Tranh cãi xung quanh “nạn cống vải”
nghiencuulichsu.com : từ bài viết của GS Phan Huy Lê : Khảo cứu lại cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan , Trang đăng thêm những ý kiến khác xung quanh Hội thảo Mai Thúc Loan với Khởi nghĩa Hoan Châu để rộng đường dư luận Bài 1 : Bác bỏ mọi luận cứ của giới sử học cho rằng ...
nghiencuulichsu.com : từ bài viết của GS Phan Huy Lê : Khảo cứu lại cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan , Trang đăng thêm những ý kiến khác xung quanh Hội thảo Mai Thúc Loan với Khởi nghĩa Hoan Châu để rộng đường dư luận
Bài 1 : Bác bỏ mọi luận cứ của giới sử học cho rằng “nạn cống vải” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan
Lê Mạnh Chiến
Nội dung của bài này đã được công bố lần đầu tiên trên tạp chí Thế Giới Mới, số 526, 527 và 528 (từ 10/3 đến 24/3 năm 2003), với tiêu đề “Phải chăng “nạn cống vải” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan năm 722”. Đầu năm 2008, tác giả bổ sung một ít tư liệu, cắt bỏ vài đoạn rồi sắp xếp lại nhưng vẫn giữ nguyên tiêu đề như cũ và đăng trên tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 2/2008. Bài này, tác giả đã bỏ bớt đoạn nói về lệ cống quả vải lẻ tẻ bằng ngựa của các dịch trạm thời Hán (có trong bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu và phát triển) rồi đổi lại tiêu đề như hiện này và đã đăng trên tuần báo Văn nghệ của thành phố Hồ chí Minh số 65, 66, 67 (ngảy 4, 11 và 18/6/2009)
I. “Nạn cống vải”, theo các sách lịch sử hiện nay
Đầu năm học 2002-2003, tôi có mua cho cháu quyển sách giáo khoa Lịch sử Việt Nam lớp 6 do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành (4/2002). Sách dày 84 trang, khổ 16x24cm, các tác giả là: Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Trương Hữu Quýnh (Chủ biên) Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Sĩ Quế. Giở ra xem mấy trang thì tôi thấy có chuyện lạ:
Bài 23, nhan đề ” Những cuộc khởi nghĩa lớn trong các thế kỷ VIII -IX”, có đoạn viết:
“…..Hàng năm, nhân dân ta phải cống nạp những sản vật quý hiếm như ngọc trai, ngà voi, sừng tê, đồi mồi, vàng, bạc…Đặc biệt, cứ đến mùa vải, nhân dân An Nam phải thay nhau gánh vải (quả) sang Trung Quốc nộp cống ” (trang 63).
Cuối mục lớn “Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722)”, các tác giả viết:
” Khoảng cuối những năm 10 của thế kỷ VIII, nhân phải tham gia đoàn người gánh vải (quả) nộp cống, Mai Thúc Loan đã kêu gọi những người dân phu bỏ về quê, mộ binh nổi dậy.
Ở Nghệ An, nay còn truyền lại một bài hát chầu văn kể tội bọn đô hộ nhà Đường:
Nhớ khi nội thuộc Đường triều,
Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai.
Sâu quả vải vì ai vạch lá,
Ngựa hồng trần kể đã héo hon….”
Hồi những năm 60 của thế kỷ trước, có lần tôi đã đọc hay đã nghe ở đâu đó, rằng, “nạn cống vải” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Lúc bấy giờ, tưởng đó chỉ là lời của những kẻ bạo gan nói liều nên tôi chẳng cần để ý đến. Nhưng nay thấy nó hiển hiện trong một quyển sách giáo khoa được in mỗi lần đến 550 000 bản, do 4 tác giả viết, vì vậy, tôi không thể coi thường nên phải tìm đọc thêm những sách lịch sử khác nữa để biết rõ hơn.
Sách Lịch sử Việt Nam tập 1 (Ủy ban KHXH Việt Nam, NXB Khoa học Xã hôi, Hà Nội, 1971) viết: “Cũng như mọi người dân đất Việt, Mai Thúc Loan phải đi phu, quanh năm phục dịch vất vả cho bọn đô hộ nhà Đường. ….Năm 722, Mai Thúc Loan hiệu triệu những người dân phu phải đi gánh vải quả nộp cống cho chính quyền nhà Đường nổi dậy khởi nghĩa” (trang 129)
Giáo trình “Lịch sử Việt Nam “, tập I (Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN 1991; các tác giả: Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh) cũng có một đoạn y như ở sách “Lịch sử 6” (đã trích dẫn}, ngoài ra, còn cho biết thêm:
“Nhân dân ta đời đời nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ ông trên núi Vệ Sơn và trong thung lũng Hùng Sơn. Một bài thơ chữ Hán còn ghi trong “Tiên chân bảo huấn tân kinh” để ở đền, ca tụng công đức ông như sau (tạm dịch):
Hùng cứ châu Hoan đất một vùng,
Vạn An thành luỹ khói hương xông.
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức,
Trăm trận Lý Đường phục võ công.
Lam Thuỷ trăng in tăm ngạc lặn,
Hùng Sơn gió lặng khói lang không.
Đường đi cống vải từ đây dứt,
Dân nước đời đời hưởng phúc chung
Tương truyền, từ sau cuộc khởi nghĩa lớn lao này, nhà Đường không dám bắt nhân dân ta nộp cống vải quả hàng năm nữa” (trang 287).
Trong quyển “Đại cương lịch sử Việt Nam, toàn tập”, (khổ 16x24cm,1175 trang, tái bản lần thứ 5, NXB Giáo dục ấn hành năm 2002, do Gs Trương Hữu Quýnh, Gs Đinh Xuân Lâm, Pgs Lê Mậu Hãn chủ biên cùng 7 giáo sư và phó giáo sư khác chấp bút), khi viết về cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, các tác giả cũng khẳng định:
“Nhân dân hàng năm còn phải vận chuyển nhiều thức ngon vật lạ, nhất là nhãn, vải tươi nộp cho nhà Đường. Nhân dân ta rất căm phẫn, đó là lý do dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan” (trang 90).
Quyển “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1884” của Gs Phan Quang và Ts Vũ Xuân Đàn (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000), ở trang 73 cũng viết:
“Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân đã cùng ông đi phu gánh vải nộp cống nổi dậy khởi nghĩa. Từ một nhóm quân mấy trăm người, Mai Thúc Loan phát triển cuộc khởi nghĩa ra khắp vùng Hoan -Diễn- Âi (Thanh-Nghệ-Tĩnh)”.
Sách “Việt Nam – Những sự kiện lịch sử từ khởi thuỷ đến 1858” của Viện Sử học (Nxb Giáo dục, HN 2001; các tác giả: Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến), viết về cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan:
“Hàng năm, chúng bắt nhân dân Phong Châu phải cống loại tơ “bát tàm” (tơ của loại tằm một năm tám lứa), tàn nhẫn hơn nữa là bắt hàng ngàn nhân dân Hoan Châu phải đi cống nạp vải quả. Quả vải tươi phải gánh bộ sang kinh đô nhà Đường. Nhân dân cả nước căm giận, đặc biệt là nhân dân Hoan Châu, Phong Châu. Mầm khởi nghĩa của nhân dân ta bắt đầu từ những vùng này” (trang 39, cột bên phải)
“Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam” của Hà Văn Thư và Trần Hồng Đức (Nxb Văn hoá-Thông tin,HN 2001), ở trang 34 ghi:
“Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu gánh vải quả nộp cống cho nhà Đường (Dương Quý Phi rất thích ăn quả vải đất Giao Châu) nổi dậy khởi nghĩa, nhân tài khắp các châu Hoan, Diễn, Ai theo về tụ hội dưới cờ nghĩa và suy tôn Mai Thúc Loan làm Mai Hắc Đế, đóng đô ở thành Vạn An (Nghệ An)”.
“Các triều đại Việt Nam” của Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng (Nxb Thanh Niên, HN, 2001) thì kể tường tận như chính tác giả là người trong cuộc:
“Châu Hoan ngày ấy luôn bị giặc Chà Và (Gia-va), Côn Lôn (Mã Lai) cướp phá, nhất là ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ. Đặc biệt, nạn cống quả lệ chi (quả vải) là một gánh nặng khôn cùng đối với nhân dân Hoan Châu. Nguyên do, ở Trường An, vua Đường có một nàng ái phi, thường gọi là Dương Quý Phi, nhan sắc tuyệt vời mà tính tình cũng thật thất thường. Dương Quý Phi thích ăn thứ quả lệ chi xinh xắn, chỉ ở An Nam mới có. Nên vua Đường bắt dân An Nam phải cống vải.
Mùa vải năm Nhâm Ngọ (722) – (phải là năm Nhâm Tuất mới đúng – LMC) – Mai Thúc Loan cùng đoàn phu gánh vải đi nộp cống. Đoàn người gánh vải đầm đìa mồ hôi mà vẫn phải lê từng bước trên đường. Gần trưa, -Mai Thúc Loan cho mọi người nghỉ chân bên rừng. Cái khát cháy cổ hành hạ đoàn phu. Một dân phu có tuổi bứt lấy một quả vải ăn cho đỡ khát. Quả vải chưa kịp đưa lên miệng đã bị một tên lính Đường đi áp tải xông tới, vung cán mã tấu đánh vào đầu. Khi tên lính Đường lần nữa định đánh ông già thì hắn đã bị đánh chết tươi. Sự việc xẩy ra nhanh như chớp. Bọn giặc cậy có binh khí hò hét vung đao kiếm xông vào Mai Thúc Loan. Nhưng những người dân phu theo lệnh Mai Thúc Loan đã rút đòn gánh chống lai. Lũ giặc không địch nổi đoàn dân phu, đều phải đền tội. Đánh tan lũ giăc Đường trong một cơn phẫn nộ, Mai Thúc Loan lập tức thổi bùng khí thế cuộc bạo động thành một cuộc dấy nghĩa” (trang 52-53).
Qua 8 quyển sách của 25 tác giả, đủ mặt các nhà sử học “tai mắt”, trong đó có cả quyển sách “mẫu mực” của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, độc giả đã thấy rõ sự nhất trí tuyệt đối của giới sử học khi nói về “nạn cống vải”. Thật vậy, rất khó tìm thấy một quyển sách lịch sử Việt Nam được viết trong hơn bốn chục năm gần đây mà không coi chuyện hàng ngàn dân phu gánh quả vải nộp cống như một sự thật lịch sử và là nguyên nhân dẫn đến khởi nghĩa Mai Thúc Loan..
Hẳn rằng, thành tích “phát hiện” này là của các nhà sử học đương đại, bởi vì, các sách lịch sử trước đây như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ (cuối thế kỷ 18), Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn (cuối thế kỷ 19), Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (in lần đầu tiên vào năm 1921 và đã được tái bản rất nhiều lần) đều nói đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan nhưng không hề nhắc đến “nạn cống vải” .
II Những lời khẳng định “như đinh đóng cột”
Qua những đoạn trích dẫn nguyên văn trên đây rút ra từ các sách về lịch sử Việt Nam , các tác giả đã nêu ra rất nhiều lý lẽ và chứng cứ để khẳng định rằng, “nạn cống vải” (với hàng ngàn dân phu gánh quả vải một mạch đến kinh đô nhà Đường) là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cuộc khỏi nghĩa của Mai Thúc Loan. Những điều khẳng định đó là:
1. Quả vải là một thứ đặc sản chỉ có ở Việt Nam, mà vùng Hoan Châu – quê của Mai Thúc Loan – là nơi có thứ vải ngon nhất và nhiều nhất. Vì vây, nhân dân vùng này là nạn nhân đầu tiên của “nạn cống vải”
2. Dương Quý Phi – người đàn bà được hoàng đế Huyền Tông nhà Đường sủng ái nhất – rất thich ăn quả vải. Để thỏa mãn nỗi thèm muốn của Dương Quý Phi, Huyền Tông đã bắt nhân dân Hoan Châu (Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) phải vận chuyển thứ quả vải ngon ở vùng này đến kinh đô Trường An để cống nạp .
3. Chính Mai Thúc Loan là một trong vô số dân phu phải gánh vải sang kinh đô nhà Đường để phục vụ Dương Quý Phi, cho nên, khởi đầu từ một hành động chống đối bột phát, ông đã trở thành người lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa giành độc lập cho đất nước.
4. Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan tuy bị dập tắt một cách nhanh chóng nhưng nhờ có Mai Thúc Loan mà cái “nạn cống vải” phải chấm. dứt từ đó.
Theo các nhà sử học cốt cán thì những điều khẳng định này đều có chứng cứ đầy đủ và chắc chắn, đó là:
1. Bài hát chầu văn còn được truyền tụng ở Nghệ An, trong đó nói rõ về cái “nạn cống vải” trong thời kỳ nhà Đường xâm chiếm nước ta
2. Bài thơ chữ Hán ghi trong “Tiên chân bảo huấn tân kinh” đặt ở đền thờ Mai Hắc Đế trên núi Vệ Sơn (trong thung lũng Hùng Sơn thuộc huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An) cũng xác nhận về “nạn cống vải” và về sự chấm dứt cái đại nạn này sau cuộc khởi nghĩa của Mai thúc Loan.
Lý lẽ và chững cứ của các nhà sử học về “nạn cống vải” xem ra có vẻ chặt chẽ và hợp lý! Có lẽ vì thế mà nó lập tức được họ ghi vào tất cả các sách viết về lịch sử Việt Nam từ khoảng trước năm 1970 trở đi
Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét các luận cứ kể trên của các nhà sử học
III. Cây vải ở Nghệ – Tĩnh và ở Việt Nam
Đã từng sống nhiều năm trong vùng quê của Mai Thúc Loan, tôi biết rằng, ở khắp hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, chỉ có loại vải cùi mỏng và chua, hạt to, rất ít người trồng, người lớn ít khi ăn, và cũng rất ít quả.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn (cuối thế kỷ 19) là một bộ sách địa lý lịch sử nghiêm túc và đáng tin cậy, trong đó ghi chép rất đầy đủ các sản vật của từng địa phương. Về các sản vật của Nghệ An và Hà Tĩnh, sách này không hề kể đến quả vải, mặc dầu đã liệt kê 40 sản vật: vỏ quế, nam sâm, trầm hương, vỏ gai, sắt chín, vải thổ, võng gai, dầu, muối, nhựa thông, nón, lụa, chiếu cói, cau, vừng, ngô, sắn, củ mài, chè, lá cọ, cỏ ất, củ nâu, gỗ lim, tê tê, voi, nai, hoãng, chim công, lông chim chả, rươi, hàu, nước mắm, cá chình, thạch quyết minh, sò, ngao, thốc ngư, chim cu núi, quán chúng thảo (theo bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Khoa học xã hội, HN 1970, tập 2, các trang 193,194, 195 và 101).
Hiện nay, đã có người đem giống vải Thanh Hà về trồng ở Nghệ Tĩnh nhưng quả thì ít và chua, hạt to và không ngon như quả vải ở các tình Bắc Bộ. Nguyên do là vì, càng đi xuống phía nam, số ngày lạnh trong một năm càng ít dần, số ngày nắng nóng càng tăng lên nên không thích hợp với nhu cầu sinh lý của cây vải.
Rõ ràng là, ở vùng đất Hoan Châu, quả vải vừa hiếm lại vừa chua. Cũng không có chứng cứ nào cho biết rằng, ở thế kỷ 8, vùng này là nơi có quả vải rất nhiều và rất ngon. Cũng không thể nói rằng, tuy là trong mấy thế kỷ vừa qua, quả vải ở vùng này vừa ít lại vừa chua, nhưng ở thế kỷ 8, nơi đây vẫn rất có thể là xứ sở của những vườn vải trĩu quả và ngọt lịm. Giả thuyết đó chỉ có thể là sự thực nếu như ở thế kỷ ấy khí hậu ở đây lạnh hơn bây giờ, thời gian mát lạnh kéo dài hơn, mà nếu như thế thì ở thế kỷ 8 về trước, vùng Hoan Châu phải gần với cực bắc hơn hiện nay nên khí hậu ở đó lạnh hơn bây giờ, và sau đó đã xẩy ra sự di chuyển đột ngột của hai địa cực khiến cho vùng này gần xích đạo hơn trước và nóng hơn trước. Nhưng khoa học về trái đất hoàn toàn không xác nhận biến cố như vậy.
Còn ở Bắc Bộ thì sao? Về thổ sản của tỉnh Hải Dương, “Đại Nam nhất thống chí” đã ghi rõ:
“Vải: xã Hoà Nhuệ, huyện Tứ Kỳ và xã Tử Nham, huyện Đông Triều; vải ngon thì ở xã Yên Nhân huyện Đường Hào” (tập 3, trang 40). Huyện Đường Hào nay là huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
Sách “Vân Đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn (cuối thế kỷ 18) có nói về quả vải: “Nước Nam sản xuât trái lệ chi nhiều nhất. Thứ trái lệ chi ở xã An Nhơn (tức là Yên Nhânt) huyện Đường Hào là ngon, ngọt và thơm không thể nào tả được” (Bản dịch của Tạ Quang Phát, tập 3, Nxb Văn hoá-Thông tin, HN,1995, tập 3, trang 215). Tuy ông nói là nước ta sản xuất nhiều trái lệ chi nhưng không nêu rõ một địa phương nào cả, có lẽ chữ “nhiều” chỉ có nghĩa là dễ tìm thấy mà thôi. Ông cũng không hề nói đến “nạn công vải” hồi thế kỷ 8 để chứng tỏ mức độ nhiều và quý của cây vải ở nước ta, cũng không nói đến vải ở châu Hoan thưở trước và cũng không nói đến vải thiều ở Thanh Hà, vì hồi đó giống vải này chưa được du nhập vào nước ta. Tuy nhiên, cũng ở trong sách ấy của Lê Quý Đôn, ông đã viết rằng, khi đi sứ sang Trung Quốc, ông đã được ăn quả vải sấy khô và cả quả vải dầm muối nữa.
Ở nước ta chưa thấy nòi vải nào ngon hơn vải thiều ở huyên Thanh Hà tỉnh Hải Dương, kể cả nòi vải ở Yên Nhân mà Lê Quý Đôn đã nói tới. Nòi vải ở Yên Nhân ngày nay vẫn còn. Nó có quả to hơn nhưng hạt cũng to và chua hơn vải thiều ở Thanh Hà, quả cũng thưa hơn. Tuy vậy, nó vẫn còn tồn tại là vì thời vụ của nó sớm hơn nên cũng dễ bán.
Cây vải thiều đầu tiên chỉ mới xuất hiện ở Thanh Hà cách đây không lâu. Hiện nay, cây vải tổ ấy vẫn còn và đang thuộc quyền sở hữu của cụ Hoàng Văn Thu (sinh năm Canh ngọ,1930) ở thôn Thuý Lâm, xã Thanh Sơn, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Trong những năm cuối thế kỷ 19 hoặc đầu thế kỷ 20, ông nội của cụ Thu là cụ Hoàng Phúc Thành từng làm phu khuân vác ở cảng Hải Phòng. Thấy mấy ông lái buôn người Trung Quốc quê ở Thiều Châu[1] ăn quả vải rồi vứt hạt đi, cụ Thành đã nhặt được 6 hạt, đem về quê ương giống và mọc được 3 cây. Khi dọn cỏ, cụ bà sơ ý làm chết mất 2 cây, chỉ còn 1 cây. Đó chính là cây vải thiều đầu tiên ở nước ta. Rồi từ đó, chiết cành ra để trồng thêm, số cây vải và số vườn vải càng ngày càng tăng thêm. Con cháu và họ hàng nhớ ơn cụ Thành nên đã xây dựng miếu thờ cụ bên cạnh cây vải tổ. Vì có nguồn gốc như thế nên nó có tên là vải thiều, nhưng chưa hẳn là nòi vải ở Thiều Châu.
Chúng tôi đã đến thăm cây vải tổ và miếu thờ cụ Hoàng Phúc Thành. Tấm bia bằng bê tông mới làm hồi có chủ trương “giao ruộng cho nông dân”, trên đó ghi tên cụ là Hoàng Văn Cơm. Cụ Thu giải thích rằng, vì cụ Thành đem được giống vải thiều về trồng ở quê nhà, cũng là đem cơm gạo về cho dân làng nên mọi người gọi cụ là cụ Cơm.
Dễ dàng đi đến kết luận: rằng, ở nước ta trước đây không có nơi nào có quả vải thật ngon và thật nhiều như vải thiều hiện nay; ở Nghệ An và Hà Tĩnh thì quả vải vừa hiếm lại vừa chua; giống vải Thanh Hà khá ngon hiện nay là từ Trung Quốc mới sang chưa lâu, nếu coi là từ năm 1900 thì cũng chỉ sai lệch vài năm.. Kết luận này chỉ cốt rõ sự liều lĩnh của những kẻ nói rằng “quả vải ở Hoan Châu là ngon và nhiều nhất, còn ở Trung Hoa thì không có” rồi coi đó là một trong những nguyên do của “nạn cống vai”. Thế mà đầu năm nay (2009), GS Phan Huy Lê và 1- 2 người ủng hộ ông đã vin vào kết luận này rồi xuyên tạc và nói đại ý rằng, “ai đó” nói Nghệ An không có quả vải để phủ nhận “nạn cống vải” là “không có cơ sở khoa học”. Rồi họ loay hoay “chứng minh” rằng, ở Nghệ An cũng có quả vải và rất có thể là “xưa kia quả vải ở đây rất nhiều và rất ngon” (tuy chưa chứng minh được) để rồi tự coi mình đã “bác bỏ” mọi lý lẽ của Lê Mạnh Chiến.
IV. Tìm hiểu về cây vải
Trong tiếng Anh và tiếng Pháp, cây vải có tên là litchi. Đó chính là do chữ “lệ chi” được phiên âm một cách khá chính xác theo cách đọc của người Trung Quốc. Tên khoa học của cây vải là litchi chinensis nghĩa là ‘lệ chi Trung Quốc”. Điều đó cho biết rằng, các nhà thực vật học phương tây thấy cây vải có mặt ở Trung Quốc nhiều nhất, sớm nhất. Các bộ từ điển lớn như Encyclopedia Britanica của Anh và Grand Larousse Encyclopédique của Pháp đều xác nhận điều đó và cho biết thêm một số nét quan trọng nữa như sau: cây vải không thích hợp với những vùng nóng ẩm quanh năm mà chỉ thích hợp với những nơi có một mùa lạnh ngắn rồi mới tiếp đến mùa nóng, tức là vùng á nhiệt đới (từ vĩ độ 20 đến 30); nó có thể sống hàng trăm năm và cao đến 20 mét, có gỗ rất tốt, dùng để làm đồ gia dụng và làm thùng xe. Điều này giúp chúng ta hiểu rằng, vì các tỉnh phía bắc nước ta tiếp giáp với vùng này (Thanh Hà: 21 độ; Lục Ngạn: 21, 5 độ) nên có thể trồng vải và thu hoạch tuy không thể bằng ở Quảng Đông nhưng cũng khá, còn từ Thanh Hóa trở vào thì không thích hợp nữa.
Cũng theo các bộ từ điển ấy, cây vải đã được đưa từ Trung Quốc đến Jamaica từ năm 1775 và đến Florida từ năm 1916, cho thu hoạch cao và phẩm chất tốt. Sau đó, cây vải cũng đươc trồng ở các nước gần Địa Trung Hải, ở Nam Phi, Ấn Độ và ở rất nhiều nơi khác.
Các bộ từ điển lớn của Trung Quốc như “Từ Hải”, ”’Từ Nguyên” và “Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc” (phần Sinh vật học) cho biết: cây vải là loai cây gỗ lớn, cao đến 20 mét, sống rất lâu, gỗ rất tốt, có nơi trồng thành rừng để chắn gió, thích hơp với khí hậu á nhiệt đới và là đặc sản của miền nam Trung Quốc, chủ yếu là ở đông nam tỉnh Phúc Kiến, trung nam tỉnh Quảng Đông; các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên, Đài Loan đều có. Đặc biệt, trong “Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc’”, soạn giả La Hiến Thụy còn cung cấp những thông tin khá lý thú về lịch sử, đại để như sau:
Trong thư tịch cổ của Trung Quốc, Tư Mã Tương Như (179-118 trước Công nguyên) là người nói đến cây vải lần đầu tiên trong bài “Thượng Lâm phú” (Bài phú về vườn Thượng Lâm, nội dung chủ yếu là tán tụng sự cường thịnh của đế chế nhà Hàn và ca ngợi Hán Vũ Đế – LMC), nhưng trên thực tế thì cây vải đã được trồng từ trước đó rất nhiều năm. Ở Trung Quốc đã có hơn 100 tác phẩm chuyên khảo về cây vải, mà các từ điển Từ nguyên và Từ hải gói đó là loại sách “Lệ chi phả”. Đầu thế kỷ 10, Trịnh Hùng đã viết sách “Quảng trung lệ chi phả” (Chuyên khảo về cây vải ở vùng Quảng Đông, Quảng Tây), nay đã thất truyền. Hiện nay vẫn còn giữ được sách “Lệ chi phả” (Chuyên khảo về cây vải) của Thái Tương (1012-1067), chủ yếu viết về các nòi vải ở Phúc Kiến. Cuối đời Thanh, Ngô Ứng Quỳ viết sách “Lĩnh Nam lệ chi phả” (Chuyên khảo về cây vải ở phía nam núi Ngũ Lĩnh, tức là vùng Lưỡng Quảng), trich dẫn hơn một chục tài liệu lịch sử rất quan trọng.
Hiện nay, ở Trung Quốc còn giữ được khá nhiều tư liệu cổ về các nòi vải. Ngoài sách ‘Lệ chi phả” của Thái Tương (biên soạn xong năm 1059) và sách “Lĩnh Nam lệ chi phả” của Ngô Ứng Quỳ thời Thanh, cần phải kể đến “Mân trung lệ chi phả” (Chuyên khảo về các nòi vải ở Phúc Kiến) của Đồ Bản Tuấn và “Mân trung lệ chi thông phả” (Chuyên khảo tinh tường về các nòi vải ở Phúc Kiến) của Đặng Khánh Thái thời Minh, “Lệ chi phả” (Chuyên khảo về các nòi vải) của Trần Đỉnh, thời Thanh.
Như vây, rõ ràng rằng, vùng đất phía nam của Trung Quốc chính là quê hương của cây vải, ở đó có rất nhiều vườn vải, với nhiều nòi vải rất ngon. Theo Từ điển Bách khoa thiếu niên nhi đồng Trung Quốc thì ở nước này có hơn 70 nòi vải quý. Xin nêu một số vị dụ:
Nòi vải “Trần Tử” ở huyện Phủ Điền tỉnh Phúc Kiến, quả to bằng trứng gà, vỏ màu tím (‘tử’ nghĩa là tím), được nhân giống từ cây vải của Trần Kỳ, môt quan chức thời Tống.
Huyện Phủ Điền có một cây vải 1300 tuổi (hiện do Phòng văn hoá huyện này chăm sóc và quản lý), có tên là Tống Hương hoăc Tống Gia Hương (nghĩa là cây vải thơm của nhà họ Tống, vốn là của gia đình Tống Hàm trồng từ thời nhà Đường), hạt nhỏ, cùi dày, có mùi thơm đặc biệt.
Nòi vải “Trạng Nguyên Hồng ” ở tỉnh Phúc Kiến vốn là của trạng nguyên Từ Đạc thời Tống, ở phủ Hưng Hoá (gồm huyện Phủ Điền và huyện Tiên Du ngày nay). Ban đầu, Từ Đạc đặt tên là Diên Thọ Hồng. Sau khi ông mất người ta mới gọi là Trạng Nguyên Hồng để nhớ tới ông.
Huyện Tăng Thành thuộc tỉnh Quảng Đông có nòi vải Quải Lục ngon nổi tiếng, quả to, cùi dày, hạt nhỏ, mùi thơm. Đặc biệt, vỏ ở phía trên có màu đỏ như son nhưng ở phía dưới lại có màu lục đậm.
Vùng Phật Sơn (phía bắc tam giác châu sông Châu Giang, tỉnh Quảng Đông) có nòi vải Phi Tử Tiếu, ngon nổi tiếng. Theo từ điển Từ Nguyên, nòi vải này có “cùi trắng và dày, hạt cũng trắng, nhỏ như hạt đỗ, vị ngọt hơi chua, ăn từ chập tối mà đến sáng hôm sau vẫn còn thơm trong miêng”. Trong quyển Hán Việt từ điển, soạn giả Đào Duy Anh cho rằng, Phi Tử Tiếu là danh từ chung để chỉ quả vải. Đó là một sự nhầm lẫn cần phải đính chính. Còn cái tên “Phi Tử Tiếu” thì hẳn là lấy từ lời của nhà thơ Đỗ Mục thời nhà Đường, trong bài thơ “Quá Hoa Thanh cung” mà chúng tôi sẽ nói tới ở mục “Dương Quý Phi và quả vải” dưới đây.
Ở Quảng Đông, ngoài “Phi Tử Tiếu” và ‘Quải Lục’ còn có nhiều nòi vải quý khác nữa như Thuỷ Tinh Cầu, có vỏ trắng, cùi trắng, hạt trắng nhưng nước lại đỏ như máu; Tam Nguyệt Hồng thơm ngon, chín sớm; Nhu Mễ Từ, thơm ngon, chín muộn, v.v.
Nhà thơ Tô Thức (1037-1101) lúc cuối đời từng bị giáng chức và đưa đi làm quan nhỏ ở phía nam tỉnh Quảng Đông. Ở đấy có rất nhiều quả vải ngon, ông ăn mãi không chán nên đã sáng tác bài thơ “Thực lệ chi” (Ăn quả vải), như sau
罗 浮 山下 四 時 春,
La Phù sơn hạ tứ thời xuân.
芦 橘 杨 梅 次第 新。
Lư quất dương mai thứ đệ tân
日 啖 荔 枝 三 百 颗,
Nhật đạm lệ chi tam bách khoả,
不 辞 长 作 岭 南 人
Bất từ trường tác Lĩnh Nam nhân.
Nghĩa là:
Dưới núi La Phù, xuân suốt năm,
Quả ngọt luân phiên, tha hồ ăn.
Ngày xơi vải ngon ba trăm quả,
Chẳng ngại biến thành người Lĩnh Nam.
Ở tỉnh Tứ Xuyên cũng có những vùng khá nổi tiếng về quả vải ngon, ví dụ như ở Lô Châu, Nhung Châu, hiện nay quả vải vẫn là một đặc sản quan trọng.
Trong chùm thơ “Giải muộn” gồm 12 bài của nhà thơ Đỗ Phủ (712-770), ở bài thứ 10, đã nói đến việc hái vải ở Lô Châu (nay là thành phồ Lô Châu, ở đông –nam tỉnh Tứ Xuyên, chỗ hội lưu của sông Trường Giang và sông Đà Giang) và Nhung Châu (ở đông-nam thành phố Nghi Tân, tỉnh Tứ Xuyên).
憶 過 瀘 戎摘 荔 枝
Ức quá Lô, Nhung, trích lệ chi
楓 隱 映 石 逶 迤
Thanh phong ẩn ánh, thạch uy di
京 華 膺 見 無 顏 色
Kinh hoa ưng kiến vô nhan sắc
紅 顆 酸 甜 只 自 知
Hồng khỏa toan điềm chỉ tự tri
Tạm dịch:
Nhớ xưa hái vải đất Lô, Nhung,
Cây xanh đường khuất núi chập chùng.
Kinh thành nên biết quên màu sắc,
Quả đỏ ngọt chua tự mỗi lòng .
Đến đây, chúng ta vẫn chưa khẳng định về việc Đường Minh Hoàng ra lệnh chở quả vải tươi từ phương xa về kinh đô cho Dương Quý Phi ăn, nhưng trong bài thơ này, qua hai câu cuối, Đỗ Phủ có nhắc đến việc đó và đã bộc lộ lòng thương xót của mình đối với những người dâng quả vải..
V. Dương Quý Phi và quả vải
Dương Quý Phi là một trong những người đàn bà nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc. là một trong “tứ đại mỹ nhân” – bốn người đàn bà đẹp nổi tiếng nhất (ba người kia là Tây Thi thời Chiến quốc, Vương Chiêu Quân cuối thời Tây Hán, và Điêu Thuyền cuối thời Đông Hán). Bà ta được vua Đường Huyền Tông (còn gọi là Đường Minh Hoàng, ở ngôi hoàng đế Trung Hoa từ năm 712 đến năm 755) yêu quý chiều chuộng hết mức, đòi gì được nấy. Đỗ Mục (803-852), một nhà thơ nổi tiếng thời Đường, có lần đi qua cung Hoa Thanh (cung điện sang trọng dành riêng cho Dương Quý Phi thuở trước) đã sáng tác bài thơ “Quá Hoa Thanh cung” (Qua cung Hoa Thanh):
长安回望绣成堆
Trường An hồi vọng, tú thành đôi,
山顶千门次第开
Sơn đỉnh thiên môn thứ đệ khai.
一骑红尘妃子笑
Nhất kỵ hồng trần, Phi Tử tiếu
无人知是荔枝来
Vô nhân tri thị lệ chi lai.
Tương Nhu đã dịch như sau:
Ngoảnh lại Trường An tựa gấm thêu,
Đầu non nghìn cửa mở liền nhau.
Bụi hồng ngựa ruổi, Phi cuời nụ.
Vải tiến mang về, ai biết đâu!
Hai câu cuối của bài thơ này được coi là bằng chứng về việc Đường Minh Hoàng bắt thuộc hạ phải đưa quả vải từ phương xa về để thỏa lòng mong muốn của Dương Quý Phi. Tác giả Đỗ Mục đã cho chúng ta biết rằng, quả vải được đưa đến Trường An bởi các chàng thiện kỵ.
Bài thơ này quá hay nên trong thư tịch Trung Hoa, hễ nói đến lệ chi (quả vải) hoặc nói đến Dương Quý Phi là người ta lại nhắc đến nó. Người ta đã dùng ba chữ “phi tử tiếu” để dặt tên cho một nòi vải ngon ở Quảng Đông, mà chúng tôi đã nói ở mục “Tìm hiểu về cây vải” ở trên.
Đương nhiên, chỉ những người nhẹ dạ mới vội coi thơ văn, ca dao, truyền thuyết là bằng chứng lịch sử. Nhưng trong trường hợp này, người ta tin vào lời thơ của Đỗ Mục. Ông là một nhà thơ nổi tiếng, đã từng đỗ tiến sĩ, nhưng không phải vì thế mà người ta tin vào lời thơ của ông. Cũng không phải vì ông là cháu nội của Đỗ Hựu (735-812), một vị tể tướng, một nhà sử học từng viết bộ sách “Thông điển” nổi tiếng gồm hai trăm quyển! Lý do chủ yếu là, lời thơ của ông có cơ sở thực tế. Qua lời ông, người ta hiểu rằng, quả vải được đưa tới tay Dương Quý Phi bằng ngựa vốn được dùng để chuyển công văn hoả tốc lần lượt từ trạm này sang trạm khác, liên tục ngày này qua ngày khác.. Hệ thống “dịch trạm” (trạm chuyển công văn hoả tốc) đã được hoàn thiện từ thời nhà Tuỳ (581-617) nên vua nhà Đường có thể sử dụng một cách thuận lợi..
Chúng tôi không sử dụng bài thơ này làm bằng chứng để phản bác luận cứ của các nhà sử học, bởi vì, không thể coi thơ văn là sử liệu, mà phải tra cứu các bộ sách lịch sử Trung Hoa viết về triều đại nhà Đường, trước hết là Cựu Đường Thư và Tân Đường Thư, để xác minh mối liên quan giữa Dương Quý Phi và “nạn cống vải” ở thời Mai Thúc Loan mà các nhà sử học “tai mắt” hiện nay đã khẳng định.
Cựu Đường Thư là một bộ sách biên khảo lịch sử về triều đại nhà Đường (618 -907) gồm 200 quyển, hoàn thành năm 945, triều Hậu Tấn (936 – 947), do tể tướng Lưu Hú 劉昫 (887 – 946) giám tu – tức là chủ biên (bản in năm 1975 của Trung Hoa thư cục gồm 16 tập dày). Ban đầu, nó có tên là Đường Thư, nhưng, đến năm 1060, thời Bắc Tống, nó bị thay thế bởi một bộ sách mới có tên là Tân Đường Thư gồm 225 quyển (bản in năm 1975 của Trung Hoa thư cục gồm 20 tập dày) do Âu Dương Tu và Tống Kỳ chủ biên. Từ đó trở đi, sách Đường Thư được gọi là Cựu Đường Thư và không được in lại nữa. Mãi cho đến năm Gia Tĩnh thứ 10 (1538) triều Minh, bộ sách này được học giả Văn Nhân Thuyên biên tập lại và ông nhận thấy nó cũng rất có giá trị nên đã cho in lại. Từ đó đến nay, nó được nhiều người tham khảo và được xếp vào “nhị thập tứ sử”, nghĩa là trở thành một trong 24 bộ sách lịch sử chính thức ở Trung Quốc.
Trong Cựu Đường Thư, hành trạng của Dương Quý Phi được ghi ở cuối quyển 55, tức là quyển thứ nhất của phần Liệt truyện (sau các phần Bản kỷ và Chí), có tên là Hậu phi thượng, là quyển thứ nhất của đoạn viết về các hoàng hậu và hoàng phi. Ở đây không thấy dòng nào nói về việc cung cấp quả vải tươi cho Dương Quý Phi. Nhưng chúng ta không vì thế mà kết luận là không có việc cống nạp quả vải cho Dương Quý Phi ăn. Còn phải tiếp tục tìm sử liệu ở những chỗ khác nữa.
May mắn thay, Tân Đường Thư có chép về việc này. Trong đoạn nói về Dương Quý Phi (quyển 76, cũng là quyển thứ nhất của phần Liệt truyện và cũng có nhan đề là Hậu phi thượng), có một câu như sau: Phi thị lệ chi, tất dục sinh trí chi, nại trí kỵ truyền tống, tẩu sổ thiên lý, vị vị biến dĩ chí kinh sư (妃嗜荔支,必欲生致之,乃置骑传送,走数千里,味未变已至京师), nghĩa là: (Dương Quý) Phi thèm lệ chi nên muốn có quả tươi mang đến, (vua) bèn sai kỵ sĩ đưa về, đi hàng ngàn dặm, đến kinh đô mà hương vị vẫn nguyên.
Như vậy là, cái cảnh “nhất kỵ hồng trần Phi tử tiếu (Bụi hồng ngựa ruổi, Phi cười nụ) trong thơ của Đỗ Mục đã được Tân Đường Thư xác nhận là một sự thật lịch sử. Đúng là Dương Quý Phi rất thich ăn quả vải nên Đường Minh Hoàng đã tìm mọi cách đưa quả vải thật tươi về Trường An để thỏa lòng mong ước của giai nhân này. Nhưng cách thực hiện của Đường Minh Hoàng là dùng sức của những con tuấn mã và của các kỵ sĩ . Mà như thế thì làm gì có chuyện Mai Thúc Loan và đồng bào của ông phải đi phu gành vải sang tận kinh đô Trường An?
Nhiều học giả Trung Quốc, trong đó có Tô Thức, cho rằng, cây vải có mặt ở Tứ Xuyên sớm hơn ở Phúc Kiến, và Dương Quý Phi đã ăn loại quả vải ở Tứ Xuyên là chính, vì từ Tứ Xuyên đến Trường An (thuộc tỉnh Thiểm Tây, tiếp giáp tỉnh Tứ Xuyên) thì gần hơn rất nhiều so với từ Quảng Đông hay Phúc Kiến.
Trong chùm thơ “Giải muộn” của Đỗ Phủ gồm 12 bài mà chúng tôi vừa nhắc đến ở mục “Tìm hiểu về cây vải”, ở bài thứ 9, ông đã gián tiếp xác nhận việc đưa quả vải từ phương xa về cho Dương Quý Phi, và cho biết rằng, sau khi Dương Quý Phi (719 – 756) và Đường Minh Hoàng (685 – 862) qua đời, quả vải tươi vẫn được mang đến để phục vụ cho cung đình nhà Đường.
先 帝貴 妃 今 寂 寞
Tiên đế, Quý phi kim tịch mịch,
荔 枝 還 復 入 長 安
Lệ chi hoàn phục nhập Trường An
炎 方 每 續 朱 櫻 獻
Viêm phương mỗi tục chu anh hiến
玉 座 膺 悲 白 露 团
Ngọc tọa ưng bi bạch lộ đoàn
Tạm dịch:
Tiên đế, Quý phi, tuy đã khuất
Lệ chi vẫn cứ nhập Trường An.
Mỗi độ phương xa dâng quả hiếm
Điện ngọc nên thương kẻ nhọc nhằn.
Cần biết rằng, Đỗ Phú (712 – 770) ra đời trước Dương Quý Phi 7 năm, mất sau bà này 14 năm, và ông đã sống ở Trường An hơn 10 năm, trùng với thời gian ân ái mặn nồng giữa Dương Quý Phi và Đường Minh Hoàng, rồi ông cũng theo hai vị ấy chạy loạn An – Sử. Bởi vậy, bài thơ này cùng với bài thơ của ông mà chúng tôi đã nêu ở mục trước đều có giá trị sử liệu rất cao.
Nhìn vào năm sinh của Dương Quý Phi (năm 719) quý vị độc giả sẽ thấy ngay một điều buồn cười là, khi Mai Thúc Loan bại trận thì bà này mới 3 tuổi, và khi bà ta trở thành sủng phi của Đường Minh Hoàng (năm 744) thì Mai Thúc Loan đã chết từ 22 về trước.Thế mà các nhà sử học ưu tú của chúng ta dám coi bà như là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan!, và họ tin rằng, “từ sau cuộc khởi nghĩa lớn lao này, nhà Đường không dám bắt nhân dân ta nộp cống vải quả hàng năm nữa” (Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991, trang 287). Quả là một chuyện hài hước.
VI. Có thể gánh vải từ Hoan Châu đến Trường An hay không?
Ở Nghệ An và Hà Tĩnh (mà xưa gọi là Hoan Châu), quả vải vừa hiếm lại vừa chua, điều đó thì ai cũng biết. Nhưng cũng có nhà sử học cãi rằng, ngày nay thì như vậy, nhưng ở thế kỷ 8 thì Nghệ An là “đất vải”, bài hát chầu văn và bài thơ mà các giáo sư sử học đã nêu chẳng phải là minh chứng rành rành đó sao?
Vâng, cứ tạm cho rằng, vì một nguyên nhân nào đó mà khoa học hiện nay chưa thể giải thích được, Hoan Châu hồi thế kỷ 8 là nơi sản sinh quả vải rất nhiều và rất ngon, và chúng ta cũng bỏ qua câu chuyện hoang đường về việc Dương Quý Phi đã ăn những quả vải Nghệ An do Mai Thúc Loan và những người đồng hương của ông gánh sang. Chúng ta cũng bỏ qua cả sự thực là, miền nam Trung Quốc là quê hương của cây vải trên toàn thế giơi, rồi tưởng tượng rằng, quả vải ở Nghệ An có những phẩm chất đặc biệt mà ngót trăm nòi vải ở Trung Quốc không có, cho nên Dương Quý Phi phải đòi cho được thứ quả vải này. Nhưng chúng ta hãy đặt câu hỏi: liệu có thể gánh vải từ Hoan Châu đến Trường An để nộp cống hay không?
Trong những năm gần đây, nòi vải thiều ở huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương đã phủ xanh vùng đồi núi huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. Nhờ vậy, cứ đến mùa vải chín, trên đường phố Hà Nội đâu đâu cũng thấy quả vải, tha hồ ăn. Nhưng, quả vải rất khó bảo quản, nhiều khi bán không kịp, phải vất đi vì ôi thiu, để rồi vài ngày sau đó thì hết vụ, lại không có mà ăn. Quả vải Thanh Hà và Lục Ngạn được tiêu thụ ở Hà Nội là chính. Nếu đưa nhiều vào miền trung hoặc miền nam thì nhiều khi chưa kịp bán, quả vải đã biến chất, không còn giá trị gì nữa. Ngày nay, tuy có ô tô, máy bay, máy ướp lạnh, và nhiều biện pháp kỹ thuật khác mà việc bảo quản và tiêu thụ quả vải tươi vẫn là việc rất khó khăn. Vậy mà từ đầu thế kỷ 8, từng đoàn dân phu hàng ngàn người đã gánh quả vải tươi từ châu Hoan sang tận kinh đô Trường An được ư?
Quãng đường từ Nghệ An đến Trường An dài không dưới 4000km. Sức người thì có hạn, dù bị bức bách cưỡng ép thì cũng không thể đi bộ được 50km mỗi ngày liên tục. Kinh nghiệm trong mấy cuộc chiến tranh vừa qua cho thấy rằng, những thanh niên khoẻ mạnh mà không phải mang vác gì cả, lúc đầu có thể đi được chừng 30-35km trong một ngày nhưng về sau thì khó vượt nổi 30km/ngày. Còn những người dân phu như Mai Thúc Loan thi chỉ đi được 30km/ngày trong vài ngày đầu tiên, và nếu họ cứ khoẻ như vâm chứ không bị chết dọc đường và không bị ốm ngày nào thì cũng phải mất vài trăm ngày mới lê bước tới đất Trường An, và phải mất hơn một năm mới lê có thể lê gót về nhà. Chưa kể là họ lấy gì mà ăn để đi đường. Dầm mưa dãi gió nhiều tháng trời nhu thế thì củi tuơi cũng mục nát hết, nói gì đến quả vải. Quả vải từ Nghệ An chưa ra đến Hà Nội thì đã thối rồi, lám sao có thể đi tiếp hơn sáu tháng nữa để đưa tới miệng Dương Quý Phi?
Như vậy, việc vận chuyển quả vải tươi về Trường An chắc chắn phải được thực hiện bằng sức ngựa, đúng như Tân Đường Thư đã ghi và thi nhân Đỗ Mục đã viết. Chúng ta hãy làm một phép tính hoàn toàn dựa theo “lý thuyết suông” như sau.
Tốc độ kỷ lục của ngựa hiện nay là 69km/giờ. Các chú “dịch mã” (ngựa của dịch trạm) đều được tuyển chọn rất kỹ, đủ sức chạy với tốc độ 30-35 km/giờ trong vài giờ liên tục.Trong một ngày đêm (24 giờ), thời gian vận chuyển quả vải có thể đến 20 giờ nhờ 5-6 con ngựa chạy tiếp sức nên có thể vượt được quãng đường dài 600-700km. Quả vải thì có thể lấy ở Quảng Đông, cách Trường An khoảng hơn 2000km. Như vậy, cũng phải mất chừng 4 ngày thì quả vải hái từ trên cây mới có thể tới miệng Dương Quý Phi.
Tuy nhiên, để bảo đảm cho quả vải từ phương xa về tới Trường An kịp thời và không bị dập nát, mỗi con ngựa chỉ chở được ít thôi, và các chùm vải phải được bọc lót thật cẩn thận. Việc chuyên chở quả vải với biết bao khó khăn vất vả chỉ cốt để thoả mãn sự đòi hỏi của Dương Quý Phi. Họạ chăng, một số người thân cận Dương Quý Phi mới được “ăn theo” mà thôi. Nghĩ đến cảnh cả một hệ thống dịch trạm phải ngày đêm vất vả để đáp ứng đòi hỏi ngông cuồng của một người đàn bà, Đỗ Mục liền phác hoạ thành bài thơ nổi tiếng. Chính vì nói lên nghịch cảnh đó nên bài thơ này mới được người đời sau nhắc tới mỗi khi nói đến quả vải hoặc nói đến Dương Quý Phi. Nếu quả vải được chở về đủ cho văn võ bá quan đều được ăn thì Dương Quý Phi cũng ăn là lẽ đương nhiên và là điều quá bình thường, hẳn Đỗ Mục chẳng thấy có gì lạ để làm thơ, mà nếu có làm (hẳn ông phải đổi “nhất kỵ hồng trần” thành “bách kỵ hồng trần”) thì cũng chẳng ai nhắc đến.
Theo cách tính toán dựa trên “lý thuyết suông” của chúng tôi thì quả thật là người và ngựa rất khó có thể chịu đựng được cường độ làm việc như thế, Bởi vậy, nhà thơ Tô Thức, một một học giả lớn, cũng là một ông quan lớn thời Bắc Tống, với rất nhiều kinh nghiệm thực tế, cũng chưa tin hẳn rằng, những quả vải mà Dương Quý Phi ăn là được chở từ Quảng Đông, tuy là bằng ngựa kế tiếp nhau.
Tóm lại, việc Dương Quý Phi (và cả các triều đại phong kiến Trung Quốc trước và sau bà ta) bắt thuộc hạ của mình chuyên chở quả vải từ phương xa về cho mình ăn là điều đã được ghi chép trong sử sách. Quả vải để cung phụng cho Dương Quý Phi được lấy ở miền nam Trung Quốc, có thể là từ Quảng Đông, Phúc Kiến hoặc Tứ Xuyên và hoàn toàn chẳng liên quan gì đến Hoan Châu hoặc An Nam. Việc chuyên chở quả vải tươi được thực hiện bằng ngựa chạy từng quãng tiếp nối nhau qua các trạm chứ không phải bằng sức gồng gánh của nông dân “đi một mạch”, dù là ở trên đất Trung Quốc..
VII Không thể coi thơ văn và truyền thuyết là bằng chứng lịch sử
Dựa vào những câu hát chầu văn và bài thơ ca ngợi công ơn của Mai Thúc Loan mà các nhà sử học hiện thời đã sưu tầm được ở Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, họ đã đồng loạt coi chúng là bằng chứng về việc bọn quan lại nhà Đường bắt dân ta phải gánh quả vải tươi sang kinh đô Trường An để nộp cống. Mặc nhiên, họ đã vội coi thơ văn hoặc truyền thuyết là bằng chứng lịch sử, là chỗ dựa cho “phát kiến” khoa học của họ.
Cần phải biết rằng, ca dao, thơ văn, truyện cổ tích, truyền thuyết, v.v. có thể gợi ý cho nhà sử học trên đường tìm tòi phát hiện sự thật lịch sử, nhưng không thể coi chúng là sự thật lịch sử. Khi đã tìm ra sự thật lịch sử phù hợp với nội dung của ca dao, thơ văn, truyện cổ tích hoặc truyền thuyết, thì những thứ này có tác dụng rất tốt để minh hoạ cho việc giảng dạy và truyền bá kiến thức lịch sử, giúp cho bài học lịch sử trở nên sinh động, có hồn, thấm sâu vào lòng người. Nếu không phản ánh sự thật lịch sử thì chúng vẫn cứ là ca dao, thơ văn … và vẫn rất có giá trị nếu chúng có lời hay ý đẹp. Kể cả thơ văn của những nhân vật nổi tiếng cũng vậy, vẫn có thể không sát đúng với sự thật lịch sử, vì họ cốt chú trọng đến chủ đề trong thơ văn của mình. Không ít tác phẩm văn học nổi tiếng đã mượn đề tài lịch sử để chuyển tải ý tưởng của tác giả. Xin nêu một ví dụ.
Chúng ta biết rằng, Dương Quý Phi có tên là Dương Ngọc Hoàn, nguyên là vợ của Thọ Vương Lý Mạo, con trai thứ 18 của Đường Minh Hoàng. Năm 25 tuổi, bà xuất gia làm nữ đạo sĩ (tu sĩ của Đạo giáo, mà ở ta thường gọi là đạo Lão), với pháp danh là Thái Chân, để từ đó bước vào hậu cung của Đường Huyền Tông cho khỏi mang tiếng loạn luân. Chẳng bao lâu, bà được phong làm Quý Phi, địa vị chỉ kém hoàng hậu một bậc nhưng được hưởng thụ và sủng ái hơn hẳn hoàng hậu. Lai lịch của bà ta như thế, ai cũng biết, nhưng ở bài “Trường hận ca”, một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Bạch Cư Dị, nhà thơ vĩ đại này đã viết, nguyên văn bằng chữ Hán, như sau:
汉皇重色思倾国,
Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc
御宇多年求不得。
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc
杨家有女初长成,
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành
养在深闺人未识。
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức
天生丽质难自弃,
Thiên sinh lệ chất nan tự khí
一朝选在君王侧。
Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc.
……………………………….
Nhà thơ Tản đà đã dịch như sau:
Đức vua Hán mến người khuynh quốc,
Trải bao năm tìm chuốc công tai.
Nhà Dương có gái mới choai,
Buồng xuân khoá kín chưa ai bạn cùng.
Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc,
Chốn ngai vàng phút chốc kề bên.
…………..
Cứ theo lời thơ này thì trước khi vào cung, Dương Ngọc Hoàn là cô gái đồng trinh. Bạch Cư Dị (772-864) là một nhà thơ vĩ đại có học vấn uyên bác, từng đỗ tiến sĩ, kém Dương Quí Phi 53 tuổi. Hẳn ông chẳng lạ gì lai lịch của bà ấy.Trong bài thơ nổi tiếng này, chủ yếu ông chê trách thói ăn chơi hưởng lạc hiếu sắc của Đường Minh Hoàng để đến nỗi sắp sụp đổ cơ đồ, và ông có phần thương xót cho số phận của Dương Quý Phi khi bà bị quân lính và các tướng lĩnh đổ tội rồi bắt phải thắt cổ ở Mã Ngôi . Vì vậy, ông bỏ qua những nét không đẹp trong lý lịch của bà ta để khỏi làm mờ nhạt chủ đích của bài thơ. Mọi người đều coi đây là một kiệt tác của Bạch Cư Dị và không ai chê trách ông về việc viết không đúng tiểu sử của Dương Quý Phi, bởi vì đây là bài thơ chứ không phải là bài giảng lịch sử.
Nay chúng ta hãy trở lại những câu hát chầu văn sưu tầm được ở Nam Đàn:
Sâu quả vải vì ai vạch lá,
Ngựa hồng trần kể đã héo hon.
Các sách giáo khoa lịch sử ở Việt Nam hiện nay đều coi đây là bằng chứng về việc nhân dân châu Hoan, trong đó có Mai Thúc Loan, phải làm phu gánh vải sang kinh đô Trung quốc để nộp cống. Thực ra, tác giả của những câu này đã lấy ý từ thơ của Đỗ Mục và vẫn giữ nguyên nhóm từ ‘”ngựa hồng trần” chứ không hề nói đến đoàn dân phu còng lưng gánh quả vải. Tác giả sử dụng lời thơ của Đỗ Mục như một điển tích, phải biết điển tích đó thì mới hiểu được ý của hai câu hát chầu văn này là: người dân phải vạch lá tìm sâu để chọn những quả vải thật ngon, rồi con ngựa thì phải phi nhanh đến kiệt sức để đưa những quả vải ấy về Trường An. Nếu không biết bài thơ của Đỗ Mục thì không thể hiểu được mấy câu hát chầu văn kia. Tôi đã đem những câu ấy đọc cho hơn một chục người nghe, tuổi từ 60 đền 70, có vị là đại tá kỹ sư, có vị là tiến sĩ, ba vị là giảng viên văn hoc, các vị khác đều tốt nghiệp đại học trở lên và đều giàu kinh nghiệm xã hội, nhưng không một ai cắt nghĩa được. Vậy mà trong sách “Hỏi đáp lịch sử 6” của Trương Hữu Quýnh (Nxb Giáo dục, HN 2002), ở cuối trang 63 có câu hỏi và câu trả lời như sau:
– Hỏi: Theo em, những câu nào trong bài hát chầu văn (trong SGK) nói lên nỗi khổ của dân ta?
– Đáp:
Sâu quả vải vì ai vạch lá,
Ngựa hồng trần kể đã héo hon.
Khi giảng đến những câu này, không biết các thầy giáo hoặc cô giáo có giảng về điển tích lấy từ thơ của Đỗ Mục hay không? Hẳn là không, bởi vì các nhà sử học tai mắt vốn là bậc thầy của các cô còn chưa biết bài thơ quá nổi tiếng của Đỗ Mục thì làm sao mà các cô biết đựợc? Sao họ dám rằng, đây là bằng chứng về việc chính quyền nhà Đường bắt từng đoàn dân phu hàng ngàn người còng lưng gánh vải sang Trung Quốc, vì đây chỉ nói đến ngựa chứ có nói gì đến dân phu đâu? Thật là một kiểu suy luận “lấy dược”, rất gượng ép. Phải chăng, câu hỏi và câu giải đáp này chỉ cốt bắt học sinh lại như con vẹt để lấy điểm?
Nhũng câu thơ:
Đường đi cống vải từ đây dứt,
Dân nước đời đời hưởng phúc chung.
đã được các nhà sử học dụng làm bằng chứng để dứt khoát khẳng định “sự thật” về “nạn cống vải”. Những câu thơ này cùng với những câu hát chầu văn kia đều không có lai lịch rõ ràng, và cùng xuất phát từ một nguồn, mà rất có thể là của cùng một tác giả. Chúng không độc lập với nhau, làm sao có thể dùng cái này để khẳng định cái kia?
Vì bài viết đã khá dài và đã quá đủ cơ sở để bác bỏ cái gọi là “nạn cống vải” (trên quy mô rộng lớn, cần phải sử đụng hàng ngàn đàn ông gánh quả vải một mạch sang tận kinh đô Trung Quốc, như các nhà sử học đã mô tả) ở mọi thời đại, nên ở đây, chúng tôi bỏ bớt đoạn nói về “lệ cống quả vải” lẻ tẻ bằng ngựa của các dịch trạm thời Hán – cũng giống như ở thoài Đường.