vẽ khéo vô tình
Nhà thơ Chế Lan Viên cũng có nhắc đến bức tranh này trong thơ của mình:
Điệu lục bát và mầu xanh nơi ruộng rẫy
Bức tranh làng Hồ, cô tố nữ dáng quê hương...
Còn trong dân gian, có câu truyện Bích Câu kỳ ngộ liên quan đến bức tranh Tố Nữ. Truyện kể rằng vào đời Lê Thánh Tông, có một thư sinh tên là Trần Tú Uyên. Khi đi chơi chợ Cầu Đông, chàng đã mê mẩn một bức tranh Tố Nữ và mua, đem về nhà treo ở thư phòng. Rồi cứ mỗi bữa ăn, chàng lại dọn hai cái bát, hai đôi đũa, mời Tố Nữ cùng ăn và thỉnh thoảng lại chuyện trò, đối đãi như người thực. Một hôm Tú Uyên ở trường học về, thấy mâm cơm đã dọn sẵn. Hôm sau chàng giả cách ra đi, nhưng lẻn về đứng rình một chỗ. Quả nhiên, thấy Tố Nữ trong tranh hiện ra thành người thực...
Có người thắc mắc tại sao bốn bức tranh dân gian Việt Nam vẽ bốn cô thiếu nữ mặc áo dài Việt Nam lại đề tựa thơ tiếng Hán, chứ không phải tiếng Việt? Câu chuyện Bích câu kỳ ngộ trên cho thấy Bộ tranh Tố nữ đã ra đời trước thời Lê Thánh Tông (1492-1497)[1]. Trong khi đó, tác phẩm chữ Quốc ngữ hoàn chỉnh đầu tiên được biết đến nay là Bộ từ điển Việt - Bồ - La của nhà truyền đạo Alexandre de Rhodes ra đời năm 1651 và mãi đến tận thế kỷ XIX, chữ Quốc ngữ mới được sử dụng phổ biến [2]. Có lẽ vì thế mà bốn bài thơ trên bộ tranh nguyên gốc được viết bằng tiếng Hán. Dưới đây là bản bằng tiếng Hán Việt và lược dịch tiếng Việt của bốn bài thơ trên:
CÔ THỔI SÁO
Thùy gia ngọc địch ám phi thanh
Tán nhập xuân phong mãn Lạc Thành
Thử dạ khúc Trung văn chiết liễu
Hà nhân bất khởi cố viên tình
Lược dịch:
Nhà ai sáo ngọc tiếng mơ màng
Theo gió xuân vào khắp Lạc – Dương
Văng vẳng đêm nay bài “Chiết liễu”
Ai người không chạnh nỗi tha hương
CÔ CẦM QUẠT
Hồng nha thôi phách yến phi mang
Nhất phiến hành vân đáo họa đường
Vũ bãi, cao liêm thâu mực tống
Bất tri thùy thị Sở Tương Vương
Lược dịch:
Thẻ hồng dồn phách én bay phăng
Lửng thửng guồng mây đến họa đường
Múa hết, rèm cao đưa khóc hạnh
Chẳng ai hay đó Sở Tương Vương
CÔ CẦM XÊNH
Nhất điểm anh đào khải giáng thuần
Lưỡng hàng toái ngọc phuốn dương xuân
Hòa hoa phong niệu thiên chi mận
Án triệt Dương châu liên bộ tân
Lược dịch:
Môi son vừa hé nụ anh đào
Răng ngọc hai hàng nhả điệu cao
Trước gió nghìn cành hoa nhún nhảy
Gót sen lần nhịp đến Dương – châu
CÔ GẢY ĐÀN
Song tiền đối nguyệt sơ minh
Hảo bả cầm lai khúc điểm tình
Đàn tả huy âm vi nhã thú
Chỉ tương ngọc luật tự âm thanh
Lược dịch:
Trước song ngồi ngắm nguyệt đầu canh
Ôm chiếc cầm trăng dạo khúc tình
Đàn tả huy âm vi nhã thú
Chỉ tương ngọc luật tự âm thanh