Trần Nhân Tông và chiến thắng Bạch Đằng
Trúc Lâm Lê An Bình Trận Bạch Đằng năm 1288 xảy ra trên sông Bạch Đằng thuộc đất Đại Việt, đây là một trận đánh quan trọng trong các cuộc Kháng chiến chống Nguyên Mông trong lịch sử Việt Nam. Đây là chiến thắng vẻ vang của quân Đại Việt do Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo cùng với ...
Trúc Lâm Lê An Bình
Trận Bạch Đằng năm 1288 xảy ra trên sông Bạch Đằng thuộc đất Đại Việt, đây là một trận đánh quan trọng trong các cuộc Kháng chiến chống Nguyên Mông trong lịch sử Việt Nam. Đây là chiến thắng vẻ vang của quân Đại Việt do Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo cùng với Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông chỉ huy trước quân xâm lược Nguyên Mông. Quân Nguyên bị thiệt hại vô cùng nặng (với khoảng hơn 4 vạn quân sĩ bị loại khỏi vòng chiến), và nhiều tướng Nguyên trong đó có cả Ô Mã Nhi, Phạm Nhàn[4] và Phàn Tiếp cũng bị bắt sống và dâng lên Thượng hoàng Thánh Tông. Ngoài ra, có những 400 chiến thuyền của quân Nguyên rơi vào tay quân Trần thắng lớn. Đại thắng trên sông Bạch Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, và là thắng lợi tiêu biểu nhất của Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông
Quân Nguyên rút về Tàu chia thành nhiều hướng khác nhau. Ngày 3 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), Hữu Thừa Trình Bằng Phi, Thiên Tỉnh Đạt Mộc thống lĩnh kỵ binh đi rước các cánh quân di chuyển bằng đường thủy, có lẽ đi đón đoàn thuyền của Trương Văn Hổ hay chăng, một hy vọng chót trước khi rút về nước? Tuy nhiên khi qua chợ Đông-Hồ thì bị cản trở bởi dòng sông phải lui trở về đường cũ thì cầu cống đã bị quân nhà Trần bám theo sau phá hủy. Túng thế, trước mặt thì bị quân ta chận đường, sau lưng là chướng ngại thiên nhiên, đoàn quân thiện chiến của chúng đã bị dồn vào khoảng giữa. Tiếc rằng vì không đủ lực lượng để bao vây và tiêu diệt kẻ thù, nếu không cánh quân này khó lọt được vòng vây của ta. Chúng đã gian manh dọ hỏi những người dân của ta bị bắt làm tù binh về lối thoát thân, cho nên vào nửa đêm hôm đó đám quân này đã lẻn đột phá vòng vây chạy trốn theo con đường khác phối hợp với một cánh quân Nguyên đang rút lui để cùng nhau ra khỏi ải Nội-Bàng. Tuy bị bất ngờ bởi sự thay đổi lộ trình của chúng, quân đội nhà Trần đuổi theo đánh rất sát vào cánh quân đi sau của chúng. Tướng Nguyên là Vạn-Hộ Đáp-Thứ-Xích và Lưu-Thế-Anh phải dẫn quân lính quay trở lại phía sau đối phó với quân ta. Không may các vị tướng nhà Trần chỉ huy đoàn quân tập kích vào quân thù là Tướng quân Phạm-Trù và Nguyễn-Kỵ đã bị chúng bắt được và đem giết đi.
Ngày 7 tháng 3 năm 1288, cánh quân Mông-cổ rút bằng đường biển đi tới Trúc-Đông, tại đây quân nhà Trần đã chận đánh chúng, nhưng không thành công. Tướng Nguyên là Lư-Khuê chỉ huy cánh quân này đánh bật sự tấn công của quân ta và tịch thu được 20 chiến thuyền.
Ngày 8 tháng 3 năm 1288, Ô Mã Nhi chỉ huy quân lính không rút về bằng đường biển mà chúng xử dụng con sông Bạch Đằng để di chuyển, chúng lạc quan nghĩ rằng, đường biển đã bị chu-sư (hải quân) nhà Trần vây chặt còn đường sông thì ta không phòng hờ nếu chúng rút lui như thế và một nguyên do khác đó là, với con sông Bạch Đằng này chúng ta thể rút lui được là vì nó nối liền với nội địa Tàu bằng thủy lộ.
Theo kế hoạch đã bàn trước, quân dân ta dưới sự đốc thúc của Hưng Ðạo Vương đã chuẩn bị một trận địa mai phục kỹ càng trên sông Bạch Ðằng, là nơi đoàn thuyền của giặc Nguyên sẽ băng qua trên đường rút chạy. Các loại gỗ lim, gỗ tàu đã được đốn ngã trên rừng kéo về bờ sông và được đẽo nhọn cắm xuống lòng sông (xem họa đồ hình thức bao vây quân giặc trên sông Bạch Ðằng) ở các cửa dẫn ra biển như sông Rút, sông Chanh, sông Kênh làm thành những bãi chông ngầm lớn, kín đáo dưới mặt nước. Ghềnh Cốc là một dải đá ngầm nằm bắt ngang qua sông Bạch Ðằng nhưng phía dưới sông Chanh, đầu sông Kênh, có thể sử dụng làm nơi mai phục quân lính phối hợp với bãi chông ngầm nhằm ngăn chận thuyền địch khi nước rút xuống thấp. Chu-sư (thủy quân) của ta kín đáo mai phục phía sau Ghềnh Cốc, Ðồng Cốc, Phong Cốc, sông Khoái, sông Thái, sông Gia Ðước, Ðiền Công; còn bộ binh bố trí ở Yên Hưng, dọc theo bờ bên trái sông Bạch Ðằng, Tràng Kênh ở bờ bên phải sông Bạch Ðằng, núi Ðá Vôi v.v…ngoại trừ sông Ðá Bạc là để trống cho quân Ô Mã Nhi kéo vào. Ðại quân của hai vua đóng quân ở Hiệp Môn (Kinh Môn, Hải Dương) trong tư thế sẳn sàng lâm trận cho chiến trường quyết liệt sắp xảy ra.
Đại Cương Lịch Sử Việt Nam tập I ghi rất chi tiết sông về sông Bạch Đằng: «Sông Bạch Đằng hiểm yếu mà hùng vĩ chảy giữa hai huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng 40 km, cách Vạn Kiếp nơi đóng quân của Thoát Hoan hơn 30 km, theo ngược dòng sông Kinh Thầy.
Nước Bạch Đằng theo thủy triều lên xuống, khi triều lên cao, mặt sông ở vùng Tràng Kênh trải rộng hơn 1200 mét. Dòng sông đã rộng lại sâu. Khi triều nước xuống rặc, nơi sâu nhất đến 16 mét, trung bình giữa dòng cũng sâu từ 8 đến 11 mét. Theo sông Đá Bạc chảy xuống đến đầu bắc dãy núi Tràng Kênh, sông Bạch Đằng phình to hẳn ra. Đó là nơi tập trung dòng nước của các sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Gia Đước, sông Thải, sông Giá bên hữu ngạn đổ về.
Sông Chanh, sông Kênh (cửa sông này ngày nay đã bị lấp) và sông Rút (còn gọi là sông Nam) là chi lưu bên tả ngạn Bạch Đằng chia nước chảy ra vịnh Hạ Long. Một khúc sông không dài quá 5 km mà có năm dòng nước đổ về và có ba nhánh sông phụ đưa nước ra biển. Đó là hình thức của thượng lưu Bạch Đằng.
Ở lòng sông Bạch Đằng từ bên hữu ngạn (thuộc xã Phục Lễ, Thủy Nguyên) có một dải còng đá ngầm chạy qua vào quãng giữa sông Chanh và sông Rút, nhân dân địa phương gọi đó là Ghềnh Cốc. Ghềnh Cốc có năm cồn đá chắn ngang ba phần tư sông Bạch Đằng. Khi triều xuống thấp nhất, nơi cạn là 0,40 mét, nơi sâu là 3,70 mét, thuyền nhẹ đi trên sông có thể thấy được cồn đá. Ghềnh Cốc là dải đá gốc của chân núi Tràng Kênh kéo dài ra. Khi chuẩn bị chiến trường, Ghềnh Cốc đã khiến Trần Quốc Tuấn chú ý. Ông đã lợi dụng địa hình thiên nhiên này sử dụng nó như là chiến lũy làm chỗ dựa cho thuyền ta lao nhanh ra ngay sông chặn địch.
Đặc điểm địa hình nổi bật của vùng thượng lưu Bạch Đằng là sông núi tiếp liệu nhau. Từng ngọn núi nhấp nhô ở vùng núi đá Tràng Kênh ở phía đông huyện Thủy Nguyên kéo nhau chạy sát tới bờ sông. Ở đây có nhiều thung lũng nhỏ nằm gọn giữa những ngọn núi đá vôi liền với lạch nước ra tận bờ sông mà dân địa phương gọi là áng núi như Áng Hồng, Áng Lác, Áng Chậu, Áng Táu …
Các sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Thái, sông Giá, sông Gia Đước bên hữu ngạn Bạch Đằng chạy theo các áng, len qua các dãy núi, là đường giao thông thuận lợi cho quân thủy. Những ngọn núi chắn tầm mắt địch. Áng núi và lạch sông là nơi có thể tập trung quân thủy bộ với khối lượng lớn, giấu quân kín đáo, xuất kích bí mật và dễ dàng, từng đội thuyền ra vào nhẹ nhàng, nhanh chóng. Có thể nói đây là trận địa mai phục lý tưởng của quân ta. Thủy quân địch rút lui theo đường Bạch Đằng buộc phải qua đây. Dù có đề phòng cẩn thận, chuẩn bị sẳng sàng, binh thuyền của chúng cũng tự nhiên phải dàn hàng qua khúc sông hiểm yếu này. Đối với ta, thủy binh và bộ binh mai phục từ các nhánh sông đổ ra phối hợp chiến đấu dễ dàng, thuận lợi.
Để bảo đảm cho thế trận bao vây địch thật hoàn chỉnh, ngoài việc dựa vào địa thế thiên nhiên hiểm yếu và lợi dụng Ghềnh Cốc như một chướng ngại thiên nhiên, Trần Quốc Tuấn còn xây dựng ở các cửa sông những trận địa cọc vững vàng, quy mô lớn. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: trước đây Vương đã đóng cọc ở sông Bạch Đằng phủ cỏ lên trên.
Lòng sông Bạch Đằng rất rộng và sâu, khó có thể dựng được những hàng cọc chắn ngang sông. Ở Ghềnh Cốc cạn hơn nhiều nhưng là đá gốc kéo dài từ Tràng Kênh nên cũng không thế nào cắm cọc được. Mặt khác nước triều lên xuống mạnh, độ chênh lệch khá lớn. Lưu tốc nước là 0,26 mét. Những số liệu trên đây cũng cho ta thấy một ý niệm về sông nước Bạch Đằng đời Trần.
Ba cửa sông Chanh, sông Kênh, sông Rút cạnh nhau dẫn thuyền từ Bạch Đằng xuôi biển. Những tài liệu gần đây đã xác định trận địa cọc của Trần Quốc Tuấn được cắm ngang qua các cửa sông này. Đó là những bãi cửa sông Chanh cửa sông Kênh.
Bãi cọc chính nằm ở cửa sông Chanh sát liền với sông Bạch Đằng ngày nay ta quen gọi là bãi cọc Yên Giang. Hàng cọc đóng ngang qua sông, theo hướng nam bắc. Hầu hết các cọc đều bằng kim hoặc gỗ cứng to và vững chắc có đường kính từ 20 cm đến 30 cm và dài từ 1,50 cm trở lên, phổ biến là 2 mét, những cọc trung bình từ 0,9 mét đến 1,2 mét. Phần cọc phía dưới được đẽo vát nhọn với độ dài 0,80 mét đến 1 mét. Đa số được cắm thẳng đứng, đóng sâu xuống đất đáy từ 1 mét đến 1,50 mét, giữa các hàng cọc có nhiều khúc gỗ nằm ngang, có lẽ là khúc gỗ cài để chận thuyền giặc».
Ngày 8 tháng 4 năm 1288, một đội thuyền của địch đi trước dò đường tiến theo sông Giá. Đến Trúc Động (Thụy Nguyên, Hải Phòng), đội thuyền này bị quân ta chận đánh phải rút lui. Nhiệm vụ của trận này là bịt đường sông Giá để bảo đảm bí mật cho trận địa mai phục và buộc toàn bộ đoàn thuyền của quân Mông-cổ phải hành quân theo sông Đá Bạc vào sông Bạch Đằng, nghĩa là phải dẫn quân vào trận địa do ta chọn sẵn. Gần đây phát giác được bãi cọc ở gần cửa sông Chanh và một số cọc bên tả ngạn sông Bạch Đằng phía dưới sông Chanh. Một số nhà nghiên cứu cho đó là di tích của bãi cọc trong trận Bạch Đằng nằm 1288. Niên đại của bãi cọc đó đang được nghiên cứu để xác minh thêm.
Theo Toàn Thư «Sông Bạch Đằng từ sông Lục Đầu, tỉnh Bắc Ninh chia dòng chảy vào Hải Dương. Một nghành theo sông Mỹ, một nghành theo sông Cốc…». Địa Lý Chí của Nguyễn Trãi chép: «Sông Bạch Đằng biệt hiệu là sông Vân Cừ, rộng hơn hai dậm. Muôn sông đứng sắp, các nước giao dòng, sóng nổi lên trời! Cây tre rợp bãi! Thật là nơi hiểm yếu của đường biển» (bản dịch của Nhượng Tống).
Theo nghiên cứu địa lý thì sông Chanh, sông Kênh, sông Rút xưa kia là lạch thoát của nước sông Bạch Đằng. Hiện nay vùng này phù sa đang bồi thêm. Vì thế nên sông Kênh chảy qua vùng Đồng Cốc (thuộc Yên Hưng) đang bị lấp cạn, cửa sông hiện nay chỉ còn vết trũng sâu mà dân địa phương gọi là lũng Mắt Rồng sát bờ đê sông Bạch Đằng (Đại Cương Lịch Sử Việt Nam tập I trang 239).
Khi Ô Mã Nhi dẫn đoàn thuyền tiến vào sông Bạch Đằng nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra khiêu chiến, sau đó giả thua chạy vào sâu bên trong. Hắn trúng kế khích tướng nên thúc quân vận tải lương thực ra nghinh chiến, các tướng Phàn-Tham-Chính, Hoạch Phong cùng ra tiếp ứng. Khi thuyền giặc đã vào sâu bên trong sông Bạch Đằng, nghĩa là thuyền của chúng đang đi trên những cọc gỗ mà quân ta cắm sẳn dưới lòng sông. Tướng quân Nguyễn Khoái (người tỉnh Đông, lập được công lớn trong những trận phá quân Nguyên sau này được phong tưóc Hầu và được ăn lộc một làng Khoái Lộ, ở phủ Khoái Châu bây giờ) dẫn các quân lính Thánh Dực ra khiêu chiến và nhử giặc Mông-cổ tiến sâu vào khúc sông đã đóng cọc, trong thời gian đó quân ta đợi cho thủy triều xuống mới trở đầu thuyền lại và tấn công thẳng vào đội hình của quân giặc.
Thủy quân Đại Việt từ Hải Đông-Vân Trà từ các phía Điền Công, Gia Đước, sông Thái, sông Giá nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng. Với hàng trăm chiến thuyền cùng quân lính các lộ khác căng tay chèo thật nhanh ra sông và dựa vào Ghềnh Cốc lập thành một dãy thuyền chặn đầu thuyền địch trong thế chấn chiến hạm ở ngang sông. Trong lúc thủy chiến dữ dội thì đoàn chiến thuyền của hai vua đóng ở vùng Hiệp Sơn (Kinh Môn, Hải Dương). Cũng có nơi nói Đức Hoàng đế Trần đóng quân ở Hiệp Môn (Kinh Môn, Hải Dương) đã xông ra tấn công giặc theo kế hoạch đã dự trù trước. Trước đó, đạo quân của hai vua chỉ huy đóng ở vùng Hiệp Môn bên bờ sông Giáp (sông kinh Thần, vùng Kinh Môn, Hải Dương) làm nhiệm vụ đánh cầm chừng và cản bước tiến của giặc. Đạo quân của hai vua tấn công từ phía sau của quân giặc khiến chúng càng bị lúng túng và tổn thất rất nặng. Bị tấn công tới tấp trên sông, một số cánh quân khác của địch bỏ thuyền chạy lên bờ sông bên trái của Yên Hưng để tìm đường trốn thoát. Nhưng vừa lên tới bờ chúng lại rơi vào ổ phục kích của quân ta, và một trận đánh ác liệt đã xảy ra. Trời về chiều khi chiến trường sắp kết thúc, cánh quân của Thoát Hoan đóng gần đó vẫn án binh bất động không tới tiếp ứng, hắn đã bỏ rơi Ô Mã Nhi cùng với thuộc hạ chống đỡ thụ động trước sự tấn công của quân ta và đạo quân này hoàn toàn bị quân ta tiêu diệt. Theo Nguyên sử, truyện của Phàn Tiếp chép rằng kịch chiến xảy ra từ giờ mão đến giờ dần, tức là từ sáng ròng rã kéo dài đến chiều.
Đặc điểm của sông Bạch Đằng là khi nước lớn rất nhanh mà nước rút cũng khá lẹ. Cho nên khi nước rút quá lẹ như thế thuyền của giặc Nguyên bị cọc gỗ đâm trúng, lật đỗ cả, quân giặc chết đuối vô số kể, máu đã chan hòa cả dòng sông. Quân ta tịch thu được hơn 400 chiến thuyền, Tước Nội Linh Tự Đỗ Hành bắt sống được Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Ngọc (Nhiều tài liệu khác ghi là Tích Lê Cơ hay Tích Lê Cơ Đại Vương. Viên tướng Mông-cổ này tên là Tích Lê Cơ, còn Vương là tước hiệu. Chữ Ngọc? chép lầm từ chữ chữ Vương? Chú thích Toàn Thư) và đem dâng cho Thượng hoàng Thánh Tông.
An-Nam Chí-Lược (sử của giặc Nguyên do phản thần triều đình nhà Trần ghi lại) có ghi các tướng Nguyên là Phàn Tiếp và Hoạch Phong đến tiếp ứng cho Ô Mã Nhi, nhưng không ghi rõ sống chết. Tuy nhiên, trong Nguyên Sử có chép về Phàn Tiếp như sau (tờ 10 b 2-3): «Tiếp cùng Ô Mã Nhi đem quân thủy trở về, bị giặc đón chận. Triều sông Bạch Đằng xuống, thuyền Tiếp mắc cạn. Thuyền giặc dồn về nhiều, tên bắn như mưa. tiếp hết sức đánh từ giờ mão đến giờ dậu. Tiếp bị súng bắn, rớt xuống nước. Giặc móc lên bắt, dùng thuốc độc giết».
Chiến thắng Bạch Đằng có một ý nghĩa quan trọng đó là quân dân Đại Việt đánh tan toàn bộ đoàn quân triệt thoái của giặc triệt thoái bằng đường thủy do Ô Mã Nhi đích thân chỉ huy. Từ bấy lâu nay mỗi khi nhắc tới chiến thắng này chúng ta thường đề cập tới Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là người đã có công tạo nên nó. Các quyển sử xưa như Cương Mục, Toàn Thơ thường nhắc tới người lãnh đạo tối cao của quân dân nhà Trần vào lúc đó là Đức Hoàng Đế Trần Nhân Tông (tức Hoàng đế Kim Phật) đã lãnh đạo thành công hai lần kháng Nguyên 1285 và 1288. Khi đề cập tới Hưng Đạo Vương về trận Bạch Đằng chúng ta cần đặc biệt nhắc tới Đức Hoàng đế Trần Nhân Tông. Đức Hoàng đế Trần Nhân Tông vừa là bậc lãnh đạo chính trị kiêm chỉ huy tối cao về quân sự (mặc dù Hưng Đạo Vương là Tiết chế được xem như là tổng tham mưu trưởng, nhưng Đức Hoàng đế Trần lại là vị tổng tư lịnh tối cao), và là người đã đề ra mọi đối sách từ ngoại giao đến quân sự nội trị với kết quả là Đại Việt đã thành công đánh bại giặc Nguyên qua hai cuộc xâm lăng của chúng. Khi quân Mông-cổ tràn qua xâm lăng đất nước chúng ta lần thứ hai, lần thứ ba, nếu không có trí tuệ sáng suốt, tài ngoại giao khéo léo, nghệ thuật lãnh đạo cuộc chiến một cách đầy mưu lược, cũng như lòng can đảm để đương đầu trước mọi tình hình và nhân từ trong việc đối xử với người trong gia tộc, dân chúng, binh lính cho đến kẻ thù thì Đức Hoàng Đế Kim Phật làm sao có thể hội tụ được sức mạnh của toàn dân tộc để chống lại quân thù. Ngài là bậc Thánh Quân có một không hai trong lịch sử dân tộc nên đã được các danh tướng như Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Tảng v.v… hết lòng phù trợ. Đó là những sự thực lịch sử mà mỗi người trong chúng ta cần ghi khắc và lấy tấm gương sáng ngời của Ngài truyền lại cho thế hệ con cháu chúng ta sau này.
Quan điểm của giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát (tức Thượng tọa Thích Trí Siêu) về trận chiến ở sông Bạch Đằng được ghi như sau trong Toàn Tập Trần Nhân Tông-Lê Mạnh Thát các trang 148-149:
«Phàn Tiếp truyện, như vậy, ghi nhận trận đánh xảy ra từ giờ Mão đến giờ Dậu, tức từ sáng tới chiều thì chấm dứt. Thuyền của Đại Việt tập trung rất đông, “tên bắn như mưa”. Và việc Phàn Tiếp, khi bị thương nhảy xuống nước, quân ta đã dùng câu liêm móc lên, bắt được, rồi sau đó hơn 10 ngày mới giết đi, vì ngày 17 khi vua Trần Nhân Tông hiến tiệp ở Long Hưng, thì Phàn Tiếp còn có mặt cùng với đám Tích Lệ Cơ (Ơirôgi), Ô Mã Nhi, Đường Ngột Đãi, Sầm Đoạn, Mai Thế Anh, Điền nguyên soái.v.v.
Bãi cọc đã treo thuyền cả đám tướng tá giặc vào ngày mồng 8 tháng 3 năm Mậu Tý (1288) ấy, ngày nay chưa xác định được rõ ràng. Tuy nhiên, ta biết việc đóng cọc trên sông Bạch Đằng phải xảy ra trong thời gian chưa đầy 3 tuần kể từ khi Ô Mã Nhi tấn công trại Yên Hưng vào ngày 19 tháng 2 và đến ngày mồng 8 tháng 3 quân Ô Mã Nhi đã có mặt ở sông Bạch Đằng. Trong tình hình chiến tranh thời bấy giờ, việc đưa một đoàn thủy quân địch vào đúng ổ phục kích do ta thiết kế quả là một thành công rực rỡ của khoa học và nghệ thuật chỉ đạo quân sự của bộ chỉ huy tối cao của đất nước lúc ấy, mà đứng đầu là vua Trần Nhân Tông.
Sự có mặt của vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng cũng như Trần Hưng Đạo và Nguyễn Khoái chứng tỏ trận đánh này trên hết nếu không do chính vua Trần Nhân Tông chỉ đạo và vạch kế hoạch, thì cũng phải do chính nhà vua phê chuẩn và đồng ý thực hiện. Thực tế, chỉ việc vua Trần Nhân Tông hiện diện tại mặt trận này biểu thị một quyết tâm cao của người lãnh đạo đất nước phải thực hiện cho được chủ trương và kế hoạch đã đề ra, coi đây là một nhiệm vụ xung yếu phải hoàn thành để đạt mục đích của cuộc chiến tranh. Sự kiện tiêu diệt toàn bộ đội thủy quân do Ô Mã Nhi chỉ huy ngày nay thường được nhiều người nghiên cứu gắn vào cho tên tuổi Trần Hưng Đạo, mà quên đi sự hiện diện của vua Trần Nhân Tông tại trận đánh quyết chiến tiêu diệt này. Trong mọi cuộc chiến tranh, lãnh đạo chính trị bao giờ cũng là thống soái. Chỉ có sự lãnh đạo chính trị mới tập hợp hết được mọi lực lượng của dân tộc cho cuộc chiến tranh. Không có cuộc tập hợp này thì dù có tướng tài tới bao nhiêu, dù có kế hoạch tác chiến tốt tới đâu, và dù nhân dân yêu nước và quyết tâm chiến đấu cao tới mức nào đi nữa, thì cuộc chiến tranh vẫn thất bại» (*)
Lịch Sử Việt Nam tập I ghi ở trang 212 một chi tiết nhỏ về trận Bạch Đằng: «…Bà hàng nước ở bến đò Rừng (Bạch Đằng) đã chỉ dẫn cho Trần Quốc Tuấn biết con nước sông Bạch Đằng để bố trí trận địa mai phục». Đây là một chi tiết khá đặc biệt. Một bà hàng nước mà lại có cái nhìn của một vị tướng lãnh cầm quân đánh giặc, nên đã chỉ dẫn cho Hưng Đạo Vương cách thức bày binh bố trận để chận đánh quân thù. Có một điều đáng tiếc là chúng ta không biết gì về danh tánh cũng như gia phả của bà. Nhưng một điều có thể nói rằng, bà hàng nước ở bến đò Rừng bên bờ sông Bạch Đằng của năm nào xứng đáng được ghi vào danh sách của những người có công đánh đuổi giặc Nguyên (**).
Trương Hán Siêu đã ca ngợi chiến thắng ở sông Bạch Ðằng qua
Bài Phú Sông Bạch Ðằng
Khách có kẻ: Chèo bể bơi trăng, buồm mây giang, gió. Sớm ngọn Tương kia, chiều hang Vũ nọ. Vùng vẫy Giang, Hồ: tiêu dao Ngô, Sở. Ði cho biết đây, đi cho biết đó. Chằm Vân-mộng chứa ở trong kho tư-tưởng, đã biết bao nhiêu, mà cái trí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở!
Mới học thói Tử-trương: bốn bể ngao du. Qua cửa Ðại-than sang bến Ðông-triều, đến sông Bạch-Ðằng, đứng đỉnh phiến-chu. Trắng xóa sông kềnh muôn dặm, xanh rì dặng ác một màu. Nước trời lộn sắc, phong cảnh vừa thu. Ngàn lau quạnh cõi, bến lách đìu-hiu. Giáo gậy đầu sông, cốt khô đầy gò. Ngậm ngùi đứng lắng ngắm cuộc sống phù du. Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá, mà đây dấu vết hãy còn lưu.
Kia kìa, bến sông, phu lão người đâu. Lượng trong bụng ta, chứng có sở cầu. Hoặc gậy trống trước, hoặc thuyền bơi sau. Vái tạ mà thưa rằng: Đây là chỗ chiến địa vua Trần bắt giặc Nguyên, và là nơi cố-châu của vua Ngô phá quân Lưu đây.
Đương khi: muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ. Gươm tuốt sáng lòe, cờ bay đỏ khí! Tướng Bắc quân Nam đôi bên đối lũy. Đã nổi gió mà bay mây, lại kinh thiên mà động địa. Kìa quân Nam-Hán nó mưu sâu, nọ Hồ-Nguyên có sức khỏe. Nó bảo rằng: phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng có dễ.
May sao: Trời giúp quân ta, mây tan trận nó, khác nào như quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích-bích khi xưa, giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp-phù thuở nọ. Ấy cái nhục tày trời của họ, há những một thời, mà cái công tái tạo của ta lưu danh thiên cổ.
Tuy vậy, từ thuở có trời có đất, vẫn có giang-san. Trời đặt ra nơi hiểm-trở, người tính lấy cuộc tồn-an. Hội này bằng hội Mạnh-tân, như vương-sự họ Lã; trận nào bằng trận Dung-thủy, như quốc sĩ họ Hàn. Kìa trận Bạch-Đằng này mà đại-thắng, bởi chưng Đại-vương coi thế giặc nhàn. Tiếng thơm còn mãi, bia miệng hao mòn. Nhớ ai sa giọt lệ, hổ mình với nước non!
Rồi vừa đi vừa hát rằng:
Sông Đằng một dải dài ghê!
Cuồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
Trời Nam sinh kẻ anh hùng.
Tăm kềnh yên lặng, non sông vững-vàng
Khách vừa đi vừa hát rằng:
Vua Trần hai vị Thánh-quân.
Sông kia còn dấu tẩy trần giáp-binh
Nghìn xưa gẫm cuộc thăng-bình.
Tài đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.
Nguyên văn chữ Nho của Trương Hán Siêu, Đông Châu dịch.
Khảo về địa-dư và lịch-sử tỉnh Quảng-Yên (Nam-phong tạp-chí, tập XIV số 8, tháng 6-1924).
Thơ của Phan Lập Trai thì ghi
Biển Châu hiển phát Chương Dương độ
Dãn kiến sa âu phù chân chử
Dục mịch Trần Nguyên cổ chiến trường
Tưởng tại trung lưu soan khích xứ.
Dịch nghĩa:
Buổi sáng cưỡi thuyền nhỏ ra bến Chương Dương,
Chỉ trông thấy đàn chim âu bơi trên sóng nước.
Muốn tìm cảnh chiến trường xưa giữa quân Trần và quân Mông-cổ
Tưởng tượng ở chốn nước xoáy giữa dòng.
(Việt Nam Văn Học Sử Yếu tập I, giáo sư Dương Quảng Hàm, trang 152)
Ở đền Kiếp Bạc còn ghi lại câu đối bằng quốc âm để tưởng nhớ các bậc anh hùng dân tộc như sau:
Uy tan giặc Bắc, trận Sát Thát quân reo, một tay chống lại sơn hà: quét bụi Tống, rửa thù Nguyên, nòi giống vẻ vang hồn lịch sử ;
Ơn khắp miền Đông, đền Đại Vương quốc tế, mảnh đã in còn sự nghiệp: tiếng sóng Bạch Đằng, vầng mây kiếp, khói hương phảng phất bóng anh hùng.
Năm 1984 tại viện khoa học Hoàng Gia Anh Quốc, Hưng đạo Vương là vị tướng duy nhất được đa số bầu chọn làm một trong mười vị tướng lãnh giỏi nhất nhân loại thời trung cổ. Ðây là một sự hãnh diện lớn lao cho dân tộc chúng ta. Tuy nhiên nếu có dịp chúng ta cần nhắc thêm cho viện khoa học này biết thêm về Hoàng đế Kim Phật tức Hoàng đế Trần Nhân Tông là một nhân vật lãnh đạo lỗi lạc của thời nhà Trần trong 2 lần đại phá quân Nguyên (1285-1288).
Dưới đây là phần trích trang nhà britannica.com có ghi về Hưng Ðạo Vương.
[www.britannica.com]
Tran Hung Dao
born 1229?
died 1300, Van Kiep, Vietnam
original name Tran Quoc Tuan, also called Hung Dao Vuong figure of almost legendary proportions in Vietnamese history, a brilliant military strategist who defeated two Mongol invasions and became a cultural hero among modern Vietnamese.
By the early 1280s the Vietnamese kingdom faced a growing threat from the Mongols under Kublai Khan , who had conquered China in the previous decade. When he was appointed…
Phụ đính : Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản in Nội Các Quan Bản, Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) do Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên v.v…đồng biên soạn; nhà XBKHXH xuất bản 1993 tại Hà Nội; nhóm bạn Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy,Tuyết Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung chuyển sang ấn bản điện tử năm 2001, ở trang 198, phần Bản Kỷ quyển V ghi: «Trước đó, Vương đã đóng cọc ở sông Bạch Đằng, phủ cỏ lên trên. Hôm ấy, nhân lúc nước triều lên, Vương cho quân khiêu chiến rồi giả cách thua chạy, bọn giặc đuổi theo, quân ta cố sức đánh lại. Nước triều xuống, thuyền giặc vướng cọc hết. Nguyễn Khoái chỉ huy quân Thánh Dực dũng nghĩa đánh nhau với giặc, bắt sống Bình Chương, Áo Lỗ Xích (Toàn thư ghi chú là Áo Lỗ Xích đã theo Thoát Hoan chạy trốn.). Hai vua đem quân tiếp đánh…».
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn (1856-1881), dịch giả Viện Sử Học Hà Nội (1957-1960), nhà xuất bản Giáo Dục Hà Nội xuất bản 1998, nhóm bạn Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy,Tuyết Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung chuyển sang ấn bản điện tử năm 2001, phần Chính Biên, quyển VIII trang 230 ghi: «…Khi bọn Ô Mã Nhi về đến Bạch Đằng, Quốc Tuấn nhân lúc nước thủy trào lên, cho quân ra khiêu chiến, giả vờ thua chạy, bên Nguyên đem cả quân đuổi theo. Lúc ấy nước thủy trào xuống rất mau. Tướng Nguyễn Khoái thống lãnh vệ quân Thánh Dực tung quân ra đánh quật lại, phá tan được quân Nguyên. Gặp lúc ấy đại quân của nhà vua kế tiếp tiến đến…».
Lịch Sử Việt Nam tập 1 do nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 1985 ghi về chiến trường sông Bạch Đằng như sau: «Theo kế hoạch Trần Quốc Tuấn, quân dân ta, đẵn gỗ lim, gỗ tàu trên rừng về, đẽo nhọn cắm xuống tạo thành một bãi chướng ngại vật lớn. Chiến thuật của Ngô Quyền từ thủa phá quân Nam Hán lại một lần nữa được vận dụng sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống Nguyên. Ghềnh Cốc là một dải đá ngầm chạy ngang qua sông Bạch Đằng phía dưới của sông Chanh, có thể được lợi dụng như một chướng ngại vật thiên nhiên để phối hợp với bãi cọc, ngăn chận chiến thuyền địch khi nước triều xuống. Thủy quân ta mai phục trong các nhánh sông, vũng sông, trừ sông Đá Bạc được mở rộng cửa cho quân thù tiến vào đất chết. Bộ binh tận dụng địa hình dấu quân trong núi đá Tràng Kênh và rừng rậm bên tả ngạn. Đại quân do vua Trần thống lĩnh cũng sẳn sàng tiếp ứng cho trận huyết chiến chiến lược này».
Những Trang Sử Vẻ Vang do Nguyễn Lân biên thuật, nhà XBKHXH Hà Nội, xuất bản 1998 ở trang 71 ghi: «Khi Ô Mã Nhi đem quân đến Bạch Đằng giang, Nguyễn Khoái dẫn binh thuyền ra khiêu chiến, dử quân Nguyên lên khúc sông đã đóng cọc, rồi đợi khi thủy triều xuống mới quay lại đánh thực hăng. Bấy giờ đại binh của Hưng Đạo Vương tiếp đến…».
Việt Nam Sử Lược của Lệ thần Trần Trọng Kim ở trang 62 (chuyển sang ấn bản điện tử do Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung 2001) do Trung Tâm Học Liệu Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa xuất bản ghi một đoạn ngắn về diễn tiến trận Bạch Ðằng: «Những chiến thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp theo giòng sông Bạch Ðằng, bổng chốc thấy tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền đến khiêu chiến, Ô Mã Nhi tức giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn Khoái liền quay thuyền chạy…Nguyễn Khoái nhử quân đi khỏi xa chỗ đóng cọc, rồi mới quay thuyền đánh vật lại, hai bên đang đánh hăng thì đại quân của Hưng Ðạo Vương tiếp đến».
Việt Sử Toàn Thư của sử gia quân đội Phạm Văn Sơn ở trang 199 (chuyển sang ấn bản điện tử do Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung 2001) ghi: «Nguyễn Khoái nhử giặc đi khỏi chỗ đóng cọc một quảng xa, rồi quay thuyền trở lại đánh kịch liệt, quân của Hưng Ðạo Vương tiếp đến ».
Ở đây chúng ta thấy Toàn Thư, Cương Mục và Lịch Sử Việt Nam tập 1 ghi chính hai vua (tức thượng hoàng Thánh Tông và hoàng đế Kim Phật) thống lãnh đại quân nhà Trần tiến đánh quân Mông-cổ cùng với tướng quân Nguyễn Khoái. Nhưng Những Trang Sử Vẻ Vang, Việt Sử Toàn Thư, Việt Nam Sử Lược thì lại ghi là đại binh của Hưng Đạo Vương tiếp chiến(hay tiếp đến) cùng với tướng quân Nguyễn Khoái tấn công quân Mông-cổ. Chúng tôi ghi ra đây để cho những người yêu thích nghiên cứu lịch sử nước nhà có dịp tham khảo.
(*) Tham khảo Toàn Tập Trần Nhân Tông, Giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam xuất bản 2000 (www.thuvienhoasen.org/suphatgiao).
(**) Trích Đức Hoàng đế Kim Phật biên khảo của Trúc Lâm Lê An Bình (chưa xuất bản).
Trúc Lâm Lê An Bình