Tổng quát chung về địa chỉ IP
Vào tháng 9 nǎm 1981, IPv4 (Internet Protocol version 4) - bộ giao thức nền tảng Internet - đã ra đời. Trong 20 nǎm tiếp theo chúng ta đã thật sự thoả mãn khi sử dụng IPv4. Phiên bản giao thức Internet hiện hành này có độ dài địa chỉ 32 bit và có thể lưu ...
Vào tháng 9 nǎm 1981, IPv4 (Internet Protocol version 4) - bộ giao thức nền tảng Internet - đã ra đời. Trong 20 nǎm tiếp theo chúng ta đã thật sự thoả mãn khi sử dụng IPv4. Phiên bản giao thức Internet hiện hành này có độ dài địa chỉ 32 bit và có thể lưu trữ khoảng trên bốn tỉ địa chỉ. Tại Bắc Mỹ, nơi diễn ra nhiều quá trình phát triển, đa số các xí nghiệp được cấp phát vùng địa chỉ IP quá lớn nên họ không cảm thấy có sự thiếu hụt về địa chỉ. Bên cạnh đó, các giải pháp CIDR (Classless Inter-Domain Routing), NAT (Network Address Translation) và những kỹ thuật tương tự cũng đã và đang trợ giúp giải quyết sự thiếu hụt này. Nhưng với phần còn lại của thế giới, nhu cầu địa chỉ ngày càng lớn. Sự phát triển nhanh chóng trên mạng Internet, kèm theo sự gia tǎng nhanh chóng của các thiết bị nhận biết IP có thể định tuyến toàn cầu như điện thoại chia ô (cell-phone), trạm trò chơi video (video-game console) hay thiết bị trợ giúp cá nhân kỹ thuật số (PDA), và các nhu cầu kèm theo cho việc truy nhập Web không dây (vô tuyến) làm cho nguồn địa chỉ IP sẵn có ngày càng cạn kiệt. Chính vì điều này sơ đồ định địa chỉ sẽ phải thay đổi và mở rộng để có thể tạo ra nhiều địa chỉ hơn.
Trong hoàn cảnh đó, thế hệ kế tiếp IPv6 (Internet Protocol version 6) - còn được biết dưới tên IPng - đang dần được hoàn thiện. Phiên bản giao thức Internet mới này được định nghĩa bởi IETF (Internet Engineering Task Force), tǎng độ dài địa chỉ Internet từ 32 đến 128 bit. Ngoài việc tǎng vùng địa chỉ, IPv6 còn làm tǎng thêm chất lượng dịch vụ (Quality of Service), an toàn bảo mật, cấu hình tự động và nhiều tính nǎng ưu việt khác.
Lợi thế lớn nhất khi sử dụng IPv6 là việc tǎng vùng địa chỉ. Các địa chỉ IPv4 có độ dài 32 bit, được viết thành 4 nhóm 8 bit (1 byte); các địa chỉ IPv6 có độ dài 128 bit, được viết thành 8 nhóm 16 bit (2 byte). Một ưu điểm khác khi sử dụng IPv6 là bạn không còn cần phải ghi nhớ những địa chỉ IP nội bộ quan trọng, và đơn giản là bạn không có khả nǎng nhớ được. Ví dụ một địa chỉ IPv6 sẽ được biểu diễn như sau: E2A4 : C0FF : EE0B : EEF3 : 0924 : 00A3 : 0001 : A3B5. May thay, những chữ số 0 đầu tiên có thể được bỏ qua và địa chỉ này có thể được rút ngắn thành E2A4 : C0FF : EE0B : EEF3 : 924 : A3 : 1 : A3B5. Đây là một cải tiến quan trọng nhưng không phải là nhiều. Như vậy những địa chỉ IPv4 có thể được biểu thị trong khuôn dạng IPv6 một cách dễ dàng. Chẳng hạn, trong IPv6 ": : 10.1.1.5" mô tả địa chỉ IPv4 "10.1.1.5". Bạn sẽ không nhất thiết phải biến đổi địa chỉ IP từ cơ số 10 (decimal) sang cơ số 16 (hexadecimal). Hãy tin tưởng vào các hệ thống DNS của bạn để làm cho nó kết nối dễ dàng hơn với các máy chủ (host) nội bộ