Trách nhiệm pháp lý trong hợp đồng kinh tế
Khái niệm trách nhiệm tài sản Trách nhiệm tài sản là biện pháp pháp lý áp dụng cho các hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế đã quy định sẵn trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều 19 pháp lệnh ...
Khái niệm trách nhiệm tài sản
Trách nhiệm tài sản là biện pháp pháp lý áp dụng cho các hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế đã quy định sẵn trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều 19 pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: "Các bên phải chịu trách nhiệm tài sản trực tiếp với nhau về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng kinh tế. Bên vi phạm phải trả cho bên bị vp tiền phạt vp hợp đồng và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật".
Về mặt khách quan: Trách nhiệm tài sản trong hợp đồng kinh tế là tổng hợp các quy định pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội phát sinh của các chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế do vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế.
Về mặt chủ quan: Trách nhiệm tài sản được hiểu là sự gánh chịu hậu quả vật chất bất lợi cho bên có hành vi vi phạm hợp đồng.
Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm tài sản
Bên vi phạm hợp đồng kinh tế phải chịu trách nhiệm tài sản khi việc vi phạm hội đủ các căn cứ mà pháp luật quy định: Có hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm là có lỗi, viẹc vi phạm hợp đồng đã gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm.v.v...
Bên bị vi phạm và toà án cũng dựa trên căn cứ này để áp dụng trách nhiệm tài sản đối với bên vi phạm.
Căn cứ này bao gồm:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế. Đó là hành vi vi phạm thoả thuận trong hợp đồng. Các hành vi này thông thường là không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng với các cam kết trong hợp đồng.
- Có thiệt hại xẩy ra những thiệt hại này phải là thiệt hại vật chất tính toán được và thiệt hại phải có thực. Nội dung thiệt hại vật chất bao gồm: Những khoản mất mát hao hụt về mặt vật chất; những khoản chi phí bên bị thiệt hại bỏ ra ngăn ngừa, hạn chế thiệt hại; những khoản thất thu. Ben vi phạm phải chứng minh được bên vi phạm đã gây thiệt hại cho mình.
- Bên vi phạm có lỗi: Lỗi là thái độ chủ quan của bên vi phạm hợp đồng kinh tế, thể hiện ở sự vô ý hoặc cố ý trong việc thực hiện hành vi vi phạm. Bên bị vi phạm phải chứng minh được bên vi phạm có lỗi. Nếu hành vi vi phạm hoàn toàn do nguyên nhân khách quan thì bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của mình.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xẩy ra: Đây là mối quan hệ biện chứng giữa hành vi vi phạm với thiệt hại xẩy ra. Thiệt hại xẩy ra phải là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế.
Căn cứ miễn, giảm trách nhiệm tài sản
Như đã trình bày ở trên, bên vi phạm hợp đồng kinh tế chỉ phải chịu trách nhiệm tài sản khi lỗi dù là lỗ vô lý hay cố ý. Còn việc vi phạm hợp đồng kinh tế hoàn toàn là do khách quan không thể khắc phục được thì bên vi phạm hợp đồng không phải chịu trách nhiệm.
Theo pháp luật hiện hành, để được miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản thì bên vi phạm hợp đồng kinh tế phải có căn cứ để chứng minh được những vi phạm đó là do:
- Gặp thiên tai, địch hoạ hoặc trở lực khách quan khác không thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp để khắc phục;
- Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền do Thủ tướng Chính phủ, trưởng ban chỉ huy chống bão lụt trung ương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra lệnh.
- Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm nhưng bên thứ ba không phải chịu trách nhiệm tài sản do các trường hợp trên (thiên tai, địch hoạ... và thi hành lệnh khẩn cấp). Việc vi phạm hợp đồng kinh tế của một bên là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự vi phạm hợp đồng của bên kia.
Trách nhiệm tài sản (hay trách nhiệm vật chất phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế. Trách nhiệm tài sản bao gồm:
Phạt vi phạm hợp đồng
Phạt vi phạm hợp đồng là chế tài phạt bằng tiề áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng. Phạt vi phạm mang tính chất trừng phạt vật chất đối với bên vi phạm. Phạt vi phạm hợp đồng được áp dụng cho tất cả các hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng kinh tế mà không cần chứng minh có hoặc chưa có thiệt hại xẩy ra.
Tiền phạt vi phạm hợp đồng do các bên thoả thuận và ghi trong hợp đồng kinh tế dựa trên cơ sở khung tiền phạt do pháp luật quy định. Tại điều 29 pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định mức phạt chung đối với các loại vi phạm hợp đồng kinh tế từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Ngoài ta, tại điều 13 Nghị định 17/HĐKT (đã dẫn) quy định cụ thể khung hình phạt riêng cho từng loại vi phạm hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại là chế t ài vật chất được dùng nhằm mục đích bù đắp, khôi phục lại những thiệt hại thực tế về tài sản cho bên bị vi phạm. Nguyên tắc của bồi thường thiệt hại là bồi thường toàn bộ những thiệt hại và những thu nhập bị bỏ lỡ mà lẽ ra bên bị vi phạm có thể thu được do sự vi phạm hợp đồng kinh tế gây ra.
Căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đủ các căn cứ cho luật định.
Theo quy định của chế độ hợp đồng kinh tế bên có hành vi vi phạm chỉ phải bồi thường những thiệt hại thực tế xảy ra gồm giá trị tài sản bị mất mát, hư hỏng kể cả tiền lãi phải trả cho ngân hàng; các chi phí cần thiết mà bên vi phạm phải trả; Các khoản thu nhập mà lẽ ra trong điều kiện bình thường thì bên bị vi phạm sẽ thu được tổng số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và hoa lợi đáng lẽ được hưởng.
4. Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế
Theo quy định tại điều 12, khoản 1 pháp lệnh thủ tuch giải quyết các vụ án kinh tế do Uỷ ban thường vụ Quôc shội thông qua ngày 16/3/1994 thì tranh chấp hợp đồng kinh tế là những tranh chấp phát sinh giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Hay nói cách khác, là những tranh chấp phát sinh giữa các be en chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế. Đó là việc trong từng thực hiện hợp đồng kinh tế do một hay hai bên tham gia hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ của mình đã cam kết trong hợp đồng dẫn đến những vi phạm hợp đồng. Những vi phạm hợp đồng kinh tế này là do lỗi của bên vi phạm. Từ đó mà dẫn đến việc tranh chấp trong hợp đồng kinh tế.
Tranh chấp hợp đồng kinh tế là một trong các dạng tranh chấp kinh tế do dó nó có các phương thức giải quyết sau:
- Tự hoà giải (thương lượng) là do tự chủ thể của các b ên tham gia hợp đồng kinh tế tự giải quyết mà không có sự tham gia của người thứ ba. Có nghĩa là các bên trực tiếp gặp nhau để thương lượng, thoả thuận để tìm ra biện pháp thích hợp nhắt nhằm giải quyết các bất đồng do việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng gây ra. Đây là phương thức đơn giản không tốn kém và đặc biệt là đảm bảo được quan hệ hợp đồng giữa hai bên, đồng thời thể hiện tinh thần hợp tác, giữ uy tín đảm bảo bí mật kinh doanh cho nhau trong hoạt động kinh doanh.
Phương thức này cũng phải căn cứ vào luật pháp, vào các sự việc cụ thể xẩy ra trên cơ sở thiện chí của các bên. Hiện nay trong điều kiện nền kinh tế của nước ta,phương thức này được coi là phương thức giải quyết phù hợp đối với các tranh chấp hợp đồng kinh tế cũng như các tranh chấp kinh tế khác.
- Hoà giải: là phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế với sự hiện diện của người thứ ba với tư cách là trung gian để giúp đỡ các bên thoả thuận. Với trình độ kinh tế chuyên môn, kỹ thuật và uy tín của người trung gian, nhờ đó các bên tranh chấp trong hợp đồng có thể dung hoà được những lợi ích có tranh chấp và thực hiện được việc hoà giải thành.
- Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài: Đây là một phương thức giải quyết tranh chấp được pháp luật quy định, theo đó, thông qua hoạt động của trọng taif viên, việc tranh chấp hợp đồng kinh tế được giải quyết bằng một phán quyết mà hai bên quan hệ hợp đồng có tranh chấp phải thực hiện. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế mà các bên tham gia áp dụng khi việc giải quyết bằng phương thức thương lượng hoặc hoà giải không thành. Theo phương thức này, các bên được đảm bảo quyền tự do định đoạt như: lựa chọn tổ chức trọng tài, lựa chọn trọng tài viên.v.v...
- Giải quyết tranh chấp bằng Toà án: Phương thức này được quy định trong pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 là phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế do toà án tiến hành theo quy định của pháp luật. Theo đó, Toà án nhân danh quyền lực Nhà nước để ra một quyết định, hay bản án bắt buộc các bên tham gia hợp đồng kinh tế phải chấp hành thực hiện.
Việc áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế thường rất ít khi xẩy ra, trừ trường hợp khi hai bên không thể thương lượng, hoà giải hoặc không chấp nhận với phán quyết của trọng tài (nếu giải quyết bằng phương thức trọng tài) thì mới được ra toà án để giải quyết. Hơn nữa, giải quyết bằng phương thức này thường làm ảnh hưởng không tốt đến quan hệ, uy tín và bí mật của hai bên.
Như vậy, việc lựa chọn một trong các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế trên đây là quyền lựa chọn của các ben trong quan hệ hợp đồng kinh tế, căn cứ vào tính chất, phục vụ, mức độ phức tạp và thiện chí của các bên tranh chấp.
Trong thực tế, các hợp đồng kinh tế được ký kết thì trong nội dung của hợp đồng, các bên đều thoả thuận đem vào hợp đồng một điều khoản về việc giải quyết tranh chấp hợp đồng nhằm cho việc giải quyết nếu tranh chấp xẩy ra.
Ví dụ, trong hợp đồng có quy định: "Hai bên cam kết thực hiện các điều khoản trong hợp đồng, mọi sự thay đổi trong hợp đồng đều phải được hai bên nhất trí bằng v ăn bản. Nếu không thống nhất sẽ đưa ra Toà án kỹ thuật thành phố Hà Nội giải quyết....".
Đây là một trong các điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế mà hai bên tham gia hợp đồng thoả thuận đưa vào trong một hợp đồng cụ thể.
Trên đây là những quy định của pháp luật về hợp đồng kinh tế và sau đây là thực trạng áp dụng những quy định đó trong hợp đồng thuê nhà xưởng tại công ty Quan hệ Quốc tế đầu tư sản xuất (CIRI).