Trần Đình Tân 陳廷賓, Hà Trì

Trần Đình Tân 陳廷賓 (1893-1979), còn có tên là Trần Hữu Liệp, tự Lữ Tiên, hiệu Hà Trì, sinh ngày 19 tháng 10 năm Quí Tị (26.11.1893) tại thôn Cảnh Vân tổng Dương An phủ Tuy Phước, nay là thôn Cảnh An xã Phước Thành huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định. Con ông Tú tài Trần Hữu Nham tự Trinh và Quan viên mẫu Lê Thị Tâm. Ông Tú Trinh từng dựng cờ chống Pháp tại núi Thơm trong thôn Cảnh Vân vào năm 1886, được Bình Tây nguyên soái Mai Xuân Thưởng cử làm Tán tương Quân vụ. Ông nổi tiếng thông minh từ nhỏ. Năm 17 tuổi thi đỗ Học sanh. Năm 22 tuổi cùng với anh ruột là Trần Trọng Giải dự thi Hương tại trường Bình Định, khoa Ất Mão (1915) ông trúng Cử nhân thứ 11/18, ông Giải trúng Tú tài 27/36. Cuối năm 1919, sau khi chánh thất Bùi Thị Tư thất lộc, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Học. Năm 1928, ông được bổ làm Hậu bổ tỉnh Bình Thuận. Trong thời gian ở Bình Thuận, ông được hai lần quyền Tri phủ Tuy Phong, Hàm Thuận và thăng Kinh lịch (1932). Năm 1921, ông kết duyên cùng trưởng nữ của Tri phủ Đào Trọng Trấp (ông này là cháu kêu văn hào Đào Tấn bằng chú ruột) là Đào Thị Biêm tự Ngọc Mai hiệu Dược Thạch. Bà chung sống với ông trong thời gian ở Huế và Bình Thuận (qua 7 lần sinh chỉ được một gái một trai trưởng thành. Anh Trần Đình Phan là con của bà này). Bà thất lộc tại Bình Thuận vào năm 1930, chôn tạm xứ người, ba năm sau mới cải táng về quê ở núi Thơm. Năm 1933, ông kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Tiếp (Bà sinh được 3 gái, 3 trai, trong đó có tiến sĩ Trần Đình Sơn hiện là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học NewYork). Cũng trong năm này ông được thăng bổ làm Tri huyện huyện Hoài Ân thuộc tỉnh Bình Định. Năm 1941, hoán bổ làm Tri huyện huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên. Cuối năm 1942 được thăng bổ làm Tri phủ phủ Mộ Đức thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Cuối năm 1943 hoán bổ làm Tri phủ phủ Hoài Nhơn tỉnh Bình Định. Cuối năm 1944 được thăng bổ làm Thương tá Tỉnh vụ tỉnh Ninh Thuận (hàm ngang Án sát). Ninh Thuận là tỉnh nhỏ, có Tuần phủ là quan đầu tỉnh, Thương tá làm phó, quan hàm tùng Tam phẩm (3–2). Trong thời gian làm quan Nam triều, ông được ân thưởng Kim Tiền (1924), Long Bội tinh (lúc ở Bình Thuận), Cao Miên quốc vương bội tinh (lúc làm Tri huyện Hoài Ân), Kim Khánh (lúc làm Tri phủ Mộ Đức). Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau một tháng bàn giao mọi công việc hành chánh, tư pháp và quản lý kho bạc của tỉnh tại Phan Rang, ông được chính quyền mới giới thiệu trở về quê hương tham gia công tác địa phương. Ông đã lần lượt được giữ các chức vụ: Hội trưởng Hội phụ lão xã Phước Thành, Hội trưởng Hội Liên Việt xã Phước Thành, Trưởng ban vận động quỹ kháng chiến huyện Tuy Phước, Hội trưởng Hội Liên Việt huyện Tuy Phước, Ủy viên trong Ủy ban kháng chiến Hành chánh huyện Tuy Phước cho đến năm 1950 mới nghỉ việc vì bệnh mắt quá nặng, gần như mù. Năm 1955, hoà bình lập lại, ông vào Sài gòn chữa trị, mắt được sáng lại. Năm 1956, ông tham gia Hội Khổng học, được bầu làm Hội trưởng Văn chỉ Tuy Phước, rồi Hội trưởng Hội Khổng học tỉnh Bình Định cho đến đầu năm 1959. Năm 1959, đắc cử Dân biểu Quốc hội khoá 1959 – 1962 tại đơn vị Hoài Ân. Cuối năm 1962, ông được mời làm Hội trưởng danh dự Hội Khổng học Bình Định (ông Mạc Như Tòng làm Hội trưởng). Từ ấy, ông ở hẳn tại Qui Nhơn, đem hết tâm trí và thời gian đầu tư vào sự nghiệp trước tác. Tạ thế tại nhà số 250 đường Phan Bội Châu, thuộc thành phố Qui Nhơn vào ngày mùng 4 tháng 10 năm Kỷ Vị (23.11.1979), hưởng thọ 86 tuổi dương tức 87 tuổi âm. Hiện ông được thờ tại đây và tại Hà Trì tư đệ là Từ đường chính ở chánh quán Cảnh Vân – Tuy Phước. Hàng năm làm lễ giỗ ông vào ngày mùng 3 tháng 10 âm lịch. Sinh thời, ông trước tác rất nhiều, ngoài số đã thất lạc, hiện còn có: 1. HÀ TRÌ THI ĐỐI LIÊN VĂN TẬP bằng chữ Hán và chữ Nôm. 2. HÀ TRÌ THẢO BẢN bằng chữ Hán và chữ Nôm. 3. ĐIỂN CỐ TẦM NGUYÊN TRÍCH YẾU bằng chữ Hán 4. DANH NHÂN KIỆT TÁC TẬP BIÊN bằng chữ Hán 5. CHƯ DANH GIA ĐỐI LIÊN TẬP bằng chữ Hán 6. BIỂU XUYÊN ĐỐI LIÊN TẬP bằng chữ Hán 7. BIỂU XUYÊN DI CẢO bằng chữ Hán và chữ Nôm 8. VĂN TẾ bằng quốc ngữ 9. Y HỌC CẨM NANG TIỂU LỤC bằng quốc ngữ. Bộ sách thuốc này gồm 7 quyển do ông trích dịch và biên soạn từ các bộ sách: Thạch thất bí lục, Nghiệm phương tân biên, Biện chứng kỳ văn, Thọ thế bảo nguyên, Vạn bịnh hồi xuân, Nam Dương tập yếu, Y truyền bí lục (của thầy Hai Đặng ở Vinh Thạnh), Vệ sinh trị yếu (của ông Cử Huỳnh Bá Văn), Hải Thượng y tông tâm lĩnh, các phương hay gia truyền v.v... Các tác phẩm trên đều do các con ông bảo quản. Điểm qua những tác phẩm ấy, đồ sộ về lượng, vô giá về phẩm, xứng đáng được người đời trân trọng. Về nhân cách phẩm giá, ông được người đương thời là Lê Bính nhận xét rằng: “ông giữ được nếp sống cần kiệm liêm chính, không nịnh trên hách dưới, không khuất quị dưới áp lực nào nên làm quan chậm được thăng thưởng và chậm được đề bạt giữ các chức vụ quan trọng”. Và được người đời sau viết trong Trần tộc gia phả rằng: “ông là người hiền lành, thật thà, điềm đạm; sống cần kiệm siêng năng mực thước; rất kính yêu ông bà cha mẹ, rất hoà thuận với anh chị em, rất thương yêu đùm bọc con cháu; nhiệt tình giúp đỡ người nghèo khó. Suốt đời học tập nghiên cứu không biết mệt mỏi, chỉ rời quyển sách 15 ngày trước khi tạ thế... Ông luôn gắn bó với quê hương, đóng góp ý kiến và tài lực với anh ruột là ông Tú Giải trong việc xây dựng Từ đường, xây dựng trường học, truyền bá Quốc ngữ, mở mang tri thức cho con em trong vùng, tu tạo đình miễu chùa chiền chợ búa cầu cống đường sá v.v ... và trong việc tổ chức hoạt động từ thiện, cứu tế. Ông đã đóng góp được phần làm rạng rỡ cho tổ tiên, dòng họ, quê hương mình, là niềm tự hào của dòng họ và con cháu”. Với bấy nhiêu ấy, nhà Nho, nhà thơ, nhà biên tập Hà Trì Trần Đình Tân xứng đáng nhận lời tán thán: Đã nên lập đức lập ngôn Tiếng tăm cùng với nước non mãi truyền! (Lộc Xuyên Đặng Quí Địch) Trần Đình Tân 陳廷賓 (1893-1979), còn có tên là Trần Hữu Liệp, tự Lữ Tiên, hiệu Hà Trì, sinh ngày 19 tháng 10 năm Quí Tị (26.11.1893) tại thôn Cảnh Vân tổng Dương An phủ Tuy Phước, nay là thôn Cảnh An xã Phước Thành huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định. Con ông Tú tài Trần Hữu Nham tự Trinh và Quan viên mẫu Lê Thị Tâm. Ông Tú Trinh từng dựng cờ chống Pháp tại núi Thơm trong thôn Cảnh Vân vào năm 1886, được Bình Tây nguyên soái Mai Xuân Thưởng cử làm Tán tương Quân vụ. Ông nổi tiếng thông minh từ nhỏ. Năm 17 tuổi thi đỗ Học sanh. Năm 22 tuổi cùng với anh ruột là Trần Trọng Giải dự thi Hương tại trường Bình Định, khoa Ất Mão (1915) ông trúng Cử nhân thứ 11/18, ông Giải trúng Tú tài 27/36. Cuối năm 1919, sau khi chánh thất Bùi Thị Tư thất lộc, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Học. Năm 1928, ông… Hà Trì thi tập - 荷池詩集

Trần Đình Tân 陳廷賓 (1893-1979), còn có tên là Trần Hữu Liệp, tự Lữ Tiên, hiệu Hà Trì, sinh ngày 19 tháng 10 năm Quí Tị (26.11.1893) tại thôn Cảnh Vân tổng Dương An phủ Tuy Phước, nay là thôn Cảnh An xã Phước Thành huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định.

Con ông Tú tài Trần Hữu Nham tự Trinh và Quan viên mẫu Lê Thị Tâm. Ông Tú Trinh từng dựng cờ chống Pháp tại núi Thơm trong thôn Cảnh Vân vào năm 1886, được Bình Tây nguyên soái Mai Xuân Thưởng cử làm Tán tương Quân vụ.

Ông nổi tiếng thông minh từ nhỏ. Năm 17 tuổi thi đỗ Học sanh. Năm 22 tuổi cùng với anh ruột là Trần Trọng Giải dự thi Hương tại trường Bình Định, khoa Ất Mão (1915) ông trúng Cử nhân thứ 11/18, ông Giải trúng Tú tài 27/36.

Cuối năm 1919, sau khi chánh thất Bùi Thị Tư thất lộc, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Học.

Năm 1928, ông được bổ làm Hậu bổ tỉnh Bình Thuận. Trong thời gian ở Bình Thuận, ông được hai lần quyền Tri phủ Tuy Phong, Hàm Thuận và thăng Kinh lịch (1932).

Năm 1921, ông kết duyên cùng trưởng nữ của Tri phủ Đào Trọng Trấp (ông này là cháu kêu văn hào Đào Tấn bằng chú ruột) là Đào Thị Biêm tự Ngọc Mai hiệu Dược Thạch. Bà chung sống với ông trong thời gian ở Huế và Bình Thuận (qua 7 lần sinh chỉ được một gái một trai trưởng thành. Anh Trần Đình Phan là con của bà này). Bà thất lộc tại Bình Thuận vào năm 1930, chôn tạm xứ người, ba năm sau mới cải táng về quê ở núi Thơm.

Năm 1933, ông kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Tiếp (Bà sinh được 3 gái, 3 trai, trong đó có tiến sĩ Trần Đình Sơn hiện là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học NewYork). Cũng trong năm này ông được thăng bổ làm Tri huyện huyện Hoài Ân thuộc tỉnh Bình Định.

Năm 1941, hoán bổ làm Tri huyện huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên. Cuối năm 1942 được thăng bổ làm Tri phủ phủ Mộ Đức thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Cuối năm 1943 hoán bổ làm Tri phủ phủ Hoài Nhơn tỉnh Bình Định. Cuối năm 1944 được thăng bổ làm Thương tá Tỉnh vụ tỉnh Ninh Thuận (hàm ngang Án sát). Ninh Thuận là tỉnh nhỏ, có Tuần phủ là quan đầu tỉnh, Thương tá làm phó, quan hàm tùng Tam phẩm (3–2). Trong thời gian làm quan Nam triều, ông được ân thưởng Kim Tiền (1924), Long Bội tinh (lúc ở Bình Thuận), Cao Miên quốc vương bội tinh (lúc làm Tri huyện Hoài Ân), Kim Khánh (lúc làm Tri phủ Mộ Đức).

Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau một tháng bàn giao mọi công việc hành chánh, tư pháp và quản lý kho bạc của tỉnh tại Phan Rang, ông được chính quyền mới giới thiệu trở về quê hương tham gia công tác địa phương. Ông đã lần lượt được giữ các chức vụ: Hội trưởng Hội phụ lão xã Phước Thành, Hội trưởng Hội Liên Việt xã Phước Thành, Trưởng ban vận động quỹ kháng chiến huyện Tuy Phước, Hội trưởng Hội Liên Việt huyện Tuy Phước, Ủy viên trong Ủy ban kháng chiến Hành chánh huyện Tuy Phước cho đến năm 1950 mới nghỉ việc vì bệnh mắt quá nặng, gần như mù.

Năm 1955, hoà bình lập lại, ông vào Sài gòn chữa trị, mắt được sáng lại. Năm 1956, ông tham gia Hội Khổng học, được bầu làm Hội trưởng Văn chỉ Tuy Phước, rồi Hội trưởng Hội Khổng học tỉnh Bình Định cho đến đầu năm 1959. Năm 1959, đắc cử Dân biểu Quốc hội khoá 1959 – 1962 tại đơn vị Hoài Ân. Cuối năm 1962, ông được mời làm Hội trưởng danh dự Hội Khổng học Bình Định (ông Mạc Như Tòng làm Hội trưởng). Từ ấy, ông ở hẳn tại Qui Nhơn, đem hết tâm trí và thời gian đầu tư vào sự nghiệp trước tác.

Tạ thế tại nhà số 250 đường Phan Bội Châu, thuộc thành phố Qui Nhơn vào ngày mùng 4 tháng 10 năm Kỷ Vị (23.11.1979), hưởng thọ 86 tuổi dương tức 87 tuổi âm. Hiện ông được thờ tại đây và tại Hà Trì tư đệ là Từ đường chính ở chánh quán Cảnh Vân – Tuy Phước. Hàng năm làm lễ giỗ ông vào ngày mùng 3 tháng 10 âm lịch.

Sinh thời, ông trước tác rất nhiều, ngoài số đã thất lạc, hiện còn có:
1. HÀ TRÌ THI ĐỐI LIÊN VĂN TẬP bằng chữ Hán và chữ Nôm.
2. HÀ TRÌ THẢO BẢN bằng chữ Hán và chữ Nôm.
3. ĐIỂN CỐ TẦM NGUYÊN TRÍCH YẾU bằng chữ Hán
4. DANH NHÂN KIỆT TÁC TẬP BIÊN bằng chữ Hán
5. CHƯ DANH GIA ĐỐI LIÊN TẬP bằng chữ Hán
6. BIỂU XUYÊN ĐỐI LIÊN TẬP bằng chữ Hán
7. BIỂU XUYÊN DI CẢO bằng chữ Hán và chữ Nôm
8. VĂN TẾ bằng quốc ngữ
9. Y HỌC CẨM NANG TIỂU LỤC bằng quốc ngữ.

Bộ sách thuốc này gồm 7 quyển do ông trích dịch và biên soạn từ các bộ sách: Thạch thất bí lục, Nghiệm phương tân biên, Biện chứng kỳ văn, Thọ thế bảo nguyên, Vạn bịnh hồi xuân, Nam Dương tập yếu, Y truyền bí lục (của thầy Hai Đặng ở Vinh Thạnh), Vệ sinh trị yếu (của ông Cử Huỳnh Bá Văn), Hải Thượng y tông tâm lĩnh, các phương hay gia truyền v.v...

Các tác phẩm trên đều do các con ông bảo quản.

Điểm qua những tác phẩm ấy, đồ sộ về lượng, vô giá về phẩm, xứng đáng được người đời trân trọng. Về nhân cách phẩm giá, ông được người đương thời là Lê Bính nhận xét rằng: “ông giữ được nếp sống cần kiệm liêm chính, không nịnh trên hách dưới, không khuất quị dưới áp lực nào nên làm quan chậm được thăng thưởng và chậm được đề bạt giữ các chức vụ quan trọng”. Và được người đời sau viết trong Trần tộc gia phả rằng: “ông là người hiền lành, thật thà, điềm đạm; sống cần kiệm siêng năng mực thước; rất kính yêu ông bà cha mẹ, rất hoà thuận với anh chị em, rất thương yêu đùm bọc con cháu; nhiệt tình giúp đỡ người nghèo khó. Suốt đời học tập nghiên cứu không biết mệt mỏi, chỉ rời quyển sách 15 ngày trước khi tạ thế... Ông luôn gắn bó với quê hương, đóng góp ý kiến và tài lực với anh ruột là ông Tú Giải trong việc xây dựng Từ đường, xây dựng trường học, truyền bá Quốc ngữ, mở mang tri thức cho con em trong vùng, tu tạo đình miễu chùa chiền chợ búa cầu cống đường sá v.v ... và trong việc tổ chức hoạt động từ thiện, cứu tế. Ông đã đóng góp được phần làm rạng rỡ cho tổ tiên, dòng họ, quê hương mình, là niềm tự hào của dòng họ và con cháu”.

Với bấy nhiêu ấy, nhà Nho, nhà thơ, nhà biên tập Hà Trì Trần Đình Tân xứng đáng nhận lời tán thán:
Đã nên lập đức lập ngôn
Tiếng tăm cùng với nước non mãi truyền!

(Lộc Xuyên Đặng Quí Địch)
Trần Đình Tân 陳廷賓 (1893-1979), còn có tên là Trần Hữu Liệp, tự Lữ Tiên, hiệu Hà Trì, sinh ngày 19 tháng 10 năm Quí Tị (26.11.1893) tại thôn Cảnh Vân tổng Dương An phủ Tuy Phước, nay là thôn Cảnh An xã Phước Thành huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định.

Con ông Tú tài Trần Hữu Nham tự Trinh và Quan viên mẫu Lê Thị Tâm. Ông Tú Trinh từng dựng cờ chống Pháp tại núi Thơm trong thôn Cảnh Vân vào năm 1886, được Bình Tây nguyên soái Mai Xuân Thưởng cử làm Tán tương Quân vụ.

Ông nổi tiếng thông minh từ nhỏ. Năm 17 tuổi thi đỗ Học sanh. Năm 22 tuổi cùng với anh ruột là Trần Trọng Giải dự thi Hương tại trường Bình Định, khoa Ất Mão (1915) ông trúng Cử nhân thứ 11/18, ông Giải trúng Tú tài 27/36.

Cuối năm 1919, sau khi chánh thất Bùi Thị Tư thất lộc, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Học.

Năm 1928, ông…

Hà Trì thi tập - 荷池詩集

Bài liên quan

Phan Công Kế

Phan Công Kế (1854-1920) người xã Hà Trung, huyện Kỳ Anh (nay là xã Kỳ Châu), tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ đầu xứ nhưng thi Hương hỏng nên về nhà dạy học. Phan Công Kế nổi tiếng hay chữ. Ở Kỳ Anh có câu "Tĩnh Kế, Nghệ San (San tức là đầu xứ San, Phan Bội Châu). Thơ ông khá nhiều, cả thơ chữ Hán và thơ Nôm, ...

Vũ Phạm Hàm 武范邯

Vũ Phạm Hàm 武范邯 (1864-1906) là một người thông minh xuất chúng, đỗ Nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi triều nhà Nguyễn (lúc ông 29 tuổi), lịch sử Việt Nam chỉ có ông và Lê Quý Đôn (triều Lê) là đã làm được điều đó. Vũ Phạm Hàm sinh năm Giáp Tý (1864), quê ở làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà ...

Vô Ngôn Thông 無言通

Vô Ngôn Thông 無言通 (759?-826), là một vị Thiền sư Trung Quốc, đệ tử của Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820, Sư qua Việt Nam, ở tại chùa Kiến Sơ 建初, ngày nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, thành lập phái thiền Vô Ngôn Thông. Sư mất năm 826, và phái Thiền của Sư kéo dài được 17 thế hệ. Những Thiền ...

Vũ Thiện Đễ 武善弟

Vũ Thiện Đễ 武善弟 (1854–1916) tự Thuận Trai 順齋, hiệu Trang Khải 莊啟, quê làng Bách Cốc, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định (nay là thôn Bách Cốc, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Ông đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1891), đỗ Phó bảng khoa Nhâm Thìn (1892), trải giữ các chức Tri phủ Thanh Hà, Binh bộ Tham ...

Tăng Bạt Hổ 曾拔虎

Tăng Bạt Hổ 曾拔虎 (1858-1906) tự là Sư Triệu, hiệu là Điền Bát, tên thật là Tăng Doãn Văn, sinh ngày 19 tháng 7 năm 1858 tại làng An Thường, nay thuộc xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, nằm cách huyện lỵ Hoài Ân khoảng 3 km về phía Đông Bắc, cách thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định khoảng 90 km về phía Tây ...

Trần Quang Diệm

Trần Quang Diệm (1848-1907) hiệu Bút Khê Tử, người làng Bút Trận (Tân Đức, nay là xã Diễn Thái) huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Cha mẹ mất sớm, nhà nghèo, ông ở với hai chị nên việc học bị gián đoạn. Năm 28 tuổi, ông đậu cử nhân đồng khoa với Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhạ và được bổ nhiệm làm huấn đạo ...

Đới Thúc Luân 戴叔倫

Đới Thúc Luân 戴叔倫 (732-789) tên chữ là Ấn Công 幼公, người Giang Tô, làm quan đến Phủ Châu thứ sử.

Hàn Hoằng 韓翃

Hàn Hoằng 韓翃 tự là Quân Bình 君平 (thế kỷ thứ 8), người Nam Dương 南陽, thi nhân đời Đường, đỗ tiến sĩ năm Thiên Bảo thứ 13 (775). Ông nổi tiếng là một trong thập tài tử đời vua Đường Đại Tông (763-826).

Mã Phùng 馬逢

Mã Phùng 馬逢 năm sinh mất và tự không rõ, người Phù Phong, Tắc Châu (nay là huyện Phù Phong, tỉnh Thiểm Tây), sống khoảng năm Trinh Nguyên, Nguyên Hoà, đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 5 (789).

Lý Ngao 李翱

Lý Ngao 李翱 (772-841) tự Tập Chi 習之, người Thành Kỷ, Lũng Tây (nay thuộc đông Tần An, Cam Túc, Trung Quốc), đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên, làm quan đến Sơn Nam đông đạo tiết độ lang.

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...