Tây Sơn thuật lược
Vi ảnh số 5/VAH4 của Viện Khảo cổ Saigon. ( nguyên bản của Société asiatique Paris số HM 2178 Legs H. Maspéro ) Bản dịch của TẠ QUANG PHÁT Chuyên viên Hán học, Viện Khảo cổ Saigon. Bài TÂY SƠN THUẬT LƯỢC này bằng chữ Hán, tác giả không biết là ai, có đăng cả trong Nam ...
Vi ảnh số 5/VAH4 của Viện Khảo cổ Saigon.
( nguyên bản của Société asiatique Paris số HM 2178 Legs H. Maspéro )
Bản dịch của TẠ QUANG PHÁT
Chuyên viên Hán học, Viện Khảo cổ Saigon.
Bài TÂY SƠN THUẬT LƯỢC này bằng chữ Hán, tác giả không biết là ai, có đăng cả trong Nam Phong số 148, phần chữ Hán, trang 27-39. Tuy về sử liệu có nhiều điểm sai, nhưng lại có mấy truyện nho, có thể gọi là giai thoại về thời Tây Sơn, về Nguyễn Huệ rất ngộ nghĩnh, chưa thấy sử sách nào nói đến. Vì vậy chúng tôi xin đăng đây bản dịch của ông Tạ Quang Phát. Về những điểm sai với sử, chúng tôi xin chú giải ở dưới. Một điều quan trọng hơn nữa là tài liệu này chắc chắn được viết dưới triều Nguyễn nên cách lập luận và dùng chữ bênh vực, tuyên dương vua Gia Long rất rõ.
Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc, tổ tiên là người huyện Nghi xuân, tỉnh Nghệ an. Niên hiệu Dương Ðức triều Lê chiếm giữ được bảy huyện ( của Chiêm Thành ? ) bèn dời dân vào đấy. Từ đó mới sinh ra Nhạc. Nhạc xưa vốn làm Biện lại ở tuần Vân Ðồn, vì thiếu tiền của quan mới trốn làm trộm cướp, thủ hạ có trên trăm người, cướp phá châu ấp, tướng quân trấn thủ không đàn áp được. Nhạc tự xưng là Thiên Vương, tiếm xưng niên hiệu là Thái Ðức, lén chiếm giữ thành Qui Nhơn.
Năm Ðinh Dậu (Cảnh Hưng thứ 38), Nguyễn Văn Nhạc với em là Huệ cử binh đánh kinh đô Phú Xuân (1). Vua Hiếu Ðịnh đi biển vào thành Gia Ðịnh tuần thú (2). Hoàng đế triều ta (Nguyễn) cùng ở chung với Nhạc. Tháng 9 năm ấy Nguyễn Văn Nhạc xúc phạm đến vua, và vua Hiếu Ðịnh băng (3). Hoàng đế Nguyễn Ánh triều ta bèn sang Xiêm La mà ở (4). Nhạc có những vùng từ Ải Vân trở về Nam.Năm Nhâm Dần, Nhạc thu nạp bầy tôi của chúa Trịnh đã bỏ trốn là Nguyễn Hữu Chỉnh, lúc ấy Nhạc vốn có chí thôn tính đất Thuận hóa (5), nhưng không có ai mưu tính công việc ấy, đến lúc ấy được Chỉnh chạy vào, Nhạc mừng lắm bèn thu dụng.
Năm Bính Ngọ (Cảnh Hưng thứ 47) tháng 3, Nguyễn Hữu Chỉnh trình bày với Nhạc cơ hội thích nghi để lấy Thuận hoá, xin phát binh đánh lấy Phú xuân, Nhạc nghe theo.
Tháng 4, Nhạc sai em là Huệ, tiết chế các quân thủy và bộ, rể là Vũ Văn Nhậm làm Tả quân Ðô đốc, Chỉnh là Hữu quân, nhắm kinh Phú xuân tiến phát.
Tháng 5, quân của Nhạc đánh và lấy được Phú xuân. Chỉnh nhân thế khuyên Huệ thừa thắng lấy kinh đô Thăng Long.
Tháng 6, Huệ tiến phạm kinh đô, chúa Trịnh Ðoan Nam vương là Tùng đánh thua mà chết.
Tháng 7, Huệ giả vờ tôn hoàng đế nhà Lê ở điện Kính Thiên và làm lễ triều yết. Trong tháng ấy vua Hiến tông Vĩnh Hoàng đế băng.
Tháng 8, Nguyễn Văn Nhạc và Huệ trở về Nam, Chỉnh chạy theo Nhạc đến biển đông, Nhạc không cho Chỉnh trở về Nam, mới cho lưu lại ở Nghệ an. Nhạc và Huệ từ Thăng Long đến, thì Huệ ở lại thành Phú xuân, tiếm xưng là Bắc Bình vương. Cháu đầu của vua Lê là Duy Kỳ lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Chiêu Thống.
Năm Ðinh Vị (năm đầu Chiêu Thống), Nguyễn Hữu Chỉnh lấy binh Nghệ an đánh đuổi Án Ðô vương Trịnh Bồng.
Vua Lê thì dùng Nguyễn Hữu Chỉnh coi giúp việc nước, phong tước cho Chỉnh làm Bằng Quận công. Mùa đông năm ấy vua Lê sai Ngô Nho (người ở Tri Chỉ), Trần Công Xán (người ở Yên Vĩ, cũng gọi là Lượng) đem lễ vật địa phương cùng quốc thư cho Huệ, nói rằng Nam và Bắc mỗi bên đều giữ lấy cương thổ của mình, không đặng vượt khỏi bổn phận (6). Huệ giân lắm, truyền mật lệnh ném bọn Nho và Công Xán xuống biển, lại khiến Tiết chế Nhậm đốc suất bộ quân, Thái úy Ðiều đốc suất thủy quân, Ðô đốc Ðặng Giản làm tiên phong, nhắm kinh Thăng Long tiến phát.
Lúc ấy quân Ngụy qua Nghệ an, triều đình được thông báo, đầu tiên ở khúc sông quanh khe Vân sàng bày súng và chiến thuyền để chuẩn bị. Ðặng Giản giả vờ không dám tiến lên chỉ theo ven bờ biển ngày đêm giương cờ đánh trống. Quan triều đình thấy thế khinh dể. Ðặng Giản mới ra lịnh cho chặt cây ở rừng ven sông, ném xuống sông cho ngăn giòng nước mà xuống, lại sai những người lặn lội giỏi, thừa ban đêm theo những bè gỗ ấy qua sông, rình cho quân triều đình ngủ say, mới kéo hết thuyền về phía Bắc, trong đồn ngụy lại phát hiệu lịnh độ quân qua sông mà đánh giết, thuyền giặc lại nổ súng bắn vào quân triều đình. Quân triều đình tan vỡ mà chạy trốn.
Năm Mậu Thân ( Chiêu Thống năm thứ hai – Thái Ðức năm thứ 10 ), tháng giêng, quân Tây Sơn tiến phạm kinh thành Thăng Long. Vua Lê chạy đi Hải dương, quân Tây Sơn rượt theo, cha con Hữu Chỉnh đều bị bắt. Huệ cho Vũ Văm Nhậm trấn Thăng Long, đặng Giản trấn Thanh hóa ( Giản là người ở Lương xá, dòng dõi của Ðặng Nghĩa Huấn ).
Vua Lê sai Lê Quýnh, Trần Danh Án phò Hoàng thái hậu sang nhà Thanh bên Tàu để xin binh tiếp viện.
Mùa hạ, Huệ giết kẻ bầy tôi là Vũ Văn Nhậm, lúc ấy Nhậm tại trấn, có kẻ tố giác rằng Nhậm lộng quyền. Huệ mượn cớ là đi tuần đất Bắc, Nhậm ra lạy chào Huệ bèn bắt mà giết đi.
Huệ cho quan Ðại tư không Ngô Văn Sở, quan Nội hầu Lân trấn Thăng Long, Huệ từ Thăng Long trở về.
Mùa thu, tiến sĩ nhà Lê là Ngô Thì Nhậm (người ở Tả Thanh oai hiệu là Hy Doãn), Nguyễn Gia Phiền (người ở An Lũng), Phan Huy Ích (người ở Thu Hoạch), hương cống Ngô vi Quý (người ở Tả Thanh oai), Ðoàn Nguyên Tuấn (người ở Hải an) cùng đến Phú xuân yết kiến Huệ.
Huệ khiến Nhậm giữ tư lịnh (từ nay những thư trát gửi sang Thanh đều do Ngô Thì Nhậm viết ra) khiến Phiền và Ích làm Ðiện trung thị Ngự sử, khiến Quý và Tuấn sung Hàn lâm viện.
Ðoàn Nguyên Tuấn là con của Thúc, ở trong làng, gác nhà lên cao mà ở trong vườn hoa, gọi là Phong Nguyệt sào (ổ gió trăng) để ngâm vịnh ở đấy, tự gọi là Sào Ông, dường như cho mình là Sào Phủ vậy. Nay lại quên tình vườn cũ, lại cong gối mà qùy lạy ở triều đình của giặc, không gợi hứng với cỏ hoa, lại dựa thân vào Hàn lâm viện, không còn nhàn rảnh nữa để ngâm vịnh với gió trăng, mà lại nhập vào bộ sứ thần. Tưởng lại tấm thân của Tuấn chưa từng được một ngày nào yên nghỉ ở cái ổ gió trăng của ông ta vậy, thì làm sao mà chẳng phụ lời hẹn ước trước kia. Ông Thụy Nham tặng thơ có câu rằng :
Hoa ổ phi cư phụ cố sào
Nghĩa là:
” Vườn hoa chẳng ở thì phụ ổ gió trăng “
Mùa đông tháng 11, Huệ tự xưng Hoàng đế, cải nguyên là Quang Trung. Tháng ấy vua Lê dùng quân Mãn Thanh lấy lại kinh thành Thăng Long. Năm Kỷ Dậu (Nguyễn Huệ niên hiệu Quang Trung thứ hai) tháng giêng, Huệ cả phá quân của Tôn Sĩ Nghị nhà Thanh ở Thăng Long. Vua Lê đi lên phương Bắc.
Huệ dùng mưu kế của Ngô Thì Nhậm, khiến Nhậm sang nhà Thanh hối lộ với các vương thân quan ở nội các của triều Thanh để ngăn việc tiếp viện và vội ra lịnh cho cả thiên hạ thần dân phải suy tôn Huệ làm vua. lấy lời suy tôn ấy, kèm vào tờ biểu để tâu lên vua nhà Thanh. Lúc ấy viên Tham tụng xưa là Bùi Huy Bích mượn cớ có bịnh mù mà không chịu ký tên vào, Huệ khiến ép bức buộc phải lăn dấu tay.
Huệ đặt ở các huyện quan tả hữu quản lý, lại dùng người giàu có và thế lực ở địa phương làm huyện trưởng khiền đốc xuất việc lương thực cho quân đội. Quan Tả quân thì coi về việc thưa kiện, quan Hữu quân thì coi về cơ đội binh lính. Vì thế mà cơ binh trong hạt được đóng đồn ngay trong hạt, mỗi tổng đều có sai một vệ binh đi tuần thám ban đêm, vì thế mà đạo tặc đều yên, cửa làng khỏi phải đóng. (7)
Nạn đói to, có người vợ dân phải bán mình để lấy tiền nuôi gia đình. Ðời kể lại rằng ở Hải dương có người vợ khá có nhan sắc, quen gần với đồn Tây Sơn, viên đồn trưởng thấy nàng mà đẹp lòng. Người vợ ấy bèn nói với chồng rằng : Nay vì nạn đói kém, trên thì có cha mẹ, dưới thì có đàn con, không có gì đủ để nuôi dưỡng, thiếp xin chàng nhận làm anh thiếp để đem thiếp bán cho viên đồn trưởng. Người chồng bằng lòng, bán vợ được một trăm quan mà mang về, còn vợ thì tự thắt cổ ở trong phòng. Viên đồn trưởng kinh hãi hỏi người chồng, người chồng mới thật tình thưa, viên đồn trưởng bảo đi chôn cất và cho luôn số tiền ấy không đòi lại.
Lời phê bình – Năm đói kém đã khiến người ta đến thế ru ! Tuy nhiên, người vợ thà chịu cho thân mình chết chớ không nhẫn cho gia đình mình chết. Ôi! Cũng gọi là người vợ hiền vậy. Sánh với kẻ có trách nhiệm lo việc trường tồn của quốc gia thì khác xa nhau một trời một vực. Mùa hạ Ngô Thì Nhậm từ nhà Thanh bên Tàu trở về.
Huệ phát thẻ tín bài là theo kế sách của Ngô Thì Nhậm. Tín bài ấy làm bằng gỗ ngoài có viền bông hoa, trong biên tên họ của người dân lãnh thẻ cùng với tuổi và quê quán, có ký tên đóng dấu, khiến dân lãnh tín bài ấy ở quan nha. Những kẻ ra đi buôn bán phải đeo cái thẻ tín bài ấy ở dưới cổ làm bằng, nếu không có tín bài thì là bọn tà đảng không đặng thông thành. Việc thi hành phép ấy thật do Ngô Thì Nhậm.
Lúc ấy nhân dân sợ oai dữ của Huệ, cùng đưa nhau ra lãnh tín bài, số dân đinh có hư tăng để nhà nước khống ngự, nhưng ở Tả Thanh oai lại khiến dân càng khốn khổ.
Mùa thu, sứ nhà Thanh là bọn Vương Phủ Ðường sang sách phong cho Huệ làm An Nam quốc vương. Huệ sai bọn Phan Huy Ích đi tiếp sứ nhà Thanh, Nguyễn Nhạc người con lên nối ngôi, ấy là Tiểu triều.
Mùa đông, Huệ sai Ngô Vi Quý sung vào sứ bộ sang tạ ơn nhà Thanh. Năm Canh Tuất (Nguyễn Huệ niên hiệu Quang Trung thứ ba), mùa xuân Huệ thăng Ngô Thời Dụng làm Bộ binh Thượng thư với tước là Tinh phái hầu. Mùa hạ, Huệ sai Ðiện trung Thị Ngự sử Phan Huy Ích, công bộ đãi chiếu Thượng thư Vũ Duy Tấn (đỗ hương cống triều Lê, người ở Mộ Trạch) và Hàn lâm học sĩ Ðoàn Nguyễn Tuấn cùng với Ðô đốc Nguyễn Hữu Chẩn sang nhà Thanh, lúc ấy vua Càn Long đã 80 tuổi. Lúc trước vua nhà Thanh có bảo Huệ phải thân hành sang chúc phúc, Huệ cố từ. Bọn Phan Huy Ích tâu với Huệ xin quyền biến, Huệ mới giả mạo sai Chẩn đi thay cho mình, và khiến bọn Phan Huy Ích đi theo để yết kiến.
Huệ sai Ngô Thì Nhậm quản lãnh việc đi sứ, rồi lại gia thêm bực Dực vận công thần, chuyển sang làm Thị trung Ðại Học sĩ giám tư kinh đô Thăng Long.
Mùa hạ, Ngô Vi Quý từ Yên kinh trở về. Lúc ấy những tiến sĩ của nhà Lê cũ thường thường lấy văn học mà vang tiếng trong đời. Ngô Thì Nhậm muốn khiến các vị ấy đều ô nhục như hắn, mới thưa với Huệ nhử các vị ấy bằng quan tước, vị nào không đến thì đem binh mà bắt. Bùi Huy Bích ở Thịch Liệt thác bịnh mà từ khước, Ngô Thì Nhậm lại lấy thơ gọi Trần Danh Án ở Bảo Triện. Trần Danh Án thơ dùng tiếng chó heo mà từ khước với Nhậm. Nhậm thẹn không dám gửi thơ đến nữa.
Lê Huy Trâm ở Bối Khê (làm Cần chính Ðại học sĩ của quốc triều lãnh chức Ðốc học các vùng Bắc ninh, Cao bằng và Lạng sơn), Phạm Qúy Thích ở Hoa Ðường (làm Thị trung Ðại học sĩ của quốc triều), Nguyễn Ðường ở Trung Cần (làm Ðốc học Sơn tây), Ngô Viện ở La Khê, Nguyễn Du ở Văn Xá, Nguyễn Diên Dương ở Bảo từ (làm Hiệp trấn ở Hưng hóa của quốc triều), Trần Bá Lãm ở Vân Canh (làm Ðốc học Bắc thành), Nguyễn Gia Cát ở Xuân cầu (Cát về sau ứng nghĩa quân yết kiến đức Cao hoàng Gia Long ở Gia định, làm Lễ bộ Tả Tham tri, phụng sứ thăng chức Thượng thư, về sau có xảy ra việc mà phạm tội), Bùi Dương Lịch ở An Toàn (làm Ðốc học ở Nghệ an), Lê Trọng Dĩnh ở Ða Sĩ đều thấy trước mà trốn đi. Quý Thích phú thi có câu:
Tái thiên giao thê lệ
Tỵ địa các trầm phù
Nghĩa là:
” Ðầy trời đều nước mắt nước mũi giao hòa
Ở đất thì đều trốn tránh kẻ chìm người nổi “
Huy Trâm thường tự thề rằng: “Nếu không chết thì lẩn trốn trong núi rừng, quyết không chịu làm bầy tôi cho Tây Sơn”. Viện và Trọng Dĩnh về sau đều bị bắt. Viện phải đem con ra làm tin mới được thả. Còn Dĩnh thì bất đắc dĩ phải ra làm Ðốc học ở Vị Hoàng vài tháng rồi lại thác bịnh mà từ khước. Những người còn lại như Hoàng Bình Chính ở Thỏ Hoàng, Nguyễn Nha ở Hữu Thanh Oai, Nguyễn Quí Ban ở Nhơn mục, đều nhận mạng lịnh của Tây Sơn làm quan vinh hiển. Chỉ có Nguyễn Ðăng Sở ở Hương Triện thì xin làm tri huyện. Sở vốn khi trước có cưới một người thiếp của vua Lê, việc gì cũng do nàng ấy sai khiến. Một ngày nọ, vợ của Sở đi ra hỏi ông thầy tướng: “Như tôi phải phối với bậc quan nào?” Ông thầy tướng nói rằng: “Bà phải làm vợ của quan tri huyện, nếu không thế thì bà sẽ chết yểu”. Vợ của Sở về nói lại với Sở, cho nên Sở cố làm cho được chức tri huyện ấy.
Huệ từ Thăng Long trở về.
Huệ cho quan Ðại tư mã Ngô Văn Sở, quan Nội hầu Lân cùng với người con thứ là Thùy trấn giữ Thăng Long, cho Tuyên trấn giữ Thanh hóa, cho Ðặng Giản làm Ðại Ðô đốc, coi giữ Ðại thiên hùng binh, sai làm thuốc súng. Tháng 7, bọn Chẩn đến Yên kinh, lúc ấy vua nhà Thanh đi tuần phương Bắc để tránh nóng, cấp báo cho Chẩn và các quan theo hầu phải đến hành cung ở Nhiệt hà yết kiến. Vua nhà Thanh ban cho thơ có câu rằng:
Y cổ vị văn lai tượng khuyết
Thăng triều vãng sự bỉ kim nhân
Nghĩa là:
Từ xưa chưa nghe nói vua nuớc phương Nam đến cửa tượng khuyết lạy chầu. Ðối với việc đã qua của triều Minh đã mất thì đáng khinh việc đòi cống người bằng vàng.
Huy Ích có phụng họa, vua nhà Thanh có phê thơ cũng cho là ổn thỏa, có ban thưởng rất hậu, đến khi về Tây Uyển ở Yên kinh, thì được vào yết kiến luôn mấy mươi ngày, đến ngày trở về nước, thì vua Thanh có tuyên triệu Huy Ích và Duy Tấn vào Quang Minh Chính đại điện, khiến đứng ở một bên mà xem ở thềm ngọc, rồi rót rượu cho uống, tin rằng đó là sứ bộ vinh hạnh bực nhất (do ở bài Tinh sà Kỷ hành).
Tháng chạp, bọn Chẩn từ Yên kinh trở về, đến cầu doanh Huy Ích nhân té mà bị thương ở chân, bèn dâng biểu cho Huệ xin miễn triều yết, tạm ở lại để điều dưỡng.
Năm Tân Hợi (Nguyễn Huệ niên hiệu Quang Trung thứ 4), quan Nội hầu Lân bắt được Tụ là em của vua Lê ở Bảo Lạc, và giết luôn cả nhà Diễn quận công. Khi trước Tụ dựa vào Diễn châu để lo bề khôi phục. Có kẻ đi tố cáo với Tư mã Sở. Tư mã Sở khiến Nội hầu dạy Diễn quận công bắt Tu mà giết đi. Nội hầu Lân bèn thác việc mở tiệc rượu. Cha con Diễn quận công cả thảy năm người đều được ban cho áo cẩm hoa bào và khăn là lụa hồng, đều ngồi mà yến ẩm, khi rượu đã say, Nội hầu Lân làm rớt cái mâm đồng làm hiệu, quân Tây Sơn bèn bắt cha con Diễn quận công mà chém. Nhân thế mới đặt trấn Hà Dương ngay ở đất ấy, để Ðô đốc Viên với 500 binh sĩ trấn giữ rồi trở về.
Ðồn Hà Dương đều bị giết sạch vì Tề. Trước thời tai nạn của Diễn quận công xảy ra, em của Diễn quận công là Tề ở ngoài cho nên được thoát, đến lúc ấy Tề họp các binh lính địa phương vây chặt đồn của Tây Sơn bắt hết binh lính mà giết sạch, chỉ có Ðô đốc một mình được chạy về, đến khi quân Tây Sơn đến bắt Tề thì Tề đã chạy đi đâu không biết.
Huệ đặt quan bí thư, mỗi tháng 6 lần chầu để giảng giải kinh sử. Huệ không có học cho nên không biết thư sách. Một ngày nọ Huệ hỏi quan bí thư rằng: “Trong sách có chép quá nhiều việc thế?” Quan bí thư thưa rằng: “Sách sử chép sự tích thiện ác của đế vương và lý do hưng phế để đời sau biết mà soi xét răn dè.” Huệ nói rằng: “Như thế thì từ xưa có ai nói đánh Tàu không?” Thưa rằng: “Nước ta có Trần Hưng Ðạo đánh quân Tàu ở sông Bạch Ðằng, Lê Thái tổ đánh quân Tàu ở thành Ðông quan, nhưng mà đều là đánh chúng tiến sang, chớ chưa có tiến sang Tàu mà đánh chúng.” Huệ nói rằng: “Ta nay sẽ đánh Tàu để ngươi xem”, (quan bí thư là người ở Ngọc Ðông, tỉnh Thanh hóa, tên họ chưa khảo ra).
Huệ xuống sắc lệnh cho Công viện vá lại chiến y, rồi lại gửi cho gia thiếp của các đại thần cất giữ, hẹn đủ hai mươi vạn chiếc áo để ban cấp cho quân sĩ thì ngày ấy sẽ đánh Quảng Tây mà cướp phá. Lúc ấy Huệ vừa vào trong viện để xem xét, thì có người thiếp của Thái úy Ðiều, họ Hoàng, giả vờ không biết có Huệ ở đấy, nói với đồng bọn rằng : “Nay quen thắng mà đánh Tàu, nhưng Tàu thì to mà ta thì bé, nếu rủi không thắng thì mới làm sao? Chẳng bằng cứ trị dân mà hưởng nước, việc gì phải đi tìm ở xa.” Huệ nghe được hét lên nói rằng: “Người kia là ai mà dám cản trở việc quân của ta ?” Liền sai đem người thiếp họ Hoàng ấy ném xuống biển. Thế rồi ngài lại hối hận mà nói rằng : “Người kia nói cũng hợp lý.” Huệ liền ra lịnh tha cho. Việc cướp phá nước Tàu bèn dừng lại. ( Người thiếp họ Hoàng là dòng dõi của viên đại tướng nhà Lê, Hoàng Nghĩa Giao ).
Lời phê bình – Nói một lời mà bãi được việc binh, cũng là người nhơn đức thay!
Năm Nhâm Tý (Nguyễn Huệ niên hiệu Quang Trung thứ 5) lúc ấy vợ chính của Nguyễn Huệ đã chết. Huệ sai Ngô Thì Nhậm đưa thơ sang Tổng đốc Quảng Tây để khiến cầu hôn với vua nhà Thanh.
Năm ấy Nguyễn Huệ mất. Tóc của Huệ thì quăn, mặt thì đầy nụt, có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ con mắt soi sáng cả chiếu, lúc lâm trận thì chế thắng, uy anh hùng lẫm liệt, cho nên mới bình định phương Bắc và dẹp yên phương Nam, hướng tới đâu thì không ai hơn được, tiếm vị làm vua được 5 năm, không lập pháp lịnh điều ước, việc thưa kiện đều do miệng ngài phân xử, tội tù thì phần nhiều dùng đòn mà đánh để trừng trị (đòn tục gọi là đùi).
Bầy tôi ở trong hay ở ngoài đều sợ oai của ngài, không dám can tội hối lộ. Thường ngày Huệ hay sợ đức Cao hoàng Gia Long ta, lúc đau nguy cấp, Huệ nói với kẻ bầy tôi rằng: ” Hắn sẽ phục quốc được “. Hoặc có kẻ thưa rằng: “Nếu hắn ra thì bọn hạ thần xin đánh”. Huệ nói rằng: “Ngươi chớ cho lời ta là nói láo, nếu hôm nay ta chết, thì ngày mai hắn ắt ra, nếu mai ta chết thì ngày sau hắn ắt ra. Ngươi còn sống, ngươi xem”. Nói thế Huệ liền mất. Con là Trát nối ngôi, đại xá tội phạm và cải nguyên (Trát môi trớt, răng to).
Luận rằng: Với tư chất nhỏ bé yếu đuối và đương tình thế nguy hại ấy, trong thì có Khang công và Tuyên công, nhu nhược một hai người lẻ loi non nớt, ngoài thì có Tư đồ (tên Dũng) và Thiếu phó (tên Diệu) dũng mãnh năm sáu vị vũ phu, Trát lại tranh thắng với Cao hoàng Gia Long ta, thì chắc hắn sẽ bị trói ngay trước mặt mà làm tù thì đáng lắm.
Năm Quý Sửu (Trát, niên hiệu Cảnh Thịnh năm đầu). Trát đến Thăng Long để nhận cho nhà Thanh sách phong, lúc ấy sứ giả nhà Thanh xin đến Phú xuân, Trát giả mạo xây cung mộ ở xã Hạ Hồi rồi nói dối là đường đi từ sơn Tây mà đi thì phải một tháng. Ði được nửa đường, sứ nhà Thanh nói rằng: “Ðây là đi về phía Tây, sao lại dối ta”. Bèn trở về Thăng Long làm lễ phong điếu.
Trát trở về Nam, tấn công thành Quy Nhơn bắt Tiểu triều và giết ngay trong ngày hôm ấy.
Năm Giáp Dần (Trát niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2), Cao hoàng Gia Long đem quân Hà Lang trở về đánh phủ Diên khánh và thắng được. Tướng giữ thành của Trát là Quyền quận công đem đội thủy quân đầu bên ta, rồi phóng lửa đốt thủy đồn Tây Sơn. Cao hoàng thừa thắng lấy thành Quy Nhơn và thành Hoàng đế.
Có kẻ hỏi rằng: Vua Lê dùng quân nhà Thanh, còn Cao Hoàng đế ta thì dùng quân người Âu, đều là dựa vào sự giúp đỡ của nước ngoài, mà Lê thì mất mà ta thì hưng, thì chẳng phải là lời sấm rằng: Tiên đồng đã trở về Bắc, đất nghiệm đã an bài, bảy đời thì trở về kinh đô, sách trời đã định trước, mạng trời đã khiến như thế hay sao? Rằng phế hay hưng vốn ở Trời, nhưng hơn hết là ở người. Vua Lê kia khen theo và hỏi nồi, thì chẳng phải là khí tượng đế vương thì làm sao mà đem so sánh với Cao hoàng Gia Long ta được thay! Thế là lý do thành bại của hai bên khác nhau vậy.
Quân doanh của Tôn Sĩ Nghị, tướng nhà Thanh, ở Bồ Ðề, vua Chiêu Thống đến đấy yết kiến Tôn Sĩ Nghị. Tôn Sĩ Nghị sai người đưa vua về cung, vua đi ngay qua chợ thấy một con heo to và một cái nồi đồng lớn, mới hỏi rồi đi. Khi người được sai đi đưa trở về thì Nghị hỏi rằng: “Ngươi thấy quốc vương cử động ra sao?” Người ấy kể lại đủ mọi việc đã thấy như thế. Tôn Sĩ Nghị mới than rằng: “Khen heo, hỏi nồi, chẳng phải là khí tượng của đế vương, thì bọn ta sẽ nguy mất.”
Tây Sơn từ năm Canh Tuất trở lại, thì mùa lúa so sánh có trúng hơn, trong nước bình yên (thóc một quan tiền được 100 đấu, dân chúng đều có chứa trữ, tiếng sáo lời ca có được nghe đó đây). Nhưng ở Bắc kỳ thì dân trí thức đều chán ghét triều Tây Sơn, mong được vì chân chúa. Từ sau khi Gia định đã dẹp yên rồi, mỗi lần gió nồm thổi, thì người ngoài đều nói rằng đó là gió của ông Chủng (Gia Long) vậy.
Lời bình luận: Lòng người quay về ai thì mạng trời ở đấy. Xem lòng người như thế thì Tây Sơn muốn không mất đi, và ta muốn không hưng lên thì có được chăng?
Trát đặt ở các xã huấn khoa để giữ việc thưa kiện trong xã.
Trát giết Lê Thái sư. Con của Lê Thái sư là Ðô đốc Lê Tôn Chất làm phản và đầu hàng bên ta.
Trát sai người đem mật chiếu đến Thăng long để giết quan Ðại đổng lý. Năm Kỷ Tỵ (Trát niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7), vua Càn Long nhà Thanh băng, Trát sai người sang lễ hương, tờ biểu có viết rằng :
“Viên Tản sơn thanh Lô thủy bích, vọng cùng thần quốc chi yên lam, đẩu xu tinh chuyển Nữ tu hàn, cảm động thiên gia chi vân vật (Ngô Thì Nhậm chi từ dã)”.
Nghĩa là :
“Núi Tản viên xanh, sông Lô biếc, trông ra xa cùng khỏi màn sương khói của nưoớc chúng tôi, thì thấy sao Bắc đẩu đã dời, sao Nữ đã mờ lạnh, mà cảm động cho cảnh vật của nước thiên triều phải ảm đạm vì có quốc tang (lời của Ngô Thì Nhậm)”.
Ðài Chân Vũ ở Thăng long có cây dung ngã chết mà lộc dựng lên, lúc ấy nuớc Ðại Man có sai sứ đến xem có nói rằng: “Thứ này nước phương Tây chúng tôi không có”.Lời bình luận: Cây dung là vật nhỏ nhen, thì làm sao ghi được một việc gì. Quốc gia sắp hưng thịnh thì ắt có điềm lành báo trước.
Khi vua Hiếu Tuyên trung hưng, thì có cây liễu đã chết ở Thượng lâm bỗng mọc đứng lên mà sống. Thế thì cây dung ấy mọc đứng lên mà sống là điềm lành ứng vào quốc triều hưng thịnh lại chăng, cho nên kính cẩn ghi chép. Năm Canh Thân (Trát niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8) mùa xuân, Phan Huy Ích vào yết kiến Trát, được Trát cho làm Lễ bộ Thượng thư, tước là Ðoan nham hầu.
Kho thuốc súng của Trát ở Thăng Long cháy.
Trát sai tướng Tư đồ và Thiếu phó đến vây thành Hoàng đế.
Năm Tân Dậu (Trát niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 9) tháng 5, đại quân của ta lấy lại Phú xuân. Trát chạy ra ở Thăng long. Lúc ấy Trát đã mất sào huyệt, nhưng vẫn hay khoe khoang để trấn áp lòng người.
Tháng 6, Trát tế ở đàn Tây hồ, lại cải niên hiệu là Bảo Hưng nguyên niên.
Quan Hộ bộ Tả thị lang Nguyễn Lượng có dâng lên bài Tây Hồ cảnh tụng, dùng quốc âm, lời rất thanh nhã, Trát mừng vui lắm (Lượng là người ở Phú thị, đỗ Hương cống triều Lê xưa).
Mùa đông Trát thi khóa sinh.
Tháng 11, Trát tế ở đàn Xạ đôi phố.
Năm Nhâm Tuất (Trát, Bảo Hưng năm thứ 2) tháng giêng, Trát dẫn Tuyên công, Khang công và các tướng đánh Hoàng sơn quan. Trát để Tư mã Ngoại và Ðại đô đốc Phong giữ Thăng long. Ngày mùng năm tháng hai, Tùng Lĩnh tướng quân là Nguyễn Chí (người ở Tây Ðảm) và Mai lĩnh hầu (người ở …tú, không rõ tên) cùng đánh Thăng long, mà không thắng. Tùng lĩnh tướng quân chết. Lúc trước hai ông là bầy tôi của nhà Lê. Nhà Lê mất, thầm có chí phục thù, Tùng lĩnh có tài hơn người, nhà giàu có, thường bị người ta khống chế, bị giam một năm ở quan Tư mã của Tây Sơn mới được thả ra.
Mai lĩnh hầu thông hiểu tinh tường toán số và binh lược, việc thường biết trước, được người ta gọi là tiểu Khổng Minh, mở quán ở Thanh Oai, cùng qua lại với Tùng lĩnh tướng quân, âm thầm kết giao với khách hào kiệt được 10 năm. Mai lĩnh hầu thường dùng cỏ thi mà bói để biết Tây Sơn hưng hay vong. Ðến khi quốc triều ra mật dụ cho các hào kiệt ở Bắc kỳ phải khởi nghĩa để tiêu diệt Tây Sơn, thì Tùng lĩnh tướng quân nói với Mai lĩnh hầu rằng phải khởi sự.
Mai lĩnh hầu nói rằng: “Tây Sơn sẽ mất vào năm Nhâm Tuất, trong khoảng mùa hạ mùa thu, khi phương Nam khí vượng lên thì tôi sẽ đánh lấy trước rồi sẽ quay về chầu Cao hoàng Gia Long cũng chẳng muộn. Nếu chẳng như thế thì quân đội phương Nam ra đoạt đầu công của ta”. Lúc ấy nhân Trát đi về Nam, bèn sang mật kế với Ðô đốc Tú để làm nội ứng, viết thơ hiệu triệu các hào kiệt trong bốn phương, hẹm đêm mồng 2 tháng hai giờ Tý đều dẫn binh đánh giết vào thành Thăng long.
Lúc ấy các đạo đã đến trước nhưng không thấy phát hiệu, đều tản ra đi mất, thì quân ở Tây Ðảm mới đến, Ðô đốc Tú nghe hiệu binh, bèn mở cửa thành ngoài. Tú cưỡi ngựa đi trước hai vị Tùng lĩnh, Mai lĩnh theo sau. Tú hô gấp lên rằng: “Giặc đến dưới thành, xin mở cửa ra đánh”. Tướng giữ thành đáp rằng: “Giặc đến thì chém đầu ngươi, cửa thành ban đêm không được mở”. Tùng lĩnh không thể làm sao được nữa, bèn đem lửa đốt phố xá trong thành rối loạn.
Tướng Tây Sơn muốn bỏ thành mà chạy, lúc ấy sắc trời đã sáng. Trên thành trông xuống chỉ thấy mươi người đi theo Tùng lĩnh, bèn phát binh ra đánh. Tùng công đã thoát thân đi trong đường phố. Có một viên giữ ngục nhận biết, cho nên Tùng lĩnh bị hại. Còn Mai lĩnh thì từ đấy ẩn dật dấu tông tích ở chốn chòi tranh, quên chí hồ thỉ tang bồng. Trong niên hiệu Gia Long, Mai lĩnh chết ở gia đình. Còn Tùng lĩnh về sau được quốc triều khen tặng. Có thơ khen rằng:
Âm :
Tối ái Mai Tùng
Lẫm liệt hàn đông
Nhất thời cộng sự
Thiên cổ văn phong
Công nan bất tựu
Nhân xưng kỳ trung
Mạc tương thành bại
Lệ luận anh hùng
Dịch:
Thương cây mai cây tùng
Chịu đựng mùa đông lạnh
Chỉ cộng sự một lần
Ngàn xưa lưu danh tánh
Tuy công khó chưa xong
Người người khen trung tín
Chớ thành bại xét công
Ðem anh hùng luận sách.
Tháng tư năm ấy, quân của Trát lén vào đồn Ðộng hải mà không thắng trận, thua to chạy trốn, quân ta thừa thắng đuổi dài. Quan Tư mã và quan Thiếu phó từ đường Quy nhơn chạy về đến Nghệ an đều bị bắt.
Tháng 6, xa giá của Cao hoàng Gia Long đến Thăng long. Khang công tự treo cổ, Trát và Tuyên công chạy về phương Bắc đến sông Xương giang đều bị quân ta bắt được (tháng ấy sương bay đầy trời), nhà Tây Sơn mất.
PHỤ CHÚ:
(1) Ðiểm này sai. Kinh đô Phú xuân đã bị Hoàng Ngũ Phúc chiếm từ năm Giáp Ngọ, Lê Cảnh Hưng thứ 35 (1774). Năm Ðinh Dậu, Cảnh Hưng thứ 38 (1777), Nguyễn Văn Nhạc xin Hoàng Ngũ Phúc được trấn Quảng nam, Nguyễn Văn Huệ đánh Gia định, giết Tân Chính vương và chúa Duệ Tông, chớ Tây Sơn chưa đánh kinh đô Phú xuân.
(2) Ðiểm này sai. Vua Hiếu Ðịnh, tức Duệ Tông đi đường biển vào Gia định năm Ất Vị (1775) chứ không phải năm Ðinh Dậu.
(3) Ðiểm này sai. Hoàng đế triều Nguyễn không có lần nào ở chung với Nhạc, và không có lần nào bị Nhạc xúc phạm.
(4) Ðiểm này sai. Mãi đến năm Giáp Thìn (1784) Nguyễn vương Ánh mới đi Xiêm, chứ không phải đi năm Ðinh Dậu (1777).
(5) Nói là Huệ có chí thôn tính Thuận hóa thì đúng hơn, chứ Nhạc không dám đánh Thuận hóa.
Trịnh Khải chứ không phải Trịnh Tùng, Tùng đã chết năm Quí Hợi (1623).
(6) Phái bộ Trần Công Xán, do Nguyễn Hữu Chỉnh đề nghị phái vào Phú xuân để xin Nguyễn Huệ trả lại đất Nghệ an cho nhà Lê, vì thế Nguyễn Huệ mới giận.
(7) Theo sử liệu hiện có, chúng ta chỉ biết “Ở mỗi huyện, vua Quang Trung đặt một Văn phân trị, một Võ phân suất, một Tả quản lý, một Hữu quản lý. Công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng; công việc của quan võ là cai quản và thao diễn quân lính”, còn Tả, Hữu quản lý thì ta không biết làm việc gì. Nếu đoạn này đúng với sự thật “Dùng người giàu có và thế lực ở địa phương làm huyện trưởng, khiến đốc suất lương thực cho quân đội…, cơ binh trong hạt được đóng đồn trong hạt…, mỗi tổng có sai một vệ binh đi tuần thám ban đêm”, thì ấy cũng là sáng kiến hay của vua Quang Trung để trị an trong thời loạn lạc.
Ðặc san TÂY SƠN – Xuân Bính Tý 1996